Chương 1

    
ăm 400, triều Đông Tấn
Quân đội vượt dòng Dương Tử. Ngựa hí vang, chiến xa rì rầm, kỵ binh và bộ binh gầm thét. Tất cả tạo thành một con trăn khổng lồ trườn đi chầm chậm.
Trong chiếc xe phủ trướng đen, Bà Mẹ Trẻ mê man. Nàng đã mất hết khái niệm về thời gian và không còn biết đất trời thay đổi. Con đường của các binh sĩ là một hành lang tăm tối và lạnh lẽo, cách biệt với thế giới bên ngoài. Cuộc đời nhà binh đong đếm bằng những hồi tù và rền vang ra lệnh tiến quân hay dừng lại, bằng những tràng trống lệnh tấn công hay rút lui. Bà Mẹ Trẻ không biết đến niềm vui. Nàng chỉ biết đến nỗi buồn. Dễ bị tổn thương và không có vũ khí, nàng buộc phải theo chân người đàn ông đã bắt được mình.
Gò má nàng hóp sâu. Tiếng rít vội vã của bánh xe và tiếng rì rầm đáng sợ của dòng sông đã chiếm lấy da thịt nàng. Tay và chân nàng sưng húp. Ngực căng đầy làm nàng đau đớn. Bụng nàng biến thành một mỏm núi chỉ toan phun trào nước và máu. Trong nàng, sự sống lao vào cuộc chiến khốc liệt chống lại thần Chết. Bằng một sợi thừng kiếm được giữa trận chiến, nàng buộc chặt cái bụng căng tròn vào cơ thể yếu ớt đang dựa vào một dải xương sống mỏng manh của mình. Nàng sợ đứa con rơi khỏi nàng và rớt khỏi chiếc xe. Trên đường, nơi nào quân sĩ đi qua, nơi đó chẳng còn người giàu kẻ nghèo, chỉ còn những thây người, những kẻ đói khát, những kẻ tha hương cầu thực. Ngựa giẫm đạp lên nhau, chiến xa và xe kéo nối đuôi nhau, binh lính chạy bộ theo hàng ngũ. Kẻ bị thương, kẻ bị bệnh, tất cả những ai ngã xuống mà không kịp bình phục, tất cả những ai bị bỏ lại phía sau đều bị thần Chết nuốt chửng, mang đi.
Chiếc xe rung giật dữ dội. Con đường mòn làm bánh xe kêu cọt kẹt. Bà Mẹ Trẻ mở mắt, ôm ghì lấy bụng mình. Bất ngờ, một mũi tên đâm thủng mái vòm, mũi của nó xé toạc tấm màn trướng. Bà Mẹ Trẻ hét lên thất thanh. Chiếc xe dừng lại. Ở đằng xa, tiếng tù và vang lại báo hiệu cuộc tiến công. Những tiếng hét lúc đầu còn nhỏ, sau đó lớn dần rồi lao thẳng vào nhau. Nàng nghe người phu xe thúc con la dữ dội. Chiếc xe rên rỉ rồi lại tiến về phía trước.
Bụng nàng co thắt mạnh. Cơn đau làm nàng phải gập người lại. Nước chảy ra giữa hai đùi nàng. Mũi tên thứ hai đâm thủng mái xe. Nàng trườn xuống sàn xe, co rúm người lại.
Bỗng một hồi vó ngựa kéo tới, kèm theo tiếng la của một tên lính:
- Lửa! Lửa!
Một giọng khác trả lời:
- Chúng bắn cung tên lửa vào xe lương thảo rồi!
Vó ngựa làm rung chuyển mặt đất.
- Nhanh! Phụ nữ và lương thực nhanh vào làng!
Lửa đã đốt sáng cả trời đêm. Lửa vẽ lên những tấm trướng đen họa tiết hoa đỏ rực. Cánh hoa rời rạc phồng lên rồi vung vẩy khắp nơi. Bà Mẹ Trẻ nghẹt thở. Nàng không còn phân biệt được tiếng bánh xe và tiếng ngựa hí, tiếng lính tráng chạy qua chạy lại la hét những khẩu lệnh vội vàng. Tiếng ầm ầm trở nên đinh tai nhức óc. Nàng nhắm mắt lại. Bà cố nàng đã sinh nở trong một chiếc xe bị kỵ binh và cung thủ của một bộ lạc du mục truy sát. Bà chết ngay tại chỗ để rồi đứa bé đã phải bú sữa của người chết.
Số mệnh đã đeo đuổi gia đình nàng hay sao?
Nàng sinh ra trong một thị tộc danh giá ở đất Trung Nguyên. Dòng máu quý phái của tầng lớp thượng lưu chảy trong nàng. Từ thuở xa xưa, tầng lớp thượng lưu đã thường giao du và kết hôn với nhau. Là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, họ không cần phải đóng thuế cho triều đình, cũng không phải thực hiện nghĩa vụ với các hoàng đế và sống tự cung tự cấp ở miền quê.
Tổ tiên của nàng từng sở hữu những thửa đất mênh mông ở Trung Nguyên. Một kỵ binh phải mất hai con trăng mới đi hết một vòng quanh các cánh rừng, đồng cỏ, ruộng nương, làng mạc và điền trang của tổ tiên nàng. Khi các bộ tộc dã man dồn quân lính Hoa Hạ vào bước đường cùng, thị tộc cũng buộc phải rời bỏ Trung Nguyên, vượt dòng Dương Tử sang bờ Nam lánh nạn. Một vương triều được dựng lên, mang tên Đông Tấn.
Mồ hôi của những kẻ lưu đày tưới đẫm bờ Nam, làm mọc lên vô số các thị thành. Giới thượng lưu đã đánh mất tài sản nhưng vẫn giữ những thói quen của tầng lớp mình và sống tự cung tự cấp, cách xa kinh đô mới mở. Trong khi chờ đợi lấy lại được bờ Bắc, họ khai khẩn đất hoang, tưới mát các ngọn đồi và ruộng rẫy. Cung điện, đền đài, vườn tược còn cao hơn và đẹp hơn những gì để lại cho những tộc người dã man.
Với khí hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ, nghề trồng lúa nước và bông vải cùng nghề nuôi tằm lấy lụa đã phát triển mạnh mẽ; kỹ thuật dệt và kỹ thuật kim hoàn mở rộng trong dân chúng. Giao thương cũng phát đạt không kém. Khi đã giàu có, các thương nhân ngày càng có tầm ảnh hưởng rộng, mặc cho họ xuất thân từ tầng lớp thấp nhất của xã hội.
Giới thượng lưu không thích thay đổi. Cuộc sống của họ bình ổn. Họ để cho hoàng đế và chính quyền địa phương toan tính việc quân. Cầm kỳ thi họa và các suy tư triết lý mới là thú tiêu khiển của họ. Vào mùa xuân, họ đi du ngoạn bên bờ hồ, ngắm lũ cò trắng sải cánh trong sương mờ; mùa hè, họ chơi nhị cầm và tiêu sáo dưới ánh trăng; mùa thu, các cuộc tranh tài thi ca diễn ra trong chén tạc chén thù cùng thịt cá tươi ngon; mùa đông, những khúc hát dịu ngọt của phương Nam làm những thế hệ trẻ chẳng còn muốn quay về Trung Nguyên, nơi mùa đông khắc nghiệt trong bão tuyết mịt mù.
Bà Mẹ Trẻ chưa ăn uống gì từ đêm qua, nhưng nàng chẳng thiết tha. Tay nàng tìm kiếm trong chiếc xe rồi lôi ra một chiếc túi da cừu có mùi tởm lợm khiến nàng buồn nôn. Nàng phải ăn để có sức sinh nở. Nàng phải cố cử động cái miệng rét cóng và nuốt ực một ngụm nước chua lòm. Nàng cầm lấy một nắm cơm đã lạnh khô và mở banh cổ họng để nuốt vào từng hạt. Nàng thèm chút trà thơm vị mận xanh mà nàng uống hồi mùa hè nào đó trong một chiếc tách mã não trắng. Nàng còn nhớ tất cả các bộ tách trà được dùng theo từng mùa: trà hạt sen, trà cẩm tú cầu, trà bột vừng, trà mộc qua, trà hoa đào. Nàng tiếc đã không thể nào giữ lại trên đầu lưỡi chút hương vị ngày xưa. Làm sao nàng còn có thể nuôi dưỡng cái vẻ huy hoàng phù phiếm đó chứ?
Những mũi tên xé gió cắm phập vào tấm vải bạt của chiếc xe. Con la hí lên như bị cắt tiết. Bà Mẹ Trẻ ép mình sát mặt đất. Đã lâu thật lâu nàng không có tin tức gì về hôn phu. Nàng không biết chàng có còn sống hay không.
- Á!
Tiếng thét của người phu xe làm nàng run lẩy bẩy. Nàng bò lên, vén cánh cửa sổ nhỏ. Một mũi tên cắm vào vai của cái bóng đen ấy. Mặc dù bị thương, ông vẫn một tay nắm chặt dây cương còn tay kia đánh thúc con la.
Lính tráng là một dòng giống khác. Như những cánh chim lượn trên sông Dương Tử và trú trong mỏm núi, họ sống với nhau, xa cách cuộc sống thường nhật bên ngoài. Nàng không biết tên tuổi của người lính này. Chẳng hề biết nhau, họ lại trở thành bạn đường trên chuyến đi chết chóc này. Tại sao ông ta không dừng lại? Tại sao ông ta không bỏ mặc chiếc xe và bỏ trốn? Tại sao ông ta ngoan cố cầm cương? Những chiếc bánh xe rên xiết và xoay đều. Hoàn toàn tập trung và im lặng, ông ta đánh xe xé toạc đêm đen, không bao giờ nhìn lại phía sau.
Trước khi hôn phu của mình ra đi, nàng từng xin chàng một lưỡi dao nhọn.
- Để làm gì? - Chàng hỏi nàng.
- Dù cho chàng đã bắt cóc thiếp nhưng thiếp đã là vợ của chàng và thiếp chấp nhận số phận này. Thiếp muốn có thể tự sát nếu những kẻ thù của chàng chẳng may bắt được rồi làm nhục thiếp. Thiếp không muốn làm chàng mất danh dự.
Chàng không thể hiểu nổi.
- Nàng rất xinh đẹp, eo nàng thon thả, - chàng trả lời. - Hãy đi theo kẻ cho nàng một túp lều để ở và một đĩa cơm để ăn. Hãy quên ta đi.
Bà Mẹ Trẻ lạnh run. Cơn đau lại ập đến nơi bụng dưới của nàng, nhưng nỗi lo phải sinh hạ trong bão lửa và cung tên còn lớn hơn cơn đau này nhiều.
Những hình ảnh ấu thơ đầu tiên của nàng là những chiếc nồi bạc bắc trên bếp đất sét nung. Nô lệ mặc áo xanh áo hồng, lũ lượt thay than trong lò. Những thang thuốc sôi ùng ục trong nồi hay đang nguội đi bên cạnh những ngọn lửa tỏa ra mùi hương ngọt ngào và cay cay khắp phòng. Mẹ Lưu cầm một cái chén tới gần. Ánh mắt bà hiền hòa mặc dù khuôn mặt bà nghiêm nghị. Bà vừa thầm thì vừa mím môi:
- Uống đi con gái. Con bị ốm rồi… Con ốm nặng rồi. Mở miệng ra nào… Đúng rồi… Như vậy…
Giọng nói này làm nàng sợ và nàng không kháng cự được khi chén thuốc đến gần.
Mặc cho nàng nước mắt đầm đìa, Mẹ Lưu đỡ nàng dậy rồi đổ chất nước đen ngòm vào miệng nàng. Nước thuốc chua lòm làm nàng nghẹt thở. Hai thái dương nàng kêu ù ù. Giọng Mẹ Lưu của nàng nghe lúc được lúc mất:
- Uống đi… rồi con sẽ khỏe lại… Con sẽ có một người chồng tử tế và một bầy con ngoan…
Chàng trai trẻ nhấp một ngụm trà, không trả lời. Lưu Bé Bự cũng nâng chén, suy nghĩ một chốc rồi nói, giọng thương xót:
- Ông thợ đàn già nua khỏe không? Đã lâu rồi không thấy vào thành. Hay là lão ấy bệnh rồi?
- Sư phụ tôi vẫn khỏe, cảm ơn ông quan tâm.
- Thẩm Phong à, ta là bạn với sư phụ cậu từ lâu rồi, ta biết lão ấy từ triều trước kìa. Đừng có dối ta. Sao dạo gần đây đàn toàn do tay cậu làm cả chứ? Sư phụ cậu đâu? Lão bận đàm đạo với thầy pháp cả rồi sao?
- Ít có người đặt làm đàn. Tôi làm là đủ.
Lưu Bé Bự cười gian xảo.
- Ta đã nói với sư phụ của cậu rồi mà! Mà lão có nghe ta đâu kia chứ! Ở phương Bắc, các vương triều man rợ chém giết nhau mãi. Còn ở đây, xứ mình thì nội chiến tàn khốc quá. Hai bên dòng Dương Tử giờ chiến tranh kinh hoàng làm hỏng hết lỗ tai và bóp nghẹt hết tâm hồn rồi. Quý tộc chẳng còn dạy dỗ lũ trẻ nữa, còn người nghèo thì chết đói hay tòng quân cả rồi. Chả còn ai ham học đàn, học nhạc nữa. Trước đây, ta đón những văn nhân thi khách thượng hạng của xứ Trung Nguyên. Giờ thì chỉ có đám tiện dân hầu bao đầy vàng ngọc là lui tới chỗ ta thôi. Chúng nó mua hàng rồi chẳng quay lại nữa. Vì ngay sau đó chúng bị chém đầu cả rồi! Chẳng còn nhiều người đặt hàng nữa âu cũng là lẽ đương nhiên. Thiên hạ lầm than quá, lầm than quá. Thẩm Phong, cậu nghĩ gì vậy?
Chàng không nghĩ gì và cũng không bàn tán gì. Thiên hạ lầm than cũng như đôi giày cũ kĩ làm từ lông cừu mà chàng đi ngoài đường sá, cũng chẳng khác gì tình trạng của chàng. Chàng định đi nhưng tay buôn đồ cổ giữ chàng lại:
- Trước khi đi, hãy nghe ta nói. Sư phụ cậu già rồi. Kệ lão ấy nếu lão chẳng nghe ta nói. Còn cậu, cậu còn trẻ, cậu phải nghĩ tới tương lai của mình. Há chẳng phải cậu muốn lấy một cô vợ xinh đẹp, sinh hạ cho cậu con đàn cháu đống sao? Cuộc đời chốn sơn lâm mãi võ chả hấp dẫn gì những cô gái đâu. Rồi để ăn no mặc ấm thì cần phải có tiền. Phải trả tiền cho hết bà mai rồi tới gia quyến nữa. Không có tiền, cậu chỉ lấy được hạng đui què mẻ sứt hay điên điên khùng khùng thôi… Hoặc là không bao giờ cưới được vợ, vì giá phụ nữ tăng lên qua từng cuộc chiến tranh…
Ánh mắt chòng chọc của Lưu Bé Bự làm chàng đỏ mặt đến tận mang tai. Thẩm Phong có cảm giác Lưu Bé Bự đọc được từng giấc mơ ban đêm của chàng. Chàng nhấp thêm trà để xóa nỗi hoang mang. Nhưng giọng nói của tay buôn đồ cổ lại vang lên:
- Thời nay chẳng mấy ai biết nghe nhạc. Nghệ thuật chơi đàn cổ cầm tiêu biến rồi mà cái vinh dự có được một cây đàn thì vẫn còn. Những quan lại mới nổi và quan lại triều đình vốn ngày xưa chỉ là những kẻ hèn mạt, những ông hoàng này ngày xưa chổng mông cặm cụi ngoài đồng giờ lại đâm ra mê những đồ cổ còn sót lại qua nhiều cuộc chiến. Kẻ nào cũng mơ có được một cây đàn cổ cầm cổ trên bàn để ra vẻ quý phái và có học. Khi chúng mua đàn, chúng thích tán dương lẫn nhau. Vì chỉ có những kẻ giàu có và uy quyền nhất mới mua được đàn đắt nhất. Cách đây tám tháng, ta bán được một cây từ thời Tam Quốc mà theo truyền thuyết là cây đàn của tướng quân Chu Du nhà Đông Ngô. Cậu đoán giá chót xem bao nhiêu…
Khuôn mặt Lưu Bé Bự nhăn lại như bông hoa lài. Y ghé sát tai Thẩm Phong thì thầm:
- Không ít hơn một trăm lượng vàng ròng.
