Chương 2 (B)
1) 1825: Phong trào Décabristes

    
uộc tấn công đầu tiên là sự khởi loạn của một phong trào, sau được mệnh danh là bọn Décabristes. Phong trào này được chuẩn bị từ 1820, và khởi loạn vào tháng 12-1825. Họ võ trang khởi loạn. Phong trào gồm một số quý tộc và sĩ quan. Người cầm đầu tên là Pestel. Không có dân chúng. Phong trào được phôi thai một phần do cuộc xâm lăng của Napoléon vào những năm 1809-1810: mùa đông giá lạnh của xứ Nga cùng tài ba của tướng Kutuzov đã đánh tan đạo quân bách chiến bách thẳng của Napoléon. Vì đẩy lui được Napoléon, nên binh sĩ cùng sĩ quan Nga chợt nhận thấy rằng họ cũng là những tay anh hùng. Nhưng khi giặc yên rồi, họ trở về quê, lại thấy mình bị bóc lột. Nhất là trong khi tranh chiến, đi đánh nhau ở nước, họ đã được ra khỏi khung khổ của chế độ Nga hoàng, và nhận thấy tại các nước khác, người dân không đến nỗi bị bóc lột như tại nước họ. Đồng thời, binh sĩ của Napoléon, khi xâm nhập lãnh thổ Nga, cũng gieo rắc những tư tưởng tự do bình đẳng trong óc người Nga. Do đó, một số sĩ quan đã muốn ra tay lay đổ chế độ. Về phía quý tộc, có một số quý tộc có lý tưởng nhân đạo, muốn thực sự giải phóng cho dân Nga. Họ cũng tương tự như Mirabeau, hoặc những quý tộc Pháp đã liên minh với thứ dân, và trong đêm 4-8-1790, đã khước từ những quyền của quý tộc… Cho nên, phong trào Décabristes là một phong trào rất lý tưởng, lý tưởng đến nỗi ngây thơ. Họ nói trước khi khởi loạn: “Có lẽ chúng mình sẽ chết, nhưng chết đẹp đẽ”. Đó là quan niệm “không thành công thì thành nhân” của những con người cách mạng trong buổi đầu có quá nhiều lý tưởng. Họ cùng đưa ra một chương trình cách mạng: truất bỏ quyền hành của quý tộc, tổ chức nền tảng quốc gia theo một kiễu mẫu dân chủ toàn diện, bỏ đế chế, tổ chức một Liên bang gồm các chủng tộc trong đó, các địa phương đều có quyền tự trị rộng rãi v.v… Họ đã khởi nghĩa ở kinh đô Saint-Pétersbourg, nhưng bị thảm bại. Tháng chạp 1825, những khẩu thần công của Nga hoàng đã làm tan tác đám quân khởi nghĩa. Những kẻ sống sót đều bị đi Siberie, có 5 người bị treo cổ!

2) 1830 trở đi: tư tưởng Pháp-Đức đột nhập - Hư vô chủ nghĩa

Tới năm 1830, ảnh hưởng văn hoả Pháp xâm nhập vào nước Nga. Những tư tưởng gia cách mạng như phái Encyclopédistes, những tiểu thuyết Pháp, những sách truyền bá xã hội chủ nghĩa Pháp như kiểu Saint Simon, Fourier đều được thịnh hành tại Nga. Do đó, người dân Nga, nhất là lớp tư sản trí thức, đều tiêm nhiễm tư tưởng của cách mạng 1789 cũng như tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp. Văn hoá Pháp thịnh hành đến nỗi nhiều người Nga thường hay nói chuyện với nhau bằng tiếing Pháp, coi đó là một sự biểu lộ văn hoá. Tuy nhiên, trên dải đất Nga, có rất ít người Pháp. Trừ một số ít sang kinh doanh buôn bán, hoặc những có gái quý tộc Pháp bị sa sút phải sang ngồi dậy trẻ em tại các gia đình quý tộc Nga.
Tới 1840, khi người dân Nga đã có ít nhiều ý thức cách mạng do ảnh hưởng văn hoá Pháp, thì nền tư tưởng Đức (nhất là Schelling, Hégel) lại tràn vào mạnh mẽ. Tư tưởng Đức làm át hẳn tư tưởng Pháp. Thực ra, từ những thế kỷ trước, dân Nga vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của dân Đức. Trường Đại học đầu tiên lập tại nước Nga là Đại học Moscou, lập vào 1750 bởi những người Đức, và có nhiều môn dậy bằng tiếng Đức. Hơn nữa, đã từ mấy thế kỷ trước, dân Đức sang đất Nga rất nhiều để làm nghề hoặc kinh doanh buôn bán. Cho nên, khi tư tưởng của Hégel và thơ của Schelling tràn vào, người trí thức Nga đã say mẻ hết sức, khiến quên cả tư tưởng Pháp. Họ say mê triết học Hégel đến nỗi có người mang cả bộ Luận lý của Hégel để cố dịch thành thơ. Lúc ban đầu, phái trí thức đều coi triết thuyết Hégel như một thứ chân lý thiên khải! (?) - Nhưng chết một nỗi là trên phương diện xã hội, triết thuyết Hégel đã đi tới một kết luận bảo thủ trái với hoài vọng cách mạng của phái trí thức Nga. Vì thuyết của Hégel đã nêu cao tiêu ngữ: “Tất cả những gì có thật, đều có lý”. Trong những sự kiện có thật, có cả chế