Phụ chương
QUAN ĐIỂM THỰC DỤNG
KẾ SÁCH XÂY DỰNG LẠI CHẾ ĐỘ

    
ánh ngoài ắt phải yên được bên trong. Nước Thục yếu đuối muốn hoàn thành được sứ mệnh lịch sử khôi phục nhà Hán, ắt phải mau chóng tăng cường thực lực của mình, duy trì sự phát triển chính trị lâu dài, để đợi thời cơ chín muồi. Đấy cũng là đại sách lược lúc đầu chưa có thể thắng, bởi đợi kẻ địch yếu đi mà thắng được của binh pháp Ngô Tử.
Song đi đôi với chấn chỉnh nội bộ trước mắt, lại phải sớm ổn định ngoại giao. Sau khi Lưu Bị mất là thời kỳ quan hệ ngoại giao của Thục Hán hỗn loạn không ổn định. Cuộc chiến sau cùng ở Kinh Châu vừa rồi, bên địch bên ta không phân biệt được, Lưu Bị đông chinh, lại làm cho quan hệ Tôn Lưu càng thêm quyết liệt. Tuy trước lúc Lưu Bị “ra đi”, cũng đã lo đến tình thế khách quan, có ý hoà hoãn quan hệ căng thẳng với Tôn Quyền, song bởi tâm lý không ai tin ai, nhiệm vụ nối lại hợp tác là rất khó khăn.
Thời kỳ mới nắm đại quyền, Gia Cát Lượng hết sức cố gắng đổi mới cách nhìn sâu rộng của Thục Hán. Thục Hán đã thành một trong ba quốc gia lớn, lập trường cơ bản nếu không rõ ràng, chính sách lớn nếu bất định, thì rất khó tập hợp lực lượng trong nước, mất mục tiêu chung. Cho nên công việc cấp bách là ổn định vị trí với lân bang, cũng tức là đại sách lược ngoại giao liên Ngô chế Tào.
May mà, Gia Cát Lượng có những sứ thần ngoại giao tài giỏi như Đặng Chi, Phí Vỹ, Trần Chấn, giữ lập trường bình đẳng, với thái độ khá thành khẩn, bình tĩnh, nối lại được quan hệ hợp tác Tôn - Lưu từng đứt đoạn hơn một năm.
Với lập trường được xác định ngay từ Long Trung Sách, Gia Cát Lượng đã rất cố gắng tập hợp lực lượng nội bộ, để kiên trì được quốc sách cơ bản này. Về phương diện này Gia Cát Lượng đã chú ý khuyến khích nông nghiệp mọi mặt, đóng cửa bồi dưỡng sức dân, cũng tức là thủ thế hoàn toàn, căn bản tăng cường được lực lượng của mình, làm công việc chuẩn bị rất chu đáo. Trước nguy cơ ổn định chế độ, rất cần phải nhẫn nại và chờ đợi. Binh pháp đã rằng cần phải bất động như núi cũng là thái độ cần thiết của người lãnh đạo.
Gia Cát Lượng dưới trùng trùng áp lực lại rất bình tĩnh, bắt đầu từ khôi phục nông nghiệp, ổn định dân sinh, phát triển thủy lợi, làm các nghề muối, nghề sắt, dệt gấm, tăng cường thực lực kinh tế, lấy quốc phú an dân, đủ lương, đủ lính làm suy nghĩ hàng đầu, biểu lộ rõ ông ta là người quản lý tài giỏi.
Để ổn định ban bệ, người điều hành nói chung thường đề cao phương thức đãi ngộ vật chất và hưởng thụ, để thu hút tâm lực thuộc hạ đối với mình.