Lưu Bé Bự đứng dậy, đi ra phía sau tấm màn gió có bức vẽ thư pháp tuyệt đẹp khảm xà cừ, rồi đi ra với một hòm gỗ thếp màu tím có hoa bằng vàng trong tay. Y quỳ gối, cẩn thận đặt nó lên thảm, lấy đai chìa khóa trên thắt lưng rồi chọn một chiếc mở cái khóa. Y nhấc một vật được quấn nhiều lớp vải lên. Y nhẹ nhàng tháo băng vải, để lộ ra một cái bao tre hơi tã rồi lôi ra một cây đàn đầy cát có một góc đã hỏng.
- Một kỳ quan chứ hả? Đích thị là vậy! Này, chạm vào nó xem! - Lưu Bé Bự vừa nói the thé vừa đặt nó lên đầu gối của chàng thợ đàn trẻ.
Thẩm Phong thổi bụi trên mặt đàn rồi nâng vạt áo chùi từng chút. Thoạt nhìn, chàng nhận thấy đó là một cây đàn có nước sơn cũ lắm rồi, mang trên mình những vết rạn hình vảy cá. Chàng đem nó ra ánh sáng rồi quay ngược nó lại. Bên dưới, một cái tên được khắc theo kiểu khắc trên trống vàng đã bị phai đi nhiều. Duỗi thẳng tay cầm, chàng ngắm nghía nó ở xa một chút. Dù nhạc cụ đã được đẽo theo kiểu phổ thông nhất dưới thời Hán, nó vẫn không có được vẻ thanh thoát vốn có của thời ấy. Chàng trả nó lại cho Lưu Bé Bự mà không nói lời nào.
- Nhìn nó lần nữa đi. Chẳng thể ngắm được vẻ đẹp nào tương tự nó đâu. Nó là kỳ phẩm thời nhà Hán vinh hiển đó. Thật kỳ diệu, nó đã thoát khỏi những bộ tộc dã man cướp phá và sống sót qua chiến tranh! Cậu có biết nó thuộc về ai không? Thuộc về nàng Sái Văn Cơ, tác giả của Bi phẫn thi và Hồ già thập bát phách. Cậu không muốn thử âm thanh của nó hay sao? Cậu có muốn lên dây ngay tại chỗ không?
- Không. Không cần. - Thẩm Phong trả lời. - Cây đàn cổ cầm thời Hán giả sẽ tạo ra những âm thanh đục ngầu: nó dùng để trang hoàng bàn ăn hoặc để treo trên tường, không dành cho nghệ sĩ. Cảm ơn vì chén trà. Xin phép ông cho tôi được đi.
Khuôn mặt của tay buôn đồ cổ méo xệch. Y hết nhìn cây đàn rồi nhìn chàng thợ đàn trẻ tuổi. Bất thình lình, y bật cười.
- Được. Được lắm. Nó là đồ giả đó! Ta muốn thử mắt cậu thôi! Sư phụ của cậu nói với ta, lão đang nuôi dạy một thiên tài. Ta nghĩ lão bốc phét. Nhưng lão đã không dối ta! Thẩm Phong, ta cần cậu và cậu cần ta. Ta muốn cậu làm cho ta một cây đàn theo kiểu thời nhà Hán sao cho người ta không bao giờ nghi ngờ nó là đồ giả. Ta sẽ cho cậu một phần tư tài sản của ta.
Thẩm Phong nghiêng người lần nữa rồi đứng dậy.
- Xin thứ lỗi. Tôi phải đi.
Tay buôn đồ cổ nhảy phóc dậy, mặc dù y rất nặng nề, rồi biến mất sau tấm màn gió trước khi nhanh chóng trở lại.
- Hãy cầm lấy, một món quà. Cuốn Hồ già thập bát phách. Cẩn thận, nó đã được sao chép từ bản viết tay ở thư khố triều đình Đông Ngô. Trong số những phiên bản còn tồn tại, nó nổi tiếng là trung thành nhất với bản gốc.
Thẩm Phong muốn từ chối nhưng tay chàng đưa ra nhận cuốn sách dù không hề muốn. Chàng gần như giật nó từ tay gã buôn đồ cổ rồi cúi người thật thấp.
- Không cần cảm ơn, - Lưu Bé Bự hoan hỉ nói. - Hãy nghĩ tới đề nghị của ta. Chúng ta sẽ kiếm được rất nhiều tiền đó!
Nhìn chằm chằm khuôn mặt của người thợ đàn trẻ tuổi, y hớn hở nói đến bắn cả nước bọt:
- Con gái của nhà thơ vĩ đại Sái Ung là nàng Sái Văn Cơ từng bị người du mục bắt. Trong mười hai năm, nàng đã sống trong gió phương Bắc, giữa ngựa và cừu, nàng đã viết mười tám điệu phách cho đàn cổ cầm để thể hiện nỗi buồn và thương nhớ quê nhà. Nàng đã được Tào Tháo chuộc lại bằng một xe chở đầy vàng ngọc, châu báu cho người man di. Theo thiển ý của ta, một cây đàn nàng từng chơi chắc sẽ có giá ít nhất là hai trăm lượng vàng ròng. Được rồi… ta có một vụ hay hơn… Khi nàng Sái Văn Cơ trở về Trung Nguyên, nàng đã tặng cây đàn của nàng cho Tào Thực, là con thứ hai của Tào Tháo. Cũng là một nhà thơ nổi tiếng giống cha là Tào Tháo, Tào Thực bị anh mình là Tào Phi giết vì ghen tài. Tào Phi soán ngôi, lật đổ triều Hán, lập triều Tào Ngụy. Sau đó, cây đàn này đã thuộc về bộ sưu tập của các hoàng đế. Nhưng hỡi ôi, trong cuộc chinh phạt cuối cùng của người man di, nó đã bị một con hầu trong triều cướp mất rồi trốn thoát khi triều đình vượt sông Dương Tử. Một trăm năm sau, ta, nhà buôn đồ cổ họ Lưu, tìm được nó trong nhà một người nông dân. Sao ta lại nói nó thuộc về nàng Sái Văn Cơ ư? Nghe này Thẩm Phong và ghi nhớ trong lòng cậu, bởi vì trên lưng nó được khắc tên là…
Lưu Bé Bự ngừng lại, đằng hắng rồi vừa phủi phủi tay vừa nói tiếp:
- “Đàn du mục”! Cây đàn nào cùng tên, ta sẽ bán ba trăm lượng vàng! Nói xem, ta phải để dành một phần tư số tiền kiếm được cho kẻ môi giới, rồi ta đưa cậu một phần tư trong khoản còn lại, cậu sẽ có nhiều tiền vàng lắm đó. Lấy đó mà mua một ngôi nhà trong thành cho cậu và sư phụ của cậu, hầu gái và nô bộc sẽ vây quanh cậu, rồi cậu sẽ có một đám cưới đẹp như mơ.
Thẩm Phong ngập ngừng một thoáng rồi trả cuốn sách lại cho tay buôn đồ cổ.
- Tôi không thể. Sư phụ và tôi không phải là kẻ làm đồ giả. Chúng tôi không giữ được thanh danh nếu làm như vậy.
Một nụ cười nhếch mép hiện trên khuôn mặt của tay buôn đồ cổ nhưng y vẫn tiếp tục cười nói.
- Giữ cuốn sách đi. Cậu làm vậy khác gì sỉ nhục ta! Thậm chí, nếu cậu không làm cây đàn cho ta, thì hãy cứ giữ món quà này! Vì âm nhạc.
Tới cửa, y đưa tay phải lên che miệng rồi thì thầm:
- Đừng nói với ai nhé! Bí mật đấy. Đi đi, về nhanh lên. Đừng có ngớ ngẩn. Cậu đang ở tuổi lập thất. Sư phụ cậu sẽ rất vui nếu có cháu chắt đó!
Hai cô hầu trẻ cúi người nâng rèm cửa, tươi cười:
- Kính chào đại nhân!
Thẩm Phong đi xuống đường, Lưu Bé Bự đi theo.
- Bí mật là ở chỗ: Cổ nhân đã không ghi chú trong kinh thư nhà Hán hình dáng và những điểm đặc biệt của những cây đàn thuộc về nàng Sái Văn Cơ. Tùy cậu đấy…
Thẩm Phong đi giữa đường, giữa những tiếng ồn ào. Chàng sờ ngực mình. Cuốn sách nhạc vẫn ở đó, dính chặt vào ngực chàng. Như thể nó đánh thức chàng ra khỏi một giấc mơ hỗn loạn và không màu sắc; một cảm giác lạ lùng, sung sướng lẫn buồn bã, ghê tởm lẫn hy vọng choàng lấy chàng.
Những giọng nói lảo đảo, tung vào nhau, văng tục và đáp trả nhau. Những con buôn nay đây mai đó hết lời ca ngợi điều kỳ diệu ở những nồi niêu, xoong chảo, hũ lọ, vải vóc, đồ ăn thức uống, rồi thổi cả ống sáo để gây sự chú ý của khách. Những người bán hàng thuê những đứa trẻ con giọng còn thanh để chèo kéo người qua đường. Các nhà sư hành hương đi ngang qua thành thì gõ gõ chuông đồng. Ở một góc ngã tư, người làm xiếc nhào lộn theo nhịp trống hoặc đấu kiếm với nhau trong khi những đứa trẻ đánh cồng bằng đồng và xướng to công dụng của các loại thảo dược làm người chết bỗng sống lại và làm kẻ bất lực bỗng trở nên mạnh mẽ trên giường. Tất cả những âm thanh đó nhét đầy tai chàng. Như những trái chín bị một bàn tay vô hình vò nát, những âm thanh đó biến thành một ngụm rượu nhỏ thơm nồng.
Thẩm Phong không quen cô gái nào cả. Ở vùng núi Bắc, trong làng, phụ nữ giống hệt đàn ông. Họ còn mạnh khỏe hơn đàn ông, ngày ngày địu con trên lưng đi làm ruộng. Họ cắt tiết thỏ rừng và vặt lông gà lôi trước cửa nhà giữa một vũng máu tươi. Khi gặp mâu thuẫn với hàng xóm, họ phỉ báng nhau rồi ẩu đả. Khi đàn ông bị ngã xuống vực hay bị hổ báo tấn công, cũng chính họ sẽ cầm lấy cung tên và rìu. Những góa phụ có thể đi săn, đẽo gỗ, đi vào thành bán rau quả và thịt thú rừng săn được.
Cậu bé chơi với lũ con gái trong làng, thi xem ai tè xa nhất. Điểm khác biệt duy nhất là con trai có thể vẽ trên tường còn con gái chỉ được vẽ dưới đất. Từ mùa xuân đến những ngày cuối thu, cả làng giặt giũ và tắm táp dưới thác nước lớn. Những phụ nữ trần truồng mang hai bầu vú trước ngực, còn đàn ông có tới ba, nằm giữa hai chân.
Gần đây, chàng thợ đàn cảm thấy có chút buồn rầu vì một cảm giác lạ làm chàng bồn chồn mỗi khi chàng ở quá lâu trong làng dưới sự trông coi của sư phụ già nua. Ngay khi có thể là chàng nhảy vào thành, lòng tràn ngập niềm vui. Khi đã ở trong phố, bơi giữa đám người thành thị, chàng nhận ra rằng, sự phấn khích và chen lấn không thể nào cầm được cơn khát của chàng. ngược lại, chúng còn làm chàng thèm khát hơn trong sự chờ đợi một cái gì không thể gọi tên và chưa từng biết.
Gió thổi vào mũi chàng một mùi hương dìu dịu. Đó không phải là mùi phấn hoa, cũng không phải mùi trái chín. Chàng nhìn quanh và phát hiện thấy một người xuất hiện. Nàng cưỡi lừa và có hai con hầu nhỏ mang đồ đạc theo hộ tống. Khoác áo gấm thêu hình bướm và mặc áo vải màu thiên thanh, nàng đội trên đầu một cái nón rơm thật lớn. Một tấm khăn voan dài bằng vải trong và mịn màu trắng che khuôn mặt nàng để làm mờ các nét trên khuôn mặt. Khi nàng đi ngang qua ánh nắng, khuôn mặt nàng chợt sáng bừng lên, để lộ cái mũi thon, cái miệng tròn trĩnh, cái cổ cao duyên dáng nghiêng về phía trước.
Chàng thợ đàn trẻ tuổi nhìn theo nàng không chớp mắt. Nàng nhúc nhích một chút trên lưng lừa. Nhanh như cắt nàng nhảy lên, nhảy xuống. Theo từng chuyển động nhịp nhàng của cơ thể, hai tay áo của nàng rung rung để lộ ra nhiều lớp áo bên trong, dưới lớp áo khoác ngoài. Thẩm Phong bước vội, vượt qua nàng, rồi quay lại để nhìn được rõ hơn. Nàng đi vào chỗ có bóng râm. Khuôn mặt nàng biến mất sau những nếp nhăn của tấm khăn voan. Nhưng chàng có cảm giác sau tấm voan trắng mờ, nàng đang nhìn chàng sâu thẳm và thì thầm với chàng: “Phụ nữ.”
Phụ nữ!
Chàng đỏ mặt quay đi và hòa lẫn vào đám đông. Thấp thoáng sau rừng những bờ vai và mũ nón, chàng thấy nàng đi xa. Nàng cũng đi vào giữa con đường. Trong ánh nắng, bóng nàng như phồng lên rồi biến mất trong một thế giới không bao giờ có thể tới gần được.
Đó là một kiều khách đang đến một buổi dạ tiệc.
Tiệm Lỗ Tứ nép mình bên tháp chuông. Ở cửa ra vào, một con khỉ ngồi bắt chấy cho một con chó. Bên dưới lồng chim, một con mèo nâu duỗi người, kêu meo meo, xù lông khi Thẩm Phong đi ngang qua nó.
Lỗ Tứ là thương nhân bán nhạc cụ, gốc gác thuộc một bộ tộc phương Nam. Tổ tiên của ông ta không phải quý tộc gốc nhưng họ đã thành quý tộc khi làm quân sư ở sân Rồng nhà Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi Tào Ngụy thâu tóm Đông Ngô sau tám mươi năm liên miên chiến tranh, gia đình Lỗ Tứ mất hết gia sản nhưng chuyện dòng họ này ai ai cũng biết. Từ đó, dòng họ Lỗ Tứ không còn nắm quyền hành nữa. Tuy nhiên, họ vẫn giữ mối quan hệ giao hảo với những quan lại mới, nhờ vào tiếng thơm của dòng họ mình.
Là người hoạt bát và nhiệt tình, ông ta có thể kể lại chuyện đời xưa của tất cả các triều đình đã đóng đô ở bờ Nam sông Dương Tử. Tài năng diễn thuyết của ông ta và kiến thức lịch sử về bờ Nam nuôi sống ông ta. Để bán được các nhạc cụ, ông ta tới nhà khách hàng, làm các cuộc tiệc tùng sôi nổi hẳn lên nhờ vào những lời đối đáp khôn khéo của mình. Ông ta kể hết những âm mưu của các hoàng thân đến những cuộc liên minh và chia rẽ giữa các quan lại thời chiến. Phe phẩy cây chổi phủi bụi bằng lông cứng, ông ta có thể mô tả những âm mưu, những phi vụ trong cấm cung và sự leo thang quân sự. Câu chuyện hay nhất của ông ta là về trận thủy chiến Xích Bích mà tổ tiên ông ta đã tham chiến. Mua nhạc cụ của Lỗ Tứ, tức là có được những linh hồn, những vương quốc đã mất. Thẩm Phong lên cầu thang. Những cánh cửa trượt mở rộng và cửa nhỏ bằng vải màu đã vén lên. Bên trong, trên một tấm sàn bằng gỗ đỏ, một vài nhạc cụ đặt trên những chiếc bàn thấp có chân được uốn cong mảnh khảnh. Một chiếc bình cao cắm một bông lan vàng trước một bức tranh phong cảnh.
Thẩm Phong đánh nhẹ chuông rồi ngồi bên bậc thềm. Dù Lỗ Tứ không có gốc gác là người thượng lưu ở Trung Nguyên và ông ta là con cái một người vô danh tiểu tốt được nhận làm quý tộc nhưng ông ta rất tự hào về thứ bậc được đức vua của vương quốc hiếu chiến Đông Ngô phong cho và rất ghét bị những kẻ bình dân xem như ngang hàng. Ông ta luôn bắt những người thợ đàn phải chờ ở cửa. Ở cuối phòng, một vách tường nhúc nhích và một bóng người cao cao dần hiện ra. Để thể hiện sự quý phái của mình, khuôn mặt Lỗ Tứ được đánh phấn trắng và đôi mắt viền đen. Bận một chiếc áo dày có tay áo rộng, ông ta di chuyển như đang bay. Ông ta cầm một cái que bằng ngọc thạch trắng đính lông chim cứng. Đó là cái chổi phủi bụi, vật đi liền với giới quý tộc.
Thẩm Phong vái chào.
Giọng trầm trầm của Lỗ Tứ vang lên:
- Đứng dậy đi, Thẩm Phong. Đàn của cậu đâu?
Chàng đặt nó ở lối vào phòng rồi lui lại ngồi trên bệ cửa.
- Tên gì?
- “Sóng cuộn”.
Lỗ Tứ cầm lấy nhạc cụ rồi đặt nó lên chiếc bàn thấp. Ông ta lấy nó ra khỏi bọc rồi lên dây. Một thứ âm nhạc chầm chậm và duyên dáng cất lên.
- Âm thanh mềm và âm vang khá tinh tế. Nốt cao chìm trong nốt trầm như bóng con chim mòng trắng lướt đi trên sóng nâu. Đẹp. Rất đẹp… Nhưng…
Giọng Lỗ Tứ xoay vòng trong không khí. Gảy một dây đàn, ông ta thở dài, nói như đang ngâm thơ:
- Bên bờ Bắc dòng Dương Tử, ở nước Chu, con gái Dương Kiên, một tướng quân gốc Hán, phải làm hậu cho các tộc man di. Ông ta đã thay đổi di chúc của hoàng thượng lúc băng hà và tự xưng là nhiếp chính sau khi đã đưa cháu trai mình lên ngôi. Năm hoàng tử, anh em của đức vua băng hà, gây chiến chống Dương Kiên để trục xuất ông ta khỏi triều đình. Nhưng Dương Kiên được sự hỗ trợ của vợ là con gái một tướng lĩnh của tộc người Độc Cô nổi tiếng gốc man di, há chẳng phải ông ta gây ra cuộc chiến một chống năm này để thống trị toàn bộ vương triều nhà Chu đó sao? Nếu năm hoàng tử thắng, họ sẽ tước ngôi của cháu trai Dương Kiên, và một trong năm sẽ được thay thế trở thành hoàng đế. Dương Kiên, một mưu lược gia tài ba và một chiến binh hung tàn đã cao cờ nhìn năm hoàng tử huynh đệ tương tàn. Ông ta vừa đấu với họ vừa để họ tiêu diệt lẫn nhau. Cuối cùng Dương Kiên thắng cuộc, soán ngôi cháu trai và lập ra nhà Tùy. Khi đã là quân vương, ông ta nuôi mộng đánh chiếm miền Nam để thống nhất Trung Hoa. Ta, Lỗ Tứ, tổ tiên của ta đã uống nước dòng Dương Tử này trước khi người Hán đến, ta phải bảo vệ phương Nam độc lập. Ta sẽ không đi về phương Bắc để bán nhạc cụ nữa, ở đó trộm cướp đang hoành hành…
Lỗ Tứ đứng dậy, đi qua phòng tiếp khách, biến mất sau bức tường tranh rồi trở lại.
- Ở phương Nam, nhà Trần đang suy yếu. Hoàng đế của chúng ta chểnh mảng việc nước mà say đắm trong những trò nhục dục thể xác. Ông ta soạn nhạc để chuộc lỗi với đám tỳ thiếp. Ông ta cho họ vào một dàn nhạc mà ông ta điều khiển để họ học tình bằng hữu và sự hòa hợp. Con trăng vừa rồi, dàn nhạc gồm hàng nghìn kiều nữ đã hát một bài ca do ông ta soạn. Họ vừa mới đặt ta thêm hai trăm cây tỳ bà, ba trăm cây sáo, năm trăm trống con và năm trăm trống cái. Cung điện không còn quan tâm đến đàn cổ cầm đơn tấu. Cậu phải đổi nghề thôi. irc;y thơ, vui vẻ của một cô gái ở thuở ban mai của cuộc đời.
Trước tấm gương tròn, một cô gái trẻ nhảy múa, tay nhịp nhàng trong không khí. Những tà áo dài phập phồng và chiếc váy xếp nếp mở ra như một bông hoa mẫu đơn. Bỗng nhiên nàng dừng lại rồi đến gần chiếc gương. Hai bím tóc nàng buộc lại với nhau bằng một tấm vải đủ màu sắc làm thành hai bó hoa trà sau gáy. Giữa hai hàng lông mày, lấp lánh một mảnh vàng được gia công tinh xảo thành hình con ve sầu. Hai gò má nàng đánh phấn hồng nhạt. Môi nàng điểm xuyết hai chấm đỏ son ở giữa, như hai cánh hoa mận. Nàng đỏ mặt nhìn mình. Nàng đưa tay che mặt rồi nằm sóng soài ra thảm. Nàng đã mười bốn tuổi và người ta đã nói với nàng về hạnh phúc của một người phụ nữ.
Người ta đã xem tuổi và chọn ngày tổ chức hôn lễ. Cô của nàng, đã kết hôn với một quý tộc họ Vương, đứng ra làm mai mối. Cô gái trẻ sẽ kết hôn với một đứa cháu họ Vương, người thừa kế của dòng họ chức tước cao quý và một gia sản rộng mênh mông, nơi những bông hoa mẫu đơn rực rỡ bừng nở giữa mùa xuân.
Ngay sau hôn lễ, dì của nàng rủ nàng đi tản bộ. Chính cha nàng, người lẩn tránh thế gian, cũng buộc phải theo đám rước. Sau hai ngày đi thuyền, người ta cắm neo và đi bộ lên chùa. Sau khi đã thắp hương và dâng lễ vật lên các sư, cả gia đình nghỉ ngơi bên bờ sông, dưới bóng một cây lê đang nở hoa, trước khi gặp một gia đình khác đi xe ngựa đến. Sau màn chào hỏi xã giao lịch thiệp, thành viên của hai gia đình ngồi hai bên lối đi. Nhạc nổi lên và một nhóm kiều nữ xuất hiện, nhảy múa. Họ duyên dáng chuyển động từng cánh tay vải vóc thêu thùa. Trong những tia sáng mặt trời, tay họ hạ thấp xuống rồi cong lên và xoay vòng.
Người ta mang đồ ăn đến nhưng cô gái trẻ chỉ ăn với vẻ gượng gạo. Nàng đỏ mặt ngượng ngùng không thôi. Mặt cúi gằm, nàng không dám rời mắt khỏi những đĩa đồ ăn chay đựng trong cái liễn sơn mài. Bên kia rừng vũ nữ là vị hôn phu của nàng.
Sau chuyến tản bộ, nàng cảm thấy mình đã thành phụ nữ. Nàng xoay vòng trước gương, tự hỏi mình có đẹp không. Buổi tối, khi nàng đi ngủ, khuôn mặt vị hôn phu lấp ló sau quần là áo lượt của những vũ công lại hiện ra. Đôi má trẻ con của nàng, đôi môi hồng của nàng làm chàng trai cũng ngượng ngùng và hồi hộp. Nàng hốt hoảng nghĩ đến việc họ sẽ sớm chung chăn gối.
Của hồi môn đã được mang đến. Nhà họ Vương gửi đến những thỏi vàng hình chiếc ủng, những cuộn vải lụa, vịt và ngỗng. Của hồi môn do cha mẹ chàng trai chuẩn bị được đặt trong phòng nơi phụ mẫu sẽ ngắm nhìn và thêm vào đó những quà cáp khác. Cô gái trẻ nấp trong phòng nhưng vẫn nghe rõ tiếng chúc tụng. Những cô em họ của nàng đếm vải vóc, màn trướng, váy áo, chén đĩa, đồ đạc rồi phàn nàn sao chưa được lấy chồng.
Nàng lẻn ra khỏi phòng khi đêm đến. Tay cầm chiếc đèn lồng, nàng đi lang thang giữa đống đồ đạc bằng gỗ quý và những chiếc rương đầy vải vóc, lụa là, chén đĩa. Những chiếc váy treo trên móc có nẹp như cánh bướm còn mép váy xòe như quạt. Hoa cỏ, chim chóc, cây cối, mây trời, núi non và biển cả được thêu tỉ mỉ và viền chỉ vàng. Trên một chiếc bàn thấp, nàng phát hiện thấy một chiếc đàn cổ cầm hình một chiếc lá chuối sơn mài màu đen ngọc đã rạn. Tim nàng thắt lại. Nàng nhận ra vật quý nhất trong bộ sưu tập của gia đình, cây đàn mà Mẹ Lưu đã lấy ra khỏi tủ và chùi cẩn thận như một cây đàn mới tinh. Nàng đặt một tay lên đó.
“Cảm ơn cha!” Nàng thì thầm. Những dòng nước ngập đôi mắt nàng. Khi đã kết hôn, nàng sẽ không còn được cùng cha đến chợ, không được đi chọn đá và thân gỗ! Nàng sẽ không còn được giúp cha tìm những dụng cụ mà ông để mất liên tục, không còn được canh lò nấu cho cha luôn có rượu nóng, không còn được thổi tiêu khi cha chơi đàn cổ cầm.
Cây đàn có sáu dây lụa mới lên. Khi nàng vuốt qua, nhạc cụ cất tiếng, trầm và đơn điệu, như khi người ta thổi vào một chiếc tù và của bộ tộc man di. Cây đàn thuộc về nàng thơ Sái Văn Cơ sống cách đó hai trăm năm dưới triều nhà Hán. Cha nàng là Sái Ung, nhà thơ nổi tiếng, một tay viết thư pháp, một tay chơi đàn cổ cầm, có nhiều học trò, trong đó có những người nổi tiếng trong chiến tranh và những hoàng đế Hoa Hạ. Khi triều nhà Hán sụp đổ, khoảng thời gian chia cắt và những cuộc chiến tranh đẫm máu bắt đầu. Sái Ung chết trong tù. Một bộ tộc man di đã cướp phá kinh đô nhà Hán. Nàng Sái Văn Cơ bị bắt đem đến những thảo nguyên Tây Bắc. Nàng mới chỉ hai mươi ba tuổi. Nàng sống trong gió lạnh, uống sữa bò Tây Tạng suốt mười hai năm và sinh hạ hai người con trai cho tộc trưởng. Khi tướng Tào Tháo, một học trò của cha nàng, trở thành quân vương mới của Trung Hoa, ông ta cho một xe chở đầy vàng và ngọc trắng đến bộ tộc dã man để chuộc nàng về. Sái Văn Cơ phải xa con và trở về giữa những người Hoa Hạ. Nàng viết mười tám điệu phách cho đàn theo thanh âm của tộc người man và để lại một tập thơ viết về nỗi buồn đau của mình.
Cô gái trẻ khóc vì hạnh phúc và buồn tủi. Những giấc mơ và nỗi nhớ của nàng thổi mạnh trong lòng nàng từng cơn nóng lạnh. Nàng không còn biết cuộc đời nữa và trên hết là dửng dưng với những đám mây đang đổ dồn về phía chân trời và với cuộc chiến sắp nổ ra.
Nàng không biết rằng một đạo sĩ tên Tôn Ân đã tuyên bố mình được phó thác cho một sứ mệnh thiêng liêng rồi dấy quân chống hoàng đế nhà Đông Tấn. Lời hiệu triệu của ông ta đến tất cả những người theo đạo giáo đã làm tám tỉnh cùng nổi dậy. Người ta ném những dãy hàng rào ra đường; những dòng sông đầy thuyền chiến; các toán kỵ binh mang đầy vũ khí ngang dọc những cánh đồng để gia nhập với quân nổi loạn. Triều đình vội họp quần thần, bắt tội phạm đi lính và kêu gọi các băng đảng để tiêu diệt những kẻ nổi dậy. Hai đạo quân đối đầu nhau dọc bờ Nam sông Dương Tử.
Một đêm nọ, cô gái trẻ bị mẹ đánh thức. Quân đội triều đình đã đến vùng đất của họ. Quân đội tàn sát, cướp phá và đốt tất cả những gì chúng đi ngang qua. Gia đình phải đi lánh nạn ngay lập tức sau những tường thành cao của kinh thành được lính ly khai bảo vệ. Vào lúc bình minh, cô gái trẻ xuống thuyền. Siết chặt trong tay một chiếc rương nhỏ đựng cây đàn của Sái Văn Cơ, nàng để lại sau lưng mình toàn bộ vải vóc, lụa là của đêm tân hôn. Con thuyền nhổ neo và chìm vào làn sương mờ buổi sớm tinh mơ. Bất chợt nàng nghĩ đến cây đàn có thể mang cho nàng số phận bất hạnh của người chủ cũ.
Bóng quân lính qua lại trên bờ thành. Trống, tù và cùng những tiếng thét gào của chiến tranh vang lên. Quân triều đình và những người hung dữ xuất hiện như một bầy chim tham mồi rồi bao vây kinh thành. Những mũi tên lửa từ trên trời rớt xuống và những con kênh bốc cháy. Đến ngày thứ bảy, sự im lặng đè nặng kinh thành khi mặt trời lặn xuống dưới mép thành. Đêm im lặng đến mức làm người ta thấy sợ. Cô gái trẻ không thể chợp mắt. Nàng thức dậy, nắm lấy cây đàn rồi đi ngủ, siết chặt nó trước ngực.
Khi mặt trời ném xuống cửa sổ một tấm mạng đỏ rực, tiếng xì xào qua lại trên kênh: quân lính đã làm phản tổng đốc. Họ chém đầu ông ta và dâng kinh thành cho quân triều đình. Cánh cửa phòng nàng mở ra thật mạnh. Anh nàng nói nàng đến phòng thờ Phật. Phòng thờ của gia đình đen nghịt người. Tất cả thành viên của gia tộc đã đến đó cầu nguyện. Nàng quỳ sụp xuống thảm bên cạnh mẹ.
Nàng không thể tập trung vào những lời cầu nguyện và nhìn ngang dọc tìm cha. Không thấy ông trong đám đông, nàng tuồn ra cửa sổ. Qua chấn song cửa sổ, nàng thấy ông ở giữa sân, tay cầm kiếm, xung quanh là những người hầu lăm lăm vũ khí. Những âm thanh đáng sợ, một tiếng ù ù dội lên từ con kênh và tỏa ra khắp ngôi nhà. Bất thình lình, cánh cổng rung lên và bung ra thành trăm mảnh. Lũ người huơ cao đao kiếm vừa ùa vào vừa thét lên những âm thanh man dại. Nàng nhắm chặt mắt và bịt tai. Khi nàng mở mắt ra, nàng thấy cha mình lảo đảo và ngã úp xuống.
- Cha!
- Ở yên đây!
Mẹ nàng giữ nàng lại dưới váy của bà. Nhưng bị một sức mạnh như quỷ ám kích động, nàng vùng chạy ào ra khỏi phòng, dọc theo hành lang, không nghe thấy cả tiếng chân mình. Nàng nghe thấy tiếng bình lọ bị vỡ, đồ đạc rơi xuống, màn cửa bị xé toạc, nhưng nàng không hề thấy sợ.
Một toán lính nhào đến. Một lưỡi gươm lóe lên trong không trung rồi một nhúm tóc bay ra. Chết lặng vì kinh hoàng, nàng nhắm chặt mắt, lùi về bên trái và đập vào một bức tường. Bức tường bỗng chuyển động và giữ lấy vai nàng. Nàng mở mắt, hốt hoảng và thấy đó là một người lính nhỏ con mặt ngăm đen. Đồng tử sáng quắc lên dưới nón giáp trang hoàng bằng lông màu cam. Hắn nhìn nàng, đẩy nàng ra và ra lệnh mang nàng đi nhưng không được ngược đãi nàng.
Nàng bị nhốt trong một căn phòng, nàng thu mình trong một góc và áp tai vào tường. Tiếng ồn ào có vẻ đã ngưng, nhưng âm thanh nhỏ nhất cũng làm nàng run lên vì sợ hãi. Cửa phòng mở ra vào buổi chiều. Mẹ nàng bước vào, cùng với toán lính. Mẹ nàng nói viên chỉ huy của đoàn quân lấy làm tiếc về cái chết của cha nàng và để chuộc lại lỗi lầm của quân lính, hắn quyết định sẽ cưới con gái ông. Nàng gục đầu, không nói nên lời. Mẹ nàng kìm nén nước mắt rồi đi chuẩn bị phòng tân hôn. Cô gái trẻ muốn một bồn tắm nước nóng. Đó là yêu cầu duy nhất của nàng. Viên chỉ hu lật đổ, chưa bị nhà Trần thay thế. Sư phụ và chàng sống ở kinh đô Kiến Khang. Mặc quần là áo lượt, họ có thể đi băng qua những bức tường bao quanh khu phố của các tổng đốc và thư lại triều đình. Họ đến chầu trước cổng sơn son thếp bạc có lính tráng canh gác. Những nô lệ ra gặp họ, dẫn họ vào trong và mời lên những bậc thang, nơi họ có thể ngồi trước cửa vào và chào những vị đại nhân từ xa. Sư phụ chàng rút cây đàn cổ cầm ra khỏi bao, chơi một bản và đưa cây đàn cho viên quản gia mang vào phòng tiếp khách. Sau một hồi im lặng, tới lượt các đại nhân và phu nhân gảy đàn.
Ở thành Kiến Khang, sau khi bán được đàn, sư phụ chàng đi tới nhà Hoa, lên lầu với một bé gái để dạy nó đàn và chỉ xuống lầu lúc đêm xuống. Để trả công Thẩm Phong chờ ở cửa, ông dẫn chàng tới quán ăn, gọi một đĩa thịnh soạn và giục chàng uống rượu. Thẩm Phong đã quen với rượu từ nhỏ như vậy. Mỗi lần dạy học cho cô bé kia xong, sư phụ hết sức vui vẻ. Những nếp nhăn trên khuôn mặt ông bị xóa đi, còn hai gò má thì đỏ hồng. Ông kể hết chuyện này đến chuyện khác để làm Thẩm Phong vui trong khi chàng thì ngáp lên ngáp xuống:
“Ngày xưa có đức Phục Hy. Vừa sinh ra đã lớn nhanh như thổi rồi một ngày nọ trở thành khổng lồ với đầu người và thân rồng. Ông nhận ra xung quanh mình, người ta toàn ăn vận da thú và uống máu để sống. Ông dạy họ kiếm lửa và không ăn thịt sống nữa. Bắt chước cái mạng nhện, ông làm thành lưới để bắt cá. Quan sát các vì sao và thưởng ngoạn mặt đất, ông vẽ ra bát quái để thiên hạ có thể mô tả công việc hằng ngày và mô tả thời gian trôi. Một ngày nọ, đang đi dạo trong núi, Phục Hy thấy mây ngũ sắc trên trời bay xuống. Nheo mắt lại, ông thấy giữa ánh sáng chói lòa hai con chim khổng lồ đuôi dài lấp lánh bay ra. Ông nhận ra đó là hai con phượng hoàng. Cặp đôi đậu lên cành cây rồi ngay lập tức tất cả các loài chim khác bay từ nhiều vùng khác nhau đến hót vang. Khi cặp phượng hoàng bay đi, Phục Hy đốn gục cái cây mà lúc nãy cặp chim đậu, chọn một khúc gỗ có tiếng không quá trầm, cũng không quá bổng, ngâm khúc gỗ bảy mươi hai ngày dưới sông, sau đó phơi khô và biến nó thành một nhạc cụ phát ra đúng tiếng con chim phượng hoàng. Ông nghe tiếng gió từ tám hướng và tạo ra tám nốt trong nhạc lý. Ông gọi mọi người đến và nói: “Ta đã đục đẽo khúc gỗ này và biến nó thành một cây đàn cổ cầm. Đàn dài ba xích, sáu thốn, năm phân [1], ứng với ba trăm sáu mươi lăm ngày trong năm, rộng sáu thốn [2] tượng trưng cho Trời, Đất, Nam, Bắc, Đông, Tây, sáu góc của thiên hạ. Mặt đàn tròn như vòm trời, còn đáy phẳng như mặt đất. Phần bên trái rộng tượng trưng cho Hồ, phần bên phải hẹp tượng trưng cho Suối. Hồ rộng tám thốn, vì nó chứa tám ngọn gió trong trời đất. Suối dài bốn thốn, vì nó ứng với bốn mùa…” Con thấy không, Thẩm Phong, cây đàn cổ cầm không phải là một nhạc cụ. Nó là vật báu của trời đất…”
[1]. 1,28 m. 
[2]. 21,48 cm.
Dưới mặt trời giữa trưa, những con đường chỉ là những chấm đen và vạch trắng. Thẩm Phong đi lang thang, không biết mình đi đâu mà giọng sư phụ thì ám lấy chàng: “Đàn cổ cầm được Phục Hy tạo ra để phân biệt con người với thú vật. Khi luyện các điệu, quy tắc hít thở và làm chủ cảm xúc, con người vượt lên cao hơn các sinh vật đơn giản khác và đến gần với thánh nhân. Người làm đàn không phải là người thường. Chúng ta mang một nhiệm vụ được trời đất ủy thác.”
Thế rồi Hầu Cảnh, một tướng quân bị đày lên phương Bắc đã phản bội các hoàng đế nhà Lương, những người đã cho hắn lánh nạn. Khi hoàng đế băng hà vì đói trong tù và triều đình sụp đổ, những ngôi nhà thanh nhã bị thiêu rụi và những người biết chơi đàn cổ cầm đều biến mất trong khói lửa nội chiến. Nếu con người không còn biết đến đàn cổ cầm nữa, Thẩm Phong thở dài, điều đó có nghĩa là họ sẽ trở về trạng thái nguyên thủy và sẽ trở lại thành động vật chém giết lẫn nhau sao? Chàng đang ngẫm nghĩ tới đó thì bị thúc mạnh vào lưng một cú. Chàng rùng mình quay lại.
- Tao có tai mắt khắp nơi… Khi mày vừa đặt chân vào thành tao đã biết và chờ mày ở Vượng Phong…
Chu Bảo thở hổn hển chùi trán bực tức:
- Mày làm gì ở đây? Sao không đến chỗ tụi tao?
Thẩm Phong ấp úng không biết bắt đầu giải thích thế nào. Chu Bảo nói tiếp:
- Các món ăn đã được gọi rồi. Tao nói mọi người bắt đầu ăn đi, còn tao đi tìm mày… Đừng có nói với tao là mày ăn rồi đấy!
Thẩm Phong trả lời chàng chưa ăn.
Chu Bảo kéo tay áo chàng đi.
- Được rồi, vậy đi với tao. Mình đi quán Đồng xanh! Hồi sáng tao thấy có bán cá hồi đó!
Thẹn từ mặt tới tai, Thẩm Phong nói chàng thích một bát xúp hơn.
Chu Bảo đoán:
- Hết tiền rồi hả? Tao mời mày! Đi. Tao cũng muốn nói với mày chuyện này nữa. 
Hai mươi năm trước, triều nhà Lương gọi tòng quân mỗi gia đình hai thanh niên để mở rộng quân đội chống giặc man di phương Bắc, rất ít người trở về. Chu Bảo lớn lên ngoài đầu đường xó chợ như bao đứa trẻ mồ côi khác. Trộm cắp, tống tiền, chuyên gây gổ, chúng sống thành băng đảng và lui tới những kẻ bần cùng trong xã hội. Quán Đồng xanh là hang ổ của chúng.
Những năm đầu tiên, khi Thẩm Phong và sư phụ ở trong núi Bắc, khi họ vào thành, băng đảng ném đá vào họ ngay khi thấy họ từ xa. Chúng bao vây lấy Thẩm Phong ngay khi người thợ đàn già vào trong nhà Hoa rồi đấm đá chàng túi bụi. Thẩm Phong đánh trả dữ dội và không thèm xin ân huệ của bọn chúng. Sự dũng cảm của chàng làm thằng đầu đảng là Chu Bảo thích thú, rồi khi nó biết Thẩm Phong mồ côi, nó ra sức bảo vệ chàng.
Quán Đồng xanh là một cái lều dựng giữa bốn gốc cây. Vì giờ ăn đã qua nên quán vắng và chủ quán nằm nghỉ trưa trên sàn ở giữa phòng. Chu Bảo đá ông ta một cú vào mạng sườn.
- Dậy đi mày, thằng lưu manh già. Cho tụi tao ăn uống!
Người đàn ông lớn tuổi, tóc lem luốc đầy mỡ, nhảy xuống đất, mắt trợn trừng.
- Thằng cha tội nghiệp bị điếc, - Chu Bảo giải thích.
- Chúng tao muốn ăn cá hồi mập và nướng cho ngon! - Nó hét lên.
Tay nó huơ huơ trong không khí vẽ một con cá rồi làm động tác nướng cá.
Người chủ quán gật đầu rồi đi vào trong bếp sau bức rèm.
Chu Bảo dẫn Thẩm Phong qua một cái bàn thấp. Nó nhìn con đường, người qua kẻ lại rồi vuốt vuốt cái cằm lún phún râu thì thầm:
- Mày có nghĩ tới lúc giàu lên không, Thẩm Phong?
- Không.
- Mày chưa bao giờ nghĩ sẽ làm gì với hai rương đầy bạc sao?
- Chưa bao giờ.
- Mày có tưởng tượng một ngày nọ mày không còn đi chân đất nữa, mà là đi ngựa, không còn ngủ trên rơm thối hoắc nữa mà trên một tấm chiếu thơm tho, lót bông dày êm ái không? Mày có từng mơ có một túi tiền luôn căng hơn sau mỗi bữa ăn thịnh soạn?
- Không.
Chu Bảo liếc nhìn chàng.
- Tại sao?
Chàng thợ đàn trẻ tuổi trả lời:
- Những người sinh ra bần hàn như mày và tao sẽ không bao giờ giàu. Chẳng cần phải mơ mộng làm gì. Nếu người ta ham làm giàu, người ta sẽ phải khổ đau nhiều hơn là nghèo. Nếu người ta không nghĩ tới việc làm giàu, người ta sẽ không nghĩ là người ta nghèo.
- Vứt mấy cái triết lý dở hơi khốn kiếp đó đi!
Chu Bảo vặn mình.
- Tao sẽ cho mày thấy mày gàn dở!
Biết là mình nói quá to, Chu Bảo đặt tay lên miệng rồi vừa nhìn xuống đường nó vừa nói thật nhỏ, tách từng tiếng một:
- Ngày mai, mày sẽ giàu.
Thẩm Phong bật cười.
- Giải thích nghe xem!
Chu Bảo nháy mắt vẻ ranh mãnh.
- Nếu mày không thích tiền, ít nhất mày sẽ thích được sung sướng. Thẩm Phong, mày đã từng bao giờ mơ được nằm ườn bên hiên nhà, vợ mày dệt lụa, còn mày cầm tay con trai mày, dạy nó bước đi chưa?
Thẩm Phong nghe những lời của Chu Bảo như bị đâm từng cú vào giữa lồng ngực. Chàng quay ra đường nhìn khách bộ hành.
- Tao đang có việc lo lắng lúc này... Không ích gì mà mơ tưởng. Tao phải tự xoay xở thôi.
- Tao cũng vậy, tao cũng có lo toan, - Chu Bảo nói tiếp. - Nhưng những lo toan của tao mở mắt cho tao và mang lại cho tao cơ hội.
- Cơ hội? Sao mày có được?
- Hê hê.
Chu Bảo gãi gãi râu, cười cười, không trả lời. Sau một thoáng im lặng, nó cũng tiết lộ:
- Một ngôi mộ, tao đã tìm được một ngôi mộ của triều đình trong núi Bắc. Mình mở ra, lấy châu báu, rồi mình sẽ giàu và sướng... Tất cả sẽ diễn ra trong đêm nay. Mày thấy sao?
Từ thời Hán, đào mộ là một việc phổ biến. Để trả tiền thuê lính tráng, các viên tướng đào những nấm mộ triều đình và mộ các công hầu nổi tiếng để thò tay vào những châu báu chôn theo người chết mong họ sống đầy đủ ở cõi vĩnh hằng. Chính tướng Tào Tháo đã từng trông coi việc đào những ngôi mộ và coi những báu vật như chiến lợi phẩm. Theo gương ông, lính tráng đi trộm cướp ở những địa phương bại trận không bao giờ quên kho tàng dưới lòng đất.
Thẩm Phong cười nhạt.
- Tao nghe nói ở bờ Bắc cũng như bờ Nam dòng Dương Tử, không một ngôi mộ nào chưa bị đào, thậm chí các hoàng đế đã làm ô uế những ngôi mộ của các triều đình thất trận để lấy tiền xây cung điện mới. Đừng có nghe chuyện người ta kể cho mày.
Chu Bảo ngắt lời:
- Không phải tất cả...
Nó im lặng khi người chủ quán xuất hiện, đặt lên bàn một hũ rượu và hai cái chén mẻ.
- Thẩm Phong, cạn!
Rượu dở xát vào lưỡi chàng thợ đàn trẻ làm cổ họng chàng bị kích thích. Sau hai chén liên tiếp, đầu óc chàng bắt đầu lênh đênh. Kế bên chàng, Chu Bảo không ngừng líu ríu:
- Người nghèo chết vui vẻ vì khi chết, họ đỡ lạnh và đói. Nhưng các ông vua và quý tộc ở trong những ngôi nhà ấm cúng, nằm trên giường lụa, ăn ngày năm bữa thì sợ bị lạc trong cõi Bóng đêm. Còn những người lúc sống là thương nhân sẽ kiếm tiền để đút túi những người canh giữ địa ngục để khỏi bị hành hình, tra tấn. Dường như người ta tìm được mọi thứ trong một ngôi mộ sung túc: ngũ cốc, dầu ăn, chiếu gối, quần áo, đồ trang sức, chén đĩa vàng và những rương đầy bạc.
- Những kẻ đào mộ thường là những người xây mộ, - Thẩm Phong nói. - Họ cha truyền con nối với nhau. Tùy theo vị trí và hình dáng của ngôi mộ, họ có thể lần ra những tính toán thiên văn, luật phong thủy và tái tạo mô hình ban đầu do các kiến trúc sư thiết kế theo luật địa lý. Họ có thể qua được những khúc quanh đường hầm trong lòng đất, qua được cửa đá gắn đầy vũ khí, cung tên và chất độc để tìm ra vị trí chính xác của hành lang dẫn đến phòng mai táng chính, nơi cất vàng bạc. Không có những kiến thức đó, những kẻ đi thử vận may mù quáng sẽ đánh cược cả tính mạng của mình.
Chu Bảo không thèm nghe.
- Mày và tao, nếu tụi mình chết, người ta sẽ chôn mình trong một cái chiếu rách rồi ném mình xuống lỗ. Dưới đất, thân thể của tụi mình sẽ phân rã và hôi thối. Chúng ta sẽ đến vương quốc Bóng đêm, rách rưới, tả tơi. Nhưng những ông hoàng và bà hậu đã tính trước điều đó. Mộ họ còn to hơn cả ngọn đồi kìa. Họ dựng bia cao khắc truyện kể về cuộc đời họ: đến xứ sở người chết, họ muốn được mọi người nhận ra và tôn kính họ. Cơ thể của họ được tắm rửa sạch sẽ, tẩm dầu thơm trước khi đặt vào áo quan. Bụng họ chứa đầy thảo dược và miệng họ ngậm ngọc trai. Họ đội vương miện vàng và mặc áo bào, nằm trong quách bằng vàng và xung quanh họ là những hòm đầy vàng bạc, những thứ đó có thể sẽ là của cải của chúng ta: hồ tắm bằng vàng, đèn thắp hương bằng vàng, giày vàng đính ngọc, kiếm chuôi vàng nạm hồng ngọc và lục bảo, thắt lưng xích vàng... Bất cứ thứ gì trong số này đều sẽ cho chúng ta một cuộc đời sung sướng.
Chủ quán ăn quay lại với đĩa cá nướng.