Nếu dẫn dụ bằng vật chất, đích xác là có hữu hiệu trong thời gian rất ngắn, song dục vọng của người ta lại vô cùng. Ví như Á Đương, Hạ Oa sau khi ăn quả ngọt, lại thoát ly với sự thuần phát vốn có. No ấm nẩy sinh dâm dật, sinh hoạt vật chất là chốn chẳng thể thoả mãn, bổng lộc rất lớn cũng chẳng làm cho người ta vừa ý. Nhân viên công vụ sau khi đời sống được cải thiện, chẳng những không an tâm công tác, lại vận dụng sự tích lũy nhiều hơn theo đuổi “cuộc chơi vàng bạc”.
Đương nhiên dùng thanh bạch để yêu cầu những nhân viên công vụ, trong xã hội hiện đại tựa hồ là rất ngốc nghếch không thực tế. Song lại là điều kiện tất nhiên để khôi phục ổn định quốc gia. Thái độ của các nhân viên công vụ Thục Hán lúc ấy, đặc quyền hoành hành pháp trị không tỏ rõ, nhiều người rất hám tiền. Bởi thế Gia Cát Lượng không thể không dùng thuốc đắng để cải thiện không khí xã hội.
Song lại quan trọng là thái độ của người lãnh đạo, Gia Cát Lượng làm việc rất triệt để, chẳng những bởi lấy mình làm gương thực hiện sinh hoạt đơn giản tiết kiệm mà còn yêu cầu những cán bộ quan trọng cũng phải chịu sống thanh bạch, làm được như vậy thực là chẳng dễ dàng gì. Đối với mình và gia nhân tựa hồ như tàn nhẫn, lại yêu cầu thuộc hạ phải làm được, chỉ riêng thành công này, Gia Cát Lượng đáng được xem là nhà chính trị vĩ đại nhất trong lịch sử.
Cuốn tiểu thuyết “Đức Xuyên Gia Khang” của Sơn Cương Trang Bát miêu tả Gia Khang bản thân khi tiếp cận với thành công, trái lại sinh hoạt của mình rất tiết kiệm, thậm chí đến cái ăn cũng rất giản đơn. Ông ta yêu cầu người phục vụ của mình phải xem xét sự ăn uống của mình sao cho đạm bạc; công việc rất nhiều, hưởng thụ lại rất ít, như thế mới có tư cách trở thành người lãnh đạo cao cấp. Gia Khang đối với ban bệ của mình rất chặt chẽ, thu nhập của người phục vụ rất ít, bởi thế ông ta biết rõ phải có đãi ngộ tốt thì thuộc hạ mới công tác tốt, thực là điều ông ta rất khó làm. Sơn Cương cho rằng chính sách khắc nghiệt của Gia Khang, lại là động lực rất chủ yếu để Mạc Phủ ổn định được.
Chính sách điều hành nước Thục của Gia Cát Lượng, với triết học khổ hạnh của Gia Khang, có cùng sự vi diệu của nó, xây dựng chế độ không thể dựa vào mồm mép là có thể làm được; nếu tự mình không giữ phép tắc, lại yêu cầu người ta giữ phép tắc, tự mình tham công hiếu lợi lại yêu cầu người ta đứng yên; tự mình thích quyền lực lại yêu cầu người ta phải hy sinh cống hiến. Thái độ lãnh đạo như vậy, sự thành công không nói đã rõ.
Chế độ không chỉ là giấy trắng mực đen, lại không chỉ là thông qua hình thức luận bàn, mà phải được sự tuân thủ của người bị trị, tâm phục khẩu phục. Tôn Tử binh pháp đã chỉ rõ, đạo lý phải được nêu tỏ để dân với cấp trên cùng một ý một lòng. Thực hiện pháp luật hà khắc, chỉ dùng điều luật với đời loạn, sẽ làm cho quyền lực chung không được tôn trọng. Trọng điểm của chính trị là dẫn đường chứ không phải ra oai, ví như nhân vật đại biểu cho pháp gia là Thương Ưởng cũng là lấy nêu gương làm tin, để tranh thủ nhân dân chấp nhận quyền lực. Chỉ một mặt hò hét nạt nộ, tưởng rằng tạo được uy tín, chẳng qua là mộng tưởng leo cây tìm cá mà thôi.