Chu Bảo im lặng một chút, rồi vừa ăn vừa tiếp tục:
- Trước khi chết, tao muốn biết hương vị cuộc đời tươi đẹp: mọi bữa ăn đều có thịt và có thể mua giày dép cho các con. Mày không muốn vậy sao?
- Thậm chí nếu mày có nói đúng, - chàng thợ đàn trẻ tuổi nói, - mày có tin là người ta có thể đào mộ triều đình bằng hai cái cuốc và bốn cái tay? Tướng Hạng Vũ từng muốn đào mồ Hoàng đế Tần Thủy Hoàng. Mười nghìn quân đã đào ngày đêm, họ chỉ tìm được những bức tượng đất nung, không phải là phòng của Hoàng đế. Có vẻ như để tránh bị đào mồ, Hoàng đế Tần Thủy Hoàng đã cho xây dựng một vương quốc dưới lòng đất rộng hàng trăm lý, còn quách của ông ta làm bằng đá pha lê khối chảy trên một dòng sông thủy ngân. Tất cả những ai vào được phòng Hoàng đế đều bị chết vì nhiễm độc. Lúc sống, các vị vua ngự trị ở Tử Cấm Thành, lúc chết, mồ của họ đầy cạm bẫy. Khi đẩy những cánh cổng đá, người ta nhận ngay một cơn mưa mũi tên và những mũi thuốc độc. Người ta bị lọt hố gãy chân hay mất tích trong đường hầm bất chợt sụp đổ. Có những ngôi mộ nằm giữa một túi cát. Khi kẻ trộm mộ trèo xuống mộ, cát trào ra và họ chết ngạt trong cát.
- Mày nghe những chuyện này ở đâu thế? - Chu Bảo hỏi.
Thẩm Phong không trả lời. Chàng cắn một miếng cá hồi rồi lấy một cái xương ra khỏi miệng. Chàng hứa với sư phụ không bao giờ nhắc tới những người bạn lang thang trên sông của ông trước mặt người lạ.
Chàng nhớ khi băng qua một con đường dốc ngược chỉ có sư phụ và chàng biết, họ đi xuống tới bờ sông Dương Tử. Họ có thể phải chờ nhiều ngày mới thấy bóng đen của một chiếc thuyền xuất hiện ở đường chân trời. Lúc đó, họ vẫy tay ba lần từ dưới lên cao. Chiếc thuyền tiến lại gần rất nhanh rồi neo lại. Những ngư dân mời họ leo lên thuyền rồi chia sẻ thức ăn với họ.
Cũng như ông thợ đàn già, những ngư dân này đã sống nhiều cuộc đời. Bị buộc đi lính, họ đã chiến đấu dưới nhiều màu cờ từ Nam chí Bắc. Khi quân họ thất trận, để chạy trốn kẻ thù và những toán quân của chính phe họ, họ phải lánh nạn trên sông Dương Tử. Có kiếm và cung tên của quân lính, họ tấn công các thuyền buôn, đưa qua lại hai bờ Nam Bắc những vật dụng bị cấm, trong đó có chiến lợi phẩm của những tay đào mộ.
Giang tặc trên sông Dương Tử sống bên lề cuộc đời. Với khuôn mặt hốc hác, dáng đứng thẳng, một vài người trên mặt còn mang con dấu đóng bằng sắt nóng để làm dấu tù nhân, những người khác lại phô ra trên vai hình xăm nguyên thủy của những bộ tộc du mục. Bị triều đình hai bên bờ Nam - Bắc truy bắt, họ rất ít khi rời khỏi thuyền và luôn di chuyển theo nhóm. Sư phụ của chàng chữa bệnh cho họ và ngược lại, những giang tặc trả cho ông những tấm gỗ lấy từ các quan tài cổ lên.
Một cây đàn hay phải được làm từ gỗ thông, gỗ chi lai, gỗ sụ ít nhất năm trăm tuổi. Vì các cuộc chiến tranh liên miên phá hủy các kinh thành và vì những viên quan mới cho xây nhiều cung điện trên những phế tích của những cung điện cũ, những cây cổ thụ càng ngày càng hiếm vì chỉ nhũng cây cổ thụ mới có thân lớn thích hợp làm rường cột cao và xà vững chãi. Những thợ đàn quay sang tìm những quan tài bị cướp trong những ngôi mộ giàu sang, các
hoàng tử và quý tộc cung cấp những tấm gỗ trăm tuổi tốt nhất, không hề bị hủy hoại dưới đất sâu. Nếu người ta cộng tuổi thọ của cây và những năm tháng quan tài nằm dưới đất lại với nhau thì thợ đàn có được vật liệu tốt nhất để làm đàn.
Những giang tặc không biết gì về nghề làm đàn và trêu ghẹo sư phụ chàng. Để làm Thẩm Phong sợ, họ kể cho chàng nghe những câu chuyện rùng rợn nghe được từ những kẻ đào mộ - phường đòn. Hai mắt mở to, vểnh tai lên nghe, Thẩm Phong cố nín thở để không lọt mất từ nào:
“Sau cơn bão đêm khủng khiếp, ông già Lý nghe có tiếng gầm gừ. Ông ta ra khỏi nệm rơm và thấy một vạt vách đá đã đổ sập. Ở đó, một cung điện tối tăm được dựng lên, một gã đàn ông ăn vận giàu sang nằm giữa những cô gái trẻ. Ông lại gần chào họ. Bất ngờ, cái ghế gãy vụn và những bộ quần áo rách tươm. Chỉ còn lại một bộ xương khô. Người chết chắc là một người quan trọng! Người ta đã thờ phụng cả đám tỳ thiếp của ông ta. Những cô gái này bị chôn sống quanh quan tài của ông ta...”
“Đêm đó, đứa con trai tên Tôn quyết định đi ngang qua nghĩa địa, con đường ngắn nhất để về nhà. Trăng lên cao. Tuyết lấp lánh và kêu sột soạt dưới chân nó. Cầm con dao trong tay, nó đi vùn vụt ngang qua những ngôi mộ. Khi nghĩa địa đã ở phía sau lưng, nó thở phào đeo dao vào đai quần. Chỉ còn không xa nữa là tới ngôi làng thì xuất hiện một rừng dương. Khi đi ngang qua rừng, nó nghe có giọng một cô gái: “Cho em theo với!... Cho em theo với!” Nó ngước cổ lên. Một cô gái mặc đồ đỏ ngồi trên cành cây. “Cõng em theo với...” Cô gái van xin. “Cho em theo với, đi chàng.” Có rất nhiều chó sói trong vùng này và nó nghĩ cô gái sợ đi một mình trong đêm. Nó cho cô gái xuống đất rồi cõng trên lưng. Nhưng nó cảm thấy sao càng lúc cô gái càng nặng và nó thấy lạnh lưng. Chân nó run cầm cập còn trán thì vã mồ hôi. Nó quỵ ngã ngay trước lối vào làng. Hôm sau, người ta thấy nó đã chết trên tuyết, trên lưng cõng một tâm bia mộ đá...”
Đường về làng quả là nhọc nhằn. Cõng những phiến gỗ quan tài buộc lại với nhau bằng dây thừng mảnh trên lưng, Thẩm Phong và sư phụ phải trèo đèo lội suối về làng. Họ bị ngã rồi đứng lên mấy bận. Người thợ đàn già hò hét Thẩm Phong đừng để bị thương ở tay vì đôi tay rất quan trọng trong nghề mà họ đang theo đuổi. Vai chàng đã rớm máu. Những phiến gỗ quá nặng và chàng ngửi thấy mùi thật buồn nôn. Thẩm Phong có cảm giác đang mang trên vai những xác chết và những xác chết này đang cho chàng thấy cái đau đớn khó tả của người chết...
Bất ngờ, Chu Bảo la lên:
- Vận may của tao ở trong một hang động. Rất dễ mở cửa vào!
Thẩm Phong phớt lờ trả lời:
- Mày có biết là có nhiều mộ giả hơn mộ thật không?
- Lại gần đây, tao kể mày nghe. Mày sẽ thấy là tao có lý.
Chu Bảo kéo Thẩm Phong lại gần khi người chủ quán đem đĩa cá hồi mới lên, đặt xuống bàn. Nó chờ ông ta ra phía sau tấm rèm rồi thì thầm vào tai Thẩm Phong:
- Mấy nàng tu sĩ trong chùa Đại Bi có một bí mật.
- Chùa Đại Bi? Tao biết.
Cách thành Kinh Châu không xa, trong núi Bắc, chùa Đại Bi nằm trên đỉnh núi đối diện nhà Thẩm Phong. Lúc đó nó là đỉnh núi cao, nơi hành hương lễ Phật dành cho phụ nữ. Họ leo ba nghìn chín trăm chín mươi chín bậc thang để đến được phòng tụng kinh có ba ông Phật là Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai. Nhưng sau khi nhà Lương sụp đổ cùng với sự lên ngôi của nhà Trần, Đạo giáo đã xóa mờ Phật giáo rồi chùa Đại Bi không còn được cúng dường nữa. Các miếu chùa bắt đầu hư hỏng. Lúc còn nhỏ, Thẩm Phong cùng lũ trẻ trong làng thường đi hái trộm rau trong vườn của các nữ tu. Khi họ phát hiện ra, họ cầm chổi tre đánh đuổi dữ tợn và bọn chúng vừa chạy vừa tản ra như một bầy chim sẻ.
- Ở trong nghĩa địa có một ngôi mộ của bà hoàng nhà Tống.
- Tao biết cái nghĩa địa đó. Tao chưa từng thấy một ngôi mộ nào lớn, cũng như chưa thấy lăng tẩm nào phủ bột vàng. Nếu có một ngôi mộ triều đình ở quanh đó, trong làng tao người ta đã nhắc tới nhiều rồi. Hẳn là người ta đã đào mất. Không nên tin vào những thứ mày nghe được ngoài đường.
Chu Bảo nóng nảy.
- Đi với tao. Tao sẽ cho mày thấy là đúng thật.
Thẩm Phong lắc đầu.
- Làm ô uế lăng mộ là một tội lớn. Phá hoại nghĩa địa của chùa là bị kết tội chém đầu ngay. Tao không đi đâu.
- Đừng sợ! Nguồn tin của tao chính xác mà Thẩm Phong, kho báu ở ngay tầm tay rồi. Đi với tao.
- Những kẻ trộm mộ đã viếng thăm tất cả các ngôi mộ nổi tiếng trong vùng, sao chúng bỏ quên ngôi mộ này được?
- Mày biết gì mà nói!
Chu Bảo im lặng. Thẩm Phong cũng im lặng. Gió thổi ngoài đường tạo thành một vòng lốc xoáy bụi bặm. Mặt trời chiếu vào trong quán, xoay một vòng rồi ra ngoài. Một nàng ruồi vo ve vào phòng. Rồi nàng ruồi đầy lông lá nâu đen thận trọng bay tới gần cái đĩa cá, đậu xuống rồi đập đập cánh tiến tới.
Chu Bảo dằn mạnh chén rượu trên bàn. Nàng ruồi sợ hãi bay mất.
- Mày có biết Bình Ngữ không?
- Tao không nói chuyện với các nữ tu...
- Người ta nhặt được Bình Ngữ trước cửa chùa Đại Bi vào một buổi sáng. Nàng mới sinh có vài ngày. Các nữ tu đã giữ nàng lại và nàng chưa bao giờ biết cha mẹ thật của mình là ai, cũng như vì sao họ lại bỏ rơi nàng. Tao biết nàng cách đây vài năm khi nàng vào thành xin lương thực cho chùa. Nàng thẹn chín cả mặt khi tao nói nàng đưa tao một phần số tiền quyên góp. Tao bị khuôn mặt đỏ hồng này kích thích, lúc nào tao cũng tìm cách ở ngoài đường khi nàng vào thành. Rồi...
Chu Bảo im lặng. Nó cạn thêm chén rượu.
- Mày đã làm gì?
Chu Bảo cúi gằm mặt.
- Mày đã đánh nàng hả?
- Không, không, không.
Chu Bảo nắm lấy chén rượu đưa thẳng lên môi. Nó đưa mu bàn tay lên chùi miệng.
- Nàng có mang.
- Hả?
Thẩm Phong nhảy dựng.
- Nàng mang thai đứa con của tao.
- Mày đã xâm hại một nữ tu!
- Không phải như mày nghĩ! Tao muốn cưới nàng và mang nàng đi nơi khác sống. Nàng muốn theo tao đến cùng trời cuối đất.
- Hiếp một nữ tu? Sao mày lại nghĩ được ra chuyện điên khùng như vậy chứ! Rồi tụi mày trốn được đi đâu? Ở đây, với băng nhóm của mày, mày cũng khó mà thoát, nhưng ít nhất là mày ăn quán chẳng cần trả tiền. Còn đi nơi khác, mày chỉ có mà ăn xin. Làm sao mày lập gia đình khi chẳng có gì trong tay chứ hả?
Mắt Chu Bảo sáng lên. Nó nghiến răng và rít lên:
- Đúng vậy! Vì Bình Ngữ giữ bí mật của chùa. Một bà hoàng nhà Tống được chôn cất ở chùa Đại Bi. Ngoài Bình Ngữ, sư phụ và sư phụ của sư phụ, tất cả tu sĩ đều phải quét nghĩa địa. Những gì mà tao được nàng cho biết là một bí mật mà nếu để lộ, sẽ bị xử tội chết theo luật của chùa. Bây giờ thì mày đã biết, mày phải đi với tao.
- Nếu tụi mình bị phát hiện thì cả lũ sẽ bị xử tội chết.
- Dù sao thì Bình Ngữ cũng không thể ở lại Đại Bi. Lần cuối người ta phát hiện ra một tu sĩ mang thai, cô nàng đó đã bị đánh đến chết. Đó là thứ luật nhảm của mấy bà nữ tu. Nàng phải trốn theo tao. Trong hai tháng nữa, nàng sẽ không thể giấu được cái bụng đang to lên. Rồi người ta sẽ giết nàng.
- Tao không đồng ý....
- Tao chỉ có thể tin tưởng ở mày! Lũ đàn em của tao nghe lệnh tao nhưng chúng là lũ lưu manh có thể phản bội. Còn mày, mày là anh em của tao, mày tử tế và có danh dự. Đó là lý do tại sao tao muốn mày giúp tao, rồi mày sẽ được trả công. Bình Ngữ có chìa khóa vào mộ, nàng sẽ mở cửa cho tụi mình và đóng cửa khi mình đi. Không ai có thể quấy rầy tụi mình đêm nay. Đi chứ?
Thẩm Phong suy nghĩ.
- Tao có cảm giác rất xấu. Tao không thích ý tưởng đào mộ tí nào. Tụi mình phải tìm ra một giải pháp khác cho mày và Bình Ngữ.
Chu Bảo nổi giận, đập tay lên bàn rồi hét lên:
- Mày sợ người chết sao? Người chết đã chết rồi và họ phải giúp người sống được sống.
Thấy Thẩm Phong không phản ứng, nó bình tĩnh lại.
- Những năm qua, nếu tao không bảo vệ mày thì sư phụ mày và mày đã bị cướp bóc, rồi bị giết hại! Tao chưa bao giờ đòi một xu thù lao. Mày nợ tao. Mày sẽ trả nợ tao đêm nay!
Gió nổi lên.
Mặt trời đỏ rực lặn xuống sau đỉnh núi.
Con đường ngoằn ngoèo băng qua khu rừng. Đó là một con đường chỉ có hươu nai và dân miền núi đi. Vì trời mưa cả đêm, những con suối tràn cả ra bờ cỏ trước khi xuống thung. Gió làm cây nghiêng ngả. Tiêng xào xạc hòa với tiếng rì rầm của suối và tiếng chim chóc hoảng sợ khi ánh chiều tà đang lan rộng. Chu Bảo nhanh chóng mệt lả vì không quen leo núi. Nó than vãn, bước chệnh choạng rồi phun ra một tràng những lời nguyền rủa. Nó bị hụt chân xuống bùn, trượt ngã sóng soài trên một vũng nước. Người nó dính đầy lá vàng. Thẩm Phong nắm lấy tay nó. Mặc kệ những tiếng rên rỉ và cơn đau của nó, chàng kéo thật mạnh để xốc nó lên và thúc nó đi nhanh. Phải đến đỉnh núi và vượt tường nhà chùa trước khi trời tối vì hổ báo sẽ túa ra kiếm ăn khi mặt trời tắt hẳn.
Mặt trời lặn bắn ra từng làn ánh sáng lấp lánh như lửa. Những đám mây rực lên đầy màu sắc rồi tắt. Trong lòng thung lũng, bóng đêm tràn ra như nước sông vỡ đập rồi ngấu nghiến lấy từng khoảnh rừng. Chim chóc ngừng hót. Gió ngừng thổi. Một sự im lặng đáng lo ngại càng lúc càng lớn khi khung cảnh trở nên mờ tối.
- Chạy! - Thẩm Phong la lên.
Thở hổng hộc, Chu Bảo đi khập khiễng và cố theo kịp Thẩm Phong.
Một khoảng tối hiện ra trên bề mặt phiến đá rồi chạy qua bên kia rừng cây. Bức tường của nhà chùa giống như một con rắn chuẩn bị phun nọc độc tấn công.
- Đó là Đại Bi. Nhanh lên! Rừng rậm sắp trở nên rất nguy hiểm.
Vừa thúc giục Chu Bảo, Thẩm Phong vừa chạy về phía nghĩa địa sau chùa. Cánh cổng gỗ bị khóa trong. Bình Ngữ phải đến gặp họ. Nhưng Thẩm Phong muốn trèo tường vào trong để tránh thú dữ trong rừng. Chàng trèo lên một cây cao rồi leo đến ngọn. Vừa đến được mảnh đất của nghĩa địa, Chu Bảo nằm dài trên mặt đất rã rời. Bất thình lình, nó bật dậy. Từ bên kia tường, một con chó sủa dữ dội, ngay lập tức một bầy chó săn theo sau.
- Quỷ tha ma bắt! Chó ngao Tây Tạng. Tụi nó có thể xâu xé người thành trăm mảnh trong chớp mắt!
Bóng đêm tràn đến. Tiếng sủa yếu dần. Rồi dần dần tiếng gà nước, tiếng tre rì rào, tiếng rắn rít và tiếng hú của những động vật và côn trùng trong bóng đêm vẳng lên. Dù gió thổi nhẹ nhưng những cây tre đại vẫn kêu răng rắc ồn ào. Những rung động này làm cái tĩnh lặng của những phiến đá mộ có vẻ ghê rợn hơn. Dầu vậy Thẩm Phong biết những cây tre sẽ bảo vệ chúng. Tiếng rì rào liên tục của tre sẽ bịt tai lũ chó.
Một ánh sáng đỏ di chuyển trong đêm đen, đi qua lối đi đầy cỏ của nghĩa địa rồi dừng lại. Chu Báo ném một viên đá. Tia sáng đỏ đưa qua đưa lại.
- Ai đó? - Tiếng phụ nữ hỏi.
- Đi, đó là Bình Ngữ, - Chu Bảo nói vói Thẩm Phong.
Một bóng nâu đè trên bóng đen của những cây tre, nhấc cao ngọn đèn lổng.
- Là ta, - Chu Bảo thì thào. - Thẩm Phong là em trai ta, nó đến giúp ta.
Thẩm Phong chưa bao giờ ở gần một nữ tu đến vậy. Tim chàng đập thình thịch rồi chàng cúi gằm mặt. Ngọn đèn lồng màu đỏ chiếu sáng phần áo bên dưới của nữ tu, làm lộ ra một đôi giày đen và tất trắng.
- Đi thôi, - nàng nói mà không chào một ai.
Hai người đàn ông đi theo nàng. Nàng rảo bước bình thản. Ngọn đèn của nàng rọi sáng con đường hẹp đầy bia mộ và lăng tẩm. Thân hình nhỏ nhắn của nàng lướt đi trong bộ đồ tối. Giữa chiếc mũ đen che cái đầu cạo trọc và cái cổ nâu, một ô vuông hở ra làm lộ phần gáy trắng muốt.
Nàng dừng bước rồi quay lại. Khuôn mặt nàng tròn với gò má hơi xanh làm Thẩm Phong bất ngờ vì chàng đang tưởng tượng một sinh vật quỷ quái có vẻ đẹp không thể cưỡng lại. Chàng ngạc nhiên vì những đường nét bình thường, vẫn còn trẻ. Đôi mày nàng, mắt nàng và môi nàng hơi thẫm hơn nước da trắng của nàng một chút. Dưới chiếc mũ đen, vầng trán nàng rộng và nàng có vẻ thơ ngây của một người ở nơi xa lánh thế gian giữa những tường cao bao bọc. Thẩm Phong đỏ mặt. Chàng nhìn lướt qua chuỗi tràng hạt bằng gỗ quanh cổ người nữ tu và dừng lại ở bụng nàng.
- Vào đi, - nàng nói. - Ở đây.
Cuối nghĩa địa hiện ra một vách đá rêu phủ, cỏ mọc um tùm. Cả nhà chùa dựa vào vách núi khổng lồ này.
- Đưa ta chiếc đèn lổng, - Chu Bảo vừa nói vừa tiến tới.
Ánh sang leo lét chiếu vào một thảm cỏ rậm. Tre nứa mọc đến tận chân vách đá phủ cỏ rậm rạp.
- Nhưng ngôi mộ đâu? - Chu Bảo sốt ruột hỏi.
- Phía sau. Đó là một hang động mà lối vào đã bị tường che và xóa dấu vết sau khi đưa quan tài vào.
- Nàng có chắc là có một ngôi mộ bên trong không? - Chu Bảo thì thào.
Nó đưa một tay lên đám cỏ, sờ soạng. Bất thình lình nó phun lời nguyền rủa. Nó đang nắm trong tay một con cóc. Nó ghê tởm ném con cóc ra xa.
- Những dụng cụ được giấu sau cái cây này và em sẽ đốt nến, - Bình Ngữ nói, giọng thản nhiên. - Bắt đầu ngay đi. Hai người chỉ có một đêm thôi.
Trong ánh sáng mờ ảo của cây đèn lồng, khuôn mặt nàng không hề thể hiện chút xúc cảm. Nàng có vẻ mặt như mới đào mồ bước ra. Thẩm Phong không hề cảm nhận được trong giọng nói của nàng sự xấu hổ, hối tiếc hay lo lắng. Sự bình tĩnh này, sự thiếu vắng cảm xúc này làm chàng run lẩy bẩy.
- Dụng cụ đây hả? - Chu Bảo nín thở thì thào.
Nó lấy từ trong bụi rậm ra hai cái cuốc, hai cái xẻng của phường đòn, một cái túi rỗng và hai cái liềm của thợ làm vườn.
- Nàng muốn ta đào mộ thế nào đây? - Nó nói tiếp. - Cần phải có rìu để đốn tre và búa để phá cánh cửa phía sau chứ!
- Không được phá cửa, nó có gắn vũ khí, - người nữ tu bình tĩnh trả lời.
- Nàng ấy nói đúng đây, - Thẩm Phong nói. - Mộ của những người có chức tước thường có gắn một dụng cụ bắn tên và những túi chất độc.
- Vậy nàng có biết mở không? - Chu Bảo nói. - Nàng có chìa khóa không?
Một ngọn gió làm cây đèn rung rung. Khuôn mặt Bình Ngữ sáng lên, tối đi rồi lại sáng lên. Nàng dùng mũi giày gõ xuống đất.
- Đào đi, - Bình Ngữ nói, giống như nàng đang suy nghĩ về phần thưởng mà Chu Bảo phải mang về cho nàng. - Phải đào một đường hầm luồn dưới cửa dẫn trực tiếp lên phòng mai táng. Như vậy, - nàng nói thêm, - sẽ dễ xóa dấu vết hơn.
Không nói một lời, Chu Bảo xắn tay áo, phủi phủi tay rồi cầm lấy cuốc.
Một đám mây dày che mất mặt trăng. Một tiếng xào xạc vẳng lại từ thung lũng rồi biến thành tiếng rên rỉ. Là gió thổi những ngọn tre. Không có trăng, các lăng mộ dường như lớn hơn. Chúng giấu nghĩa địa trong bóng tối ghê rợn của mình và phát ra những luồng gió lạnh buốt. Ngọn đèn hồng thu hút lũ côn trùng thiêu thân trên ngọn đèn.
Thẩm Phong rất dễ sợ hãi. Chàng cứ ngập ngừng rồi bình tĩnh lại. Bên cạnh chàng, Chu Bảo vốn dĩ nói nhiều cũng không hé răng mà đầu thì cúi gằm. Nó bỏ cái cuốc ra rồi lấy cái xẻng và ném đất ra khỏi lỗ. Thẩm Phong phun nước bọt vào lòng bàn tay để giảm nỗi bồn chồn. Bất thình lình, từ vách đá trên cao có ai đó ho. Chu Bảo nhảy ra khỏi lỗ, huơ huơ cái xẻng.
Cách đó hai bước chân, vách đá nhìn cả bọn khinh bỉ rồi im lặng trở lại. Bị dây thường xuân phủ kín, nó giống hình mặt người nhăn nheo cười ma mãnh cả bọn. Liệu nó đang che giấu một kho báu hay một con quái vật thức giấc sau mỗi cú đào bằng cuốc và xẻng? Thẩm Phong nghe một tiếng thở. Bất ngờ, có ai đó bật cười.
- Ra mặt đi, đồ hèn! - Chu Bảo gầm giọng la lên.
Nụ cười biến thành những tiếng càu nhàu nguyền rủa không rõ.
- Đáng nguyên rủa! Đó là ma hay quỷ vậy? - Chu Bảo nghiến răng lầm bầm.
- Ra khỏi đó đi!
Thẩm Phong nắm một nắm đất rồi ném vào chỗ phát ra tiếng động. Cây cối xào xạc. Hai bóng đen lướt giữa những cành cây rồi biến mất về phía ngọn tre.
- Lũ khỉ! - Chu Bảo vừa nói vừa nhổ nước bọt. - Chúng làm tao sợ hết hồn! Tao thề với mày, sau đêm nay tao chỉ đi lang thang ngoài nghĩa địa sau khi chết.
Đâu đó, trong bóng tối, một con chim hú hú rồi cười khẩy như chọc ghẹo họ. Thẩm Phong lau cái trán vã mồ hôi rồi nhìn xung quanh. Không xa lắm, trước khóm tre, chàng thấy có một cái bóng giống như Bình Ngữ quay lưng lại phía họ. Chắc nàng đang vừa canh chừng vừa ngắm trời đất.
Một tiếng gầm nghiến chặt màn đêm.
- Cái gì vậy?
Chu Bảo rùng mình rồi lại giơ xẻng lên.
- Một con hổ, - Thẩm Phong trả lời.
Chu Bảo nhổ nước bọt.
- Nhanh kết thúc vụ cái mộ này đi! Tao thề với mày, giờ tao đã rất hối hận vì có con với một nữ tu. Nàng giết tao trước khi tao kịp cưới nàng!
Thẩm Phong nhìn sang Bình Ngữ. Nàng không nhúc nhích. Nàng phớt lờ nỗi sợ và những đau đớn của họ. Chắc nàng đã quyết vi phạm mọi điều cấm kỵ của thế giới trần gian này và bỏ ngoài tai mọi quy củ Phật giáo khi đẩy Chu Bảo tới chỗ trộm mộ của một bà hoàng sùng đạo. Phụ nữ là một đường hầm dẫn tới cõi hư vô hay tới châu báu?
Cúi khom người, Thẩm Phong đào bằng xẻng. Chu Bảo chất đất đá vào bao mà Bình Ngữ đưa cho rồi đem đổ ở miệng đường hầm.
- Mày có chắc là mình đi đúng đường không? - Chu Bảo vừa bò vừa hỏi. - Hay mày có chắc là tụi mình đào đúng chỗ không?
- Tao không chắc gì hết, - Thẩm Phong nói.
Hòa với đất, mồ hôi chàng trở nên nhão nhoẹt. Thỉnh thoảng chàng phải dừng lại rồi chùi mắt và miệng.
Giọng Chu Bảo lại vọng tới:
- Nếu đất sụp xuống đầu mình thì làm sao?
- Đó là điều tệ nhất, - chàng thợ đàn trả lời sau khi phun nước bọt. - Đất có thể sụp xuống và tụi mình bị lọt xuống một bao cát... Lấy cục đất này giùm tao. Tao không thở được.
Chu Bảo bò đi rồi quay lại.
- Một cái bóng màu cam đã nhảy qua nhảy lại nhiều lần trước mắt tao. Chắc tao gặp linh hồn người chết.
- Đừng quan tâm. Đừng cố hiểu nó là cái gì. Chỉ cần nghĩ tới nó là nó đã ám vào mày rồi.
Khi Thẩm Phong và sư phụ về làng với những tấm gỗ quan tài cổ, ban ngày họ đặt nó ngoài trời. Ban đêm, họ đem nó vào, đặt nó trên nệm rơm. Họ ngủ trên những phiến gỗ tìm thấy trong vương quốc người chết này và phải làm cho chúng quay lại cuộc sống bằng cách cho chúng hơi người sống. Lúc đầu, Thẩm Phong gặp ác mộng. Trong giấc mơ, chàng gặp những người xa lạ mặc đổ kỳ cục. Chàng không biết đó là người chết trở về gặp chàng hay chính
chàng đang phiêu diêu trong cõi ngày xưa. Sư phụ dặn chàng dù trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được trả lời câu hỏi của họ hay nhận lời mời của họ.
Giọng Chu Bảo ù ù:
- Thẩm Phong, mày có vẻ không sợ ma nhỉ?
- Sợ hả? Sư phụ tao càng ngày càng giống ma, tao quen rồi...
Bình Ngữ đưa cho họ những mẩu nến ngắn đã đốt. Có thể nàng đã ăn trộm chúng từ bàn thờ Tam Phật. Để tiết kiệm, Thẩm Phong chỉ dùng từng mẩu một. Bây giờ, ở độ sâu khoảng hai mươi bước chân, lòng đất phát ra mùi mốc meo. Tiến thêm bốn bước, chàng bị ngạt thở vì những hơi khí nóng. Ánh sáng đèn mờ in bóng đầu chàng đang nhảy múa trên vách. Chàng gãi và đào. Từng nắm đất rớt ra rồi rơi xuống. Chàng không còn cảm thấy bàn tay và cánh tay mình đang run. Nhưng đã quá trễ để quay lại. Chu Bảo và chàng đã đào quá xa, quá sâu; họ không thể nào dừng lại. Mùi của đất và tiếng gãi sột soạt đều đều làm Thẩm Phong buồn ngủ. Đôi mắt chàng cứ nhắm lại nên chàng phải cố gắng giữ nó mở ra. Như một trận triều cường, nỗi buồn xâm chiếm chàng. Nếu chàng chết trong ngôi mộ này, ai sẽ lo cho sư phụ chàng? Lấy ai đổ nước đầy chum, ai chụm thêm củi vào cái bếp thơm mùi gạo?
Cách đây hai năm, đôi tay người thợ đàn già bắt đầu run rẩy rồi ông không thể giữ dụng cụ để đục đẽo được nữa. Lúc đầu, tưởng mình bị trúng lời nguyền của ma quỷ theo chiếc quan tài ám vào người sống, ông đã uống các loại thảo dược mà theo ông có tác dụng trừ tà. Rồi sau đó, ngày qua ngày, bệnh càng nặng thêm. Một đêm nọ, cơn đau lên đến ngực ông. Lúc ngủ dậy, sư phụ không thể nào nói rõ tiếng được nữa. Từ ngày đó, ông lúc nào cũng cáu giận, ăn trong im lặng, ngủ trằn trọc trên nệm. Khi Thẩm Phong nói chuyện với ông, ông làm như bị điếc. Nhiều khi ông đi vào rừng nhiều ngày và trở về với gò má hốc hác, quần áo dơ bẩn. Những thợ săn đi ngang qua rừng kể rằng, ông ngủ trong hang động và đã trở thành bạn của khỉ vượn cùng các vì sao.
Từ khi nỗi bất hạnh ám lấy ngôi nhà, Thẩm Phong cũng đi mỗi khi chàng thất vọng. Ngược lại với sư phụ, Thẩm Phong đi vào thành, chơi với băng nhóm của Chu Bảo và lang thang trên những con đường ồn ào trong chợ. Mặt trời, mồ hôi, rượu, tiếng xì xào của các thương nhân, tiếng quân lính thao diễn đã làm lòng chàng tươi trẻ lại như một khúc nhạc ám vào não làm chàng quên đi nỗi buồn phiền. 
Chu Bảo quay lại, đá đá vào chàng. Trong ánh nến mờ mờ, nó giống như một con sâu đen dài. Dính đầy bùn và mồ hôi, đôi mắt sáng rực, khi nó nói chuyện, răng nó đánh lập cập trong đường hầm đỏ:
- Nếu tao chết, hãy cưới Bình Ngữ và giấu nàng ở nhà mày, được không?
- Điên! Mày không chết đâu!
Chu Bảo gật đầu.
- Bây giờ tao hối hận vì đã không nghe mày. Tụi mình sẽ không đến được đó.
- Dừng lại chút đi.
- Không! - Chu Bảo lớn tiếng.
Sau một hồi im lặng, nó tiếp tục:
- Mày có chắc đã đào đúng hướng không?
- Tao không biết.
Kéo cái bao, Chu Bảo bò trườn ra phía sau.
- Thẩm Phong, mày là anh em, dù có chết tao cũng không quên ơn mày! Khi tụi mình tới được hầm, mày có thể lấy bất cứ gì mày muốn!
- Để xem sao. Tao cần ít hơn mày.
Chu Bảo nhích ra ngoài.
- Tao có một câu hỏi, - Thẩm Phong hỏi nó. - Và tao muốn được biết câu trả lời trước khi chết.
- Hỏi gì?
Thẩm Phong đỏ mặt. Chu Bảo gầm gừ:
- Nói! Không ai nghe thấy tiếng tụi mình đâu!
Chàng thợ đàn trẻ ngập ngừng rồi liều nói:
- Đàn bà, như thế nào?
Chu Bảo bật cười. Nó cười tới mức hít cả đất vào mũi rồi lăn ra ho sặc sụa.
- Ha ha, đàn bà!... Khi... mày có một phần... châu báu, mày đi mà hỏi Hồng Ngọc ở trong nhà... Sen. Nàng sẽ giải thích hết cho mày!
- Đó không phải những gì tao muốn nói. Mà đàn bà là gì?
Chu Bảo làm ra vẻ suy ngẫm. Bỗng chốc, nó tìm được câu trả lời:
- Đàn bà ẩm ướt và nóng. Đi vào trong bị ép chặt rồi đào, đào và đào. Rồi bỗng nhiên bị thiêu đốt và... hê hê, và có con!
Rất hài lòng với câu trả lời của mình, Chu Bảo vừa lùi ra vừa hát:
Bông hoa quý nở ra nở ra thật to
Một con sâu đất bò, bò, bò đểkiêm chút mật ăn
A, a, a, người anh em, nếu bông hoa bất ngờ chầm chậm khép vào,
A, a, a, người anh em, người anh em sẽ bị kẹt bên trong và sẽ chẳng còn thấy mặt mẹ hiền...
Chu Bảo biến mất trong bóng tối. Thẩm Phong lại cầm xẻng và đào. Một cơn mưa đất đổ xuống đầu chàng. Chàng lau mặt bằng mu bàn tay. Chu Bảo không trả lời câu hỏi của chàng. Có lẽ chàng đã nói không rõ. Phải chăng số phận chàng không được biết đến phụ nữ? Tay chàng, mắt chàng, tai chàng, hơi thở của chàng, bụng dưới của chàng, ngày và đêm chỉ thuộc về đàn thôi ư? Có phải vì vậy mà chàng sinh ra đã mồ côi và người thợ đàn già là người hướng dẫn duy nhất trong cuộc đời chàng?
Thẩm Phong chỉ là một đứa trẻ khi sư phụ quyết định đánh thức khả năng thính giác của chàng.
“Âm nhạc ở khắp mọi nơi và mọi thứ đều có giai điệu riêng của nó”, ông nói. “Âm thanh của thế gian chia thành ba nhóm. Tiếng rì rầm hỗn độn của thiên nhiên trở nên hài hòa nếu người ta bịt lỗ tai ngoại vật và nghe bằng nội tâm. Người ta sẽ nghe được âm nhạc bằng các giác quan và ký ức. Nhưng nếu người ta bịt lỗ tai nội tâm để nghe bằng da, người ta sẽ nghe được âm nhạc của càn khôn, của mặt trời, mặt đất và các vì sao. Rồi, nếu người ta đóng kín tất cả các lỗ tai và nghe bằng linh hồn mình, người ta sẽ nghe ra âm nhạc của sự thông thái, của các thánh thần đang phiêu diêu trong gió và ánh sáng, thứ âm nhạc đi vào màn đêm và băng qua những bức tường, âm nhạc của tất cả những cuộc đời.”
Sư phụ vừa nói vừa chỉ tay về phía núi: “Có bao nhiêu cây trong rừng?”
Cậu bé Thẩm Phong ngây thơ đêm bằng mười đầu ngón tay rồi nhanh chóng không thể đếm được nữa.
“Có bao nhiêu sỏi bên bờ suôi?”
Thẩm Phong hẩy hẩy viên đá bằng mũi giày và không thể trả lời.
Sư phụ lại tiếp: “Có bao nhiêu sóng trên sông?”
Thẩm Phong toan đếm nhưng không đếm hết.
“Thế giới của chúng ta là vô tận. Số âm thanh của cây đàn cổ cầm cũng vô hạn.”
Bên bờ sông, có một đồi đá lớn tròn tròn. Nhìn từ xa giống như một nhóm người đang đứng ngắm sông.
“Những hòn đá đó trước kia ở thượng nguồn”, sư phụ nói. “Bị thác nước mài mòn và bào nhẵn dưới sóng nước triền miên, chúng đã mất dần góc cạnh và mũi nhọn. Cứ mỗi đợt triều cường chúng lại bị đẩy về phía hạ lưu. Suốt thời gian chuyển động chầm chậm này, chúng gần lại nhau, dính vào nhau và chồng lên nhau để cùng nhau chống lại dòng chảy.”
Theo chân sư phụ, Thẩm Phong leo lên những tảng đá. Khi mặt trời đâm thủng màn sương, những con sóng tối tăm bên bờ đối diện rút ra và trở thành những gờ sông dốc đứng. Vô số chim chóc nhảy múa trên những chỗ rạn nứt và trên mép đá. Sư phụ đứng lặng yên, mở rộng vòng tay. Sau lưng ông, Thẩm Phong cũng bắt chước như vậy. Chàng hít thật sâu rồi tưởng tượng đang nhấc một cục lửa mang lên trời. Sư phụ lúc đó nhấc cánh tay trái lên, gập chân phải lại rồi đứng cân bằng trên chân trái, Thẩm Phong cũng làm y như vậy. Hòn lửa lớn lên và chạy qua vai ông, vòng quanh đầu ông. Hòn lửa trở thành một quả cầu đầy khí hài hòa đi xuyên qua da rồi chia thành hai luồng khí nóng chạy vào trong hai chân.
Giọng sư phụ chàng vang lên: “Đàn là núi, sông, trời, đất, mây, thuyền, đá. Đàn là vũ trụ, vũ trụ là đàn. Người chơi đàn là một nốt nhạc của vũ trụ. Hít sâu... thở ra...”
Bỗng sư phụ chuyển động nhanh hơn, đẩy mạnh tay trái và rẽ không khí bằng tay phải. Đứng trên chân phải, ông nâng chân trái lên chạm đầu và tung một loạt cú đá trong không khí. Dù chân lảo đảo nhưng Thẩm Phong vẫn bắt chước ông.
“Đàn không dành riêng cho giới trí thức”, sư phụ nói. “Đàn là nghệ thuật chiến tranh, phá hủy và chết chóc. Thẩm Phong, ta dạy cho con võ thuật để mài giũa ý chí của con.”
Trước mặt chàng, sư phụ quay lại và làm chầm chậm các thao tác. Giọng ông xa xăm: “Lúc đầu, vũ trụ chỉ là một vòng xoáy. Lúc đầu trốn ở trong tâm của nó, thần Bàn Cổ ngủ trong bóng tối hỗn độn suốt mười tám nghìn năm. Một ngày nọ, thần thức dậy, bước ra ngoài rồi dùng tay chân đẩy những đám khí dày. Những vật nhẹ hơn nổi lên thành bầu trời. Những thứ nặng hơn lắng xuống thành đất. Thần Bàn Cổ đứng dậy, gánh bầu trời trên vai. Mỗi ngày thần cao thêm một trượng trong suốt mười tám nghìn năm nữa để rồi cuối cùng bầu trời tách ra khỏi mặt đất và chúng không bao giờ liền lại nữa. Khi mặt đất cứng lại và bầu trời khô đi, Bàn Cổ nằm lăn trên mặt đất và chết vì mệt mỏi. Mắt trái của thần thành mặt trời, mắt phải thành mặt trăng. Da thịt thần và máu thần thành núi đồi, sông suối, rừng và đá.”
Thẩm Phong lúc đó cảm thấy tràn đầy sức mạnh. Quả cầu khí chàng giữ trong tay lớn dần lên và kéo chàng lên trời.
Sư phụ chàng nói tiếp: “Hãy hạ thấp từ từ xuống gót chân. Gan bàn chân là mặt đất. Mặt đất trải rộng ra vô cùng. Con đã thành vô cùng. Bây giờ hãy mở lồng ngực ra, nhắm mắt lại và nghe tiếng nhạc trên từng đầu ngọn tóc của con. Nhạc không thành tiếng nhưng phát sáng. Đó là tiêng nhạc của sự thông tuệ.”
Trước một đường hầm vừa dài vừa vòng lên, Thẩm Phong cảm thấy lạnh băng và khô khốc. Chàng dừng lại, dùng ngọn nến ủ ấm những ngón tay đang co cứng và nhìn lòng bàn tay mình, vừa rộng vừa đỏ và đầy vết chai. Những kẻ đào mộ đào đất để cướp châu báu, còn những thợ đàn khoét gỗ để cho cái trống rỗng một cuộc sống, đó là âm nhạc.
Âm nhạc! Từ trong đường hầm phát ra âm thanh dìu dặt. Không tin là có ma, Thẩm Phong dừng lại lắng nghe rồi bắt đầu cào mạnh. Từng cục, từng cục đất rơi xuống ngày càng nhiều. Đó không còn là đất tươi nữa mà là một chất cứng vón thành bột. Chàng thận trọng đổi dụng cụ để sử dụng góc của lưỡi cuốc. Giai điệu yếu ớt và ma quái dần trở thành tiếng gào thét theo từng mảng đất giống như tro rơi ra từ phía trên vách hầm.
Thẩm Phong dừng lại.
- Mày có nghe có tiếng nhạc không? - Chàng hỏi Chu Bảo đang mải hót đất
- Cái gì? Nhạc gì?
- Không có gì, - Thẩm Phong trả lời.
Âm nhạc lại vẳng lại tai chàng như thể ngay trên đầu chàng một nhóm nhạc công đang chơi hòa tấu đàn dây. Khi chàng cào cào theo hướng đó, chàng càng nghe rõ hơn. Âm nhạc đó khác hẳn với tất cả những thứ âm nhạc mà chàng nghe trước đó. Các nốt va vào nhau rất rõ và trong veo như tiếng ngọc trai. Thỉnh thoảng, các nốt nhạc đó rời rạc tới mức có thể nghĩ đó là điệu hát của một phụ nữ ngoại quốc.
Âm nhạc lớn lên. Các nốt rơi vãi. Vọng âm trầm và mơ màng của chúng vỗ về tay và chân chàng, làm chàng run rẩy sung sướng. Lưỡi cuốc càng nhanh hơn và càng lúc càng đập mạnh hơn vào đất. Điệu nhạc đã nhập vào chàng, trườn lên trán chàng và gọi:
- Đi với ta, đi!
Bất ngờ, một cơn mưa đất và bột đổ xuống rồi âm nhạc im bặt. Một cái lỗ xuất hiện ngay trên đầu chàng. Thẩm Phong với tay, đưa ngọn nến lại gần hơn, còn tay kia với một vài nhát cuốc nữa, cái lỗ đã rõ ràng. Một mùi rất nặng xộc vào mũi chàng. Một con vật từ địa ngục nhảy lên cắn vào mặt chàng. Một cơn gió lạnh thổi tắt ngọn nến. Bị nghẹt thở, Thẩm Phong xé miếng vải trên ngực áo, chân chàng đào đào đất rồi chàng quay lại để hét lên một tiếng. Nhưng không một âm thanh nào thoát ra. Chàng co rúm rồi ngất đi.
- Thẩm Phong, Thẩm Phong!
Chàng mở mắt vẻ nặng nhọc. Hàng mi chàng rất nặng. Tai chàng ù ù, đầu chàng xoay vòng vòng. Chàng muốn nhúc nhích nhưng chẳng còn chút sức lực. Chàng cố nhớ lại những gì đã xảy ra nhưng chẳng nhớ được gì.
Ai đó tiếp tục nói chuyện với chàng và lay mạnh chân chàng. Giọng đầy sợ hãi:
- Mày chết rồi hả, Thẩm Phong?... Mày không được chết!... Tỉnh lại đi!
Giọng nói nhỏ dần đi.
Thẩm Phong dần tỉnh lại, chàng phải tiếp xúc với ngôi mộ và có thế đã bị nhiễm độc vì chướng khí của cái xác. Chàng nghiến răng rồi nhấc cánh tay nặng như một trái núi của mình lên. Chàng mò mẫm cởi đai quần bằng sợi cây dầu rổi tiểu lên mình, sau đó chàng che mũi và miệng lại. Khi tai chàng ngừng ù ù, ngón tay chàng chạm được ngọn nến trong bóng tối và mấy hòn đá lửa trong túi. Những tia sáng lúc đầu còn bắn ra, sau bị bóng tối nuốt chửng. Chàng chờ một hồi lâu trước khi thử lại lần nữa. Anh sáng của ngọn nến yêu như hạt đậu nhỏ, mang lại cho chàng sức sống. Chàng bò lại phía Chu Bảo. Chàng lắc nó, gọi nó dậy và cho nó một mẩu vải quần thấm nước tiểu để bịt mũi. Hai đứa giúp nhau, cuối cùng cũng bò ngược ra được lối lên mặt đất.
Cả hai gỡ tấm vải bịt mũi ra và nằm dài bên nhau. Nằm ngửa, tay bắt tréo trên ngực, chúng nhìn bầu trời. Đêm sáng sủa. Bên kia bức tường vây quanh, mấy chiếc chuông dưới mái chùa rung nhè nhẹ. Một con chó bắt đầu sủa, rồi im. Tre xao động. Sau những chiếc lá tre, trên trời sao đang nhấp nháy, báo hiệu một ngày đầy nắng. Đang là mùa nào chứ? Thẩm Phong rối bời. Tre vẫn xanh quanh năm. Trong vùng núi này, cứ sáu mươi năm tre lại nở hoa. Có lẽ lúc đó sẽ có động đất, mưa và mặt trời cưỡng bức mặt đất, và vì kiệt sức sau khi nở hoa, tre sẽ vàng đi, rụng hết lá và khô héo.
Chu Bảo đánh khuỷu tay.
- Mày có ý gì không? Nếu mình không tìm ra châu báu, làm sao để mình giàu lên được?
Thẩm Phong trả lời qua loa:
- Tao nghe nói vì muốn bán hàng hóa cho không chỉ các đại nhân phương Nam, các thương gia bán lụa đã đi vào tận các vương quốc man di bất chấp chiến tranh và giang tặc trên sông. Không biết sợ mệt nhọc và nguy hiểm, những người táo bạo nhất đã đổi ngựa lấy lạc đà, băng qua sa mạc Tây Bắc để cung cấp cho các hoàng tử Tây Vực có mắt xanh như mắt mèo. Lụa là dấu hiệu cho thấy một người là quý tộc và quyền lực, còn tiền bạc cho thấy một người khốn khổ và đói ăn. Có thể mày sẽ tìm ra một thương nhân trong thành muốn mày đi về phương Bắc để canh gác các đoàn thổ. Nhưng còn Bình Ngữ thì... phải cải trang thành đàn ông để rời khỏi bờ Nam. Bên kia sông Dương Từ, bên phần đất của các tộc man di, chúng mày sẽ được tự do.
Chu Bảo thở dài:
- Bên bờ Bắc, từ tháng Mười đến tháng Tư, gió bấc thổi ngựa bò quỵ ngã và đông cứng những lá cờ đang căng như những miếng sắt. Tụi tao sẽ bị ù tai và chảy máu mũi. Phương Bắc không dành cho tụi tao, những đứa chưa biết mùa đông là gì.
Thẩm Phong ngập ngừng một chút.
- Quỷ ám mày rồi! Ngoài đường có bao nhiêu cô gái trong thành Kinh Châu này, sao lại phải là một nữ tu trên núi kia chứ!
Chu Bảo cười cay đắng.
- Quỷ ư? Là Phật đó! Đám con gái chạy theo tao để tao cho chúng tiền. Chúng bỏ đi khi gặp gã khác giàu hơn. Còn Bình Ngữ mang cho tao niềm vui. Lúc không có nàng, tao có thể làm mọi thứ để kiếm vài xu mà tao đã tiêu mất không biết vào việc gì. Lúc có nàng, tao là một thằng hiền lành và tốt bụng, tao bảo vệ nàng và khiến nàng cười. Khi mặt nàng xanh xao trở nên tươi tắn, tao quên cả đường đi, tiếng ồn ào, bụi bặm, mồ hôi, tao thoáng thấy ánh sáng cùa một vùng đất thanh sạch.
Thẩm Phong im lặng. Chàng thầm ganh tỵ với Chu Bảo. Chàng cũng muốn có một người phụ nữ làm chàng quên đi bệnh tật của sư phụ chàng, quên đi cuộc đời khó nhọc và cho chàng thấy ánh sáng của Phật! Liệu nàng có đi về phía chàng khi chàng có được một phần châu báu không?
Chu Bảo xuống trước, Thẩm Phong theo sát gót. Cả hai bịt mặt bằng miếng vải tẩm nước tiểu. Ngọn nến nhảy múa cho họ biết có chút không khí lưu thông trong hầm. Thẩm Phong đập đập mông Chu Bảo để nó tiến sâu vào trong cái lỗ. Sau khi ngập ngừng một chút, Thẩm Phong cũng theo nó ló đầu lên. Chàng không thấy gì ngoài một lớp sương mù dày đặc. Chàng đưa cuốc và xẻng lên rồi nhắm mắt lại và nhảy lên.
Khi chàng mở mắt ra, chàng thấy một lớp quầng sáng bụi bềnh bồng. Chàng đốt nến lên. Trước mặt chàng, một cây cột hiện ra. Cột bị phủ bởi những hạt li ti chuyển động lên xuống ghê rợn, thỉnh thoảng phát ra những chớp sáng. Khi chàng tiến lên, ngọn nến của chàng để lại trong bóng tối một vệt sáng. Cây cột lùi lại, rồi dang ra một loạt tay xoắn và quấn quanh Thẩm Phong như muốn giật lấy ngọn nến trong tay chàng.
Cách đó không xa, Chu Bảo la lên kinh hãi. Giữa một vòng xoáy bụi bặm xuất hiện một người mặc áo trắng. Thẩm Phong mở to mắt. Hình người đó là một cái bệ thờ đẽo bằng đá khoáng; bên trên là một cỗ quan tài.
Thẩm Phong dò độ cứng của mặt đất bằng cuốc trước khi đặt chân tới đó rồi đi quanh hầm. Trái ngược với các ngôi mộ của nhà giàu thường có cả một cung điện thực thụ ở dưới đất phân thành vô số phòng nhỏ giống như vẻ tráng lệ khi người chết còn sống, ngôi mộ này lại chỉ có một phòng tang lễ hình tròn và Thẩm Phong không hề thấy bia khắc tên, quê quán cùng cuộc đời người chết. Ở Trung Hoa, bờ Bắc cũng như bờ Nam, những người sống lập bia mộ cho người chết. Đối với một số người, đó là sự tưởng nhớ về một cuộc đời vất vả, đối với những người khác, đó là sự vinh danh một cuộc đời sáng chói. Từ người cùng cực tới một ông vua, tất cả đều có quyền được có một bia gỗ hay đá cẩm thạch ghi lại cuộc đời họ bằng mực đen đơn giản hoặc khắc bằng vàng.
Không có bia mộ không có nghĩa là ngôi mộ không quan trọng, chàng thợ đàn trẻ tuổi nghĩ. Đó là một người mà người ta muốn giấu đi thân thế có thể vì bà đã bị trục xuất khỏi triều đình, hoặc cũng có thể vì người ta muốn bà tránh khỏi bị ô nhục vì mộ phần bị đào bới. Trongcả hai trường hợp, đó chỉ có thể là một người có vị trí quan trọng.
Khi Thẩm Phong soi nến lại gần, những bức vách bắt đầu sáng lên, để lộ những lớp sơn tỉ mỉ có viền vàng. Sự có mặt của hai con linh thú là thanh long và bạch hổ, những quân bảo vệ hoàng đế và hoàng hậu, cho thấy những gì Chu Bảo nói với chàng là đúng. Được vẽ trên tường Đông và tường Tây, chúng dẫn theo hai đoàn kỵ binh và bộ binh, những quan lại đội mũ áo quan văn, những kẻ hầu trai và gái mang chum nước, chổi, quạt, chén, đĩa, thảo mộc, tất cả các vật dụng hằng ngày của một cuộc đời sang trọng mà Thẩm Phong chưa từng biết tới, rồi đến một bầy chim, mèo, khỉ, chó và báo được thuần hóa. Những xe đầy lính cầm lao và cung tên bao quanh hai chiêc xe vẽ rồng, kỳ lân và phượng hoàng, có rèm thêu chì vàng đóng kín. Vẻ đẹp của những quan lại mặc gấm vóc đủ cho thấy người chủ của họ quan trọng đến mức nào. Tim Thẩm Phong thắt lại. Có thể chàng đang ở trong chính ngôi mộ của Hoàng đế triều Tống cũng nên! Để lừa những kẻ đào mộ trong tương lai, những người quan trọng ở thời đó thường xây nhiều mộ giả trước khi được mai táng ở một nơi bí mật với nhiều châu báu. Một nghĩa địa của những nữ tu trên đỉnh một ngọn núi hiu quạnh là nơi lý tưởng để chôn vùi một bí mật như vậy!
Chu Bảo đã trèo lên bệ thờ và kiểm tra cỗ quan tài. Thẩm Phong vẫn còn đang dạo nhanh một vòng quanh phòng. Dọc theo tường, chàng không thấy hũ chứa ngũ cốc, không có lọ đựng nữ trang, cũng không có những bức tượng nhỏ bằng đất nung hình những người hầu và thú để cưỡi, chén bát hay bếp lò, cũng không hề có các thùng thư tịch, họa phẩm hay quần áo mà người chết đã mặc. Phải chăng đây là một ngôi mộ giả để đánh lừa?
Đứng giạng chân hai bên áo quan, Chu Bảo vội vã:
- Nhanh giúp tao mở nắp quan tài. Trời sắp sáng rồi!
Khi đưa nến đến gần, Thẩm Phong nhận ra đó là một cỗ quan tài đơn giản nhưng nghiêm trang. Khi đưa tay áo chùi một góc hòm, chàng thấy lộ ra lớp gỗ sơn đen. Chàng gõ nhè nhẹ vào đó. Một loạt âm thanh trong trẻo vang lên. Chàng nhận ra tiếng gỗ của một thân cây có chất lượng đặc biệt.
Thẩm Phong đưa các dụng cụ cho Chu Bảo rồi cũng leo lên. Cả hai cùng đập vào bốn góc, giữa khe hở của nắp và thân quan tài. Những hạt bụi nhảy múa và lấp lánh quanh ngọn nến. Cỗ quan tài nhanh chóng bị khuất phục. Họ dùng các dụng cụ để nạy và di chuyển nắp quan tài. Sợ nắp quan tài rớt xuống đất, Thẩm Phong nhảy xuống để đỡ lấy.
Một đám mây bụi rơi xuống cùng lúc với mùi xạ hương nhấn chìm khoang mũi của Thẩm Phong dù cho chàng đã bịt mặt. Chàng trèo lên bệ rồi cúi xuống. Chu Bảo và chàng cùng đưa nến soi vào. Như những con côn trùng cánh bảy màu, những hạt bụi bay vòng rồi tản ra. Một phụ nữ còn sống xuất hiện, rạng ngời hạnh phúc và tươi trẻ. Trên khuôn mặt hình trái xoan dần hiện ra hai má đánh phấn và cánh mũi nhỏ nhắn. Đôi lông mi khép hờ, trán không một nếp nhăn, nàng mang một vẻ đẹp đầy cuốn hút dù đội nón đen và mặc váy xám của một nữ tu. Hai tay đặt trên ngực, với nụ cười mỉm trên môi, nàng trông như đang chuẩn bị thức dậy.
Chu Bảo quỳ xuống, nắm tay lại, lạy và thì thầm:
- Bậc cao quý, xin tha tội cho kẻ tiện dân. Xin cho phép kẻ tiện dân được mượn của bà một ít vàng bạc, chỉ vừa đủ để nuôi sống vợ và con của tiện dân. Bà đã ra đi và không còn cần nữa. Ở đây, cuộc đời thật nhiều khổ đau...
Thẩm Phong nhớ chàng từng nghe nói cơ thể của các thánh có thể giữ được rất lâu. Nhưng thật khó để tin rằng người phụ nữ này đã qua đời cách đây ba triều đại. Còn châu báu ở đâu? Đôi tay Thẩm Phong run rẩy làm ngọn nến rớt một mẩu cháy trên trán người phụ nữ. Da nàng nứt khẽ, rách ra để lộ xương sọ. Trong chớp mắt, bộ quần áo rách ra để lộ bộ ngực trắng đã hóp xuống và mở ra những cái xương sườn nứt nẻ. Khi Chu Bảo đã khấn vái xong và ngẩng lên, chỉ còn lại xương và một nhúm tro. Thẩm Phong cảm nhận một luồng gió lạnh quật vào xuyên qua ngực chàng như một lưỡi dao. Chu Bảo nhảy vào quan tài tìm kiếm, lục lọi. Khi tay nó chạm vào, xương sọ bị nứt ra, bộ xương sống rã ra và xương cũng vụn hết. Những hạt bụi bay lấp lánh giữa các ngón tay của nó. Thẩm Phong nhìn hành động thô lậu này rồi quay mặt đi.
- Châu báu ở đâu? Châu báu!
Vừa hét lên, Chu Bảo vừa cầm cái xẻng đập vào đáy quan tài. Bị đập dữ dội, cỗ quan tài nhanh chóng rạn nứt rồi vỡ toạc. Mũi xẻng đập vào bệ đá làm tung tóe những tia lửa. Không tìm được gì, Chu Bảo nhảy xuống đất. Tay vẫn cầm xẻng, nó tiếp tục đập phá bức tường hòng tìm thấy một cánh cổng bí mật dẫn đến phòng chứa châu báu. Nhìn thấy bức tường đẹp đẽ bị phá hủy dưới mũi xẻng của Chu Bảo, Thẩm Phong hối hận vì đã theo bạn và đồng lõa với hành động cướp phá của nó. Chu Bảo giờ đang đào mặt đất.
Thẩm Phong, lòng ngổn ngang, túm lấy vai Chu Bảo rồi la lên:
- Trời sắp sáng! Đi thôi.
Chu Bảo gào thét:
- Bình Ngữ không nói dối! Bộ xương không hề mang nữ trang quanh cổ, không ngậm ngọc trai trong miệng, không cầm ngọc thạch trong tay. Đó chỉ là một con hầu còn bà chủ nằm ở phòng kế bên!
- Đi thôi! - Thẩm Phong giận dữ trả lời. - Nêu để lũ chó phát hiện và các nữ tu bắt được chúng ta, chúng ta sẽ chết.
- Tao mặc kệ! Tao không đi chừng nào chưa tìm được châu báu của tao. Thả tao ra!
Chu Bảo huých Thẩm Phong rồi tiếp tục đào bới.
- Tao về - Thẩm Phong nói với nó. - Đi với tao.
- Mày đi đi! Để tao yên!
Thẩm Phong vẫn cố gắng:
- Đi. Ra khỏi đây.
Chu Bảo nhào vào chàng rồi đẩy chàng ngã xuống đất.
- Cút đi, thằng hèn! Tao không muốn thấy mày nữa!
Khi Thẩm Phong chuẩn bị xuống lại hầm, chàng nghe tiếng gọi sau lưng mình:
- Chờ đã!
Chu Bảo ngã xuống đất, dựa vào tường. Đầy bùn và bụi, nó giống như một con chuột đang hấp hối. Thẩm Phong ngồi xuống bên nó. Người Trung Hoa đi vào cõi chết với ít nhất là một vật thuộc về họ. Ngay cả các sư sãi cũng được chôn với tràng hạt. Chu Bảo có vẻ đã đúng. Cái xác chỉ là kẻ thế thân, người chết thật ở chỗ khác, có lẽ không phải trong nghĩa địa này. Lo sợ mộ mình bị phá hoại, cơ thể mình bị ô nhục và danh dự bị vấy bẩn, tướng Chu Du đã cho xây bảy mươi hai ngôi mộ để đánh lừa kẻ thù và phường trộm mộ. Thẩm Phong nhìn khắp căn phòng rồi dừng lại ở nắp quan tài nằm trên mặt đất. Nếu cái hang này chỉ chứa một kẻ thế thân, tại sao lại quàn một bà hoàng giả trong một quan tài làm bằng gỗ nghìn năm tuổi đặt trên bệ đá có họa tiết chạm khắc tinh xảo? Tại sao những bức vẽ trên tường được mạ vàng lại vẽ vẻ huy hoàng trên đường người chết về trời? Tại sao không đặt những đổ cúng tế rẻ tiền để làm hài lòng những tên đào mộ thô lậu và để chúng đi mà không muốn tìm thêm gì nữa?
- Phật tổ ơi, sự từ bi của ngài mà ai cũng nói là vô biên đâu rồi?... Bình Ngữ không thể chết... - Chu Bảo rên xiết.
Thẩm Phong đứng dậy rồi nhớ ra tay buôn đổ cô Lưu Bé Bự đã đặt chàng làm một cây đàn cổ cầm giả cổ.
- Hãy giúp tao đưa cái nắp quan tài xuống hầm, - chàng nói.
- Nó chẳng giá trị gì, chỉ để nhóm lửa thôi! Kệ nó! Tao sẽ vặn cổ những thằng lữ khách đi một mình để cướp tiền.
- Nhấc nắp quan tài lên, tao nói mày đó.
- Thôi bỏ đi! Tao mệt lử rồi.
Thẩm Phong buộc lòng phải giải thích:
- Mang nó về! Một cây đàn được làm bằng thứ gỗ cổ này sẽ mang lại rất nhiều tiền. Sẽ đủ cho mày và Bình Ngữ rời khỏi thành...
Bên ngoài, sao đã mờ dần. Ở phía đông, mỏm đá núi bắt đầu đỏ lên. Thẩm Phong và Chu Bảo vội vã lấp cửa hang lại, trèo qua tường nghĩa địa rồi xuống núi bằng con đường yêu thích của lũ nai rừng.
Thẩm Phong sải từng bước dài. Chu Bảo nghiêng ngả theo sau, im lặng, bị cơn mệt và nỗi thất vọng chiếm cứ. Trước khi mặt trời lên cao trên vòm trời, chúng đã kịp đến bờ hồ sâu cuối thung lũng. Chúng nhảy xuống nước để từng cục đất dính trên quần áo và tóc trôi ra, nổi lềnh bềnh. Bất thình lình, giữa dòng nước ngập bùn, Chu Bảo đứng thẳng dậy.
- Thẩm Phong! Thẩm Phong! - Nó la lên quên cả lau mặt. - Mày làm cây đàn cổ cầm trong bao lâu?
- Hai năm để xử lý gỗ và sáu tháng đục đẽo. Sao vậy?
- Hãy quên câu hỏi của tao đi! Mày đã lừa được tao, thằng khốn!
Chu Bảo rã rời lên khỏi hồ. Không nói một lời, cũng không ngoảnh lại, nó đi giày, chạy và biến mất trong rừng.
Mặt trời hiện ra trên vòm trời vuông bị cây cối cắt xẻ rồi ném xuống một cơn mưa những mũi tên ánh sáng trên mặt hồ. Thẩm Phong thấy mình đứng giữa những tia lửa vàng và xanh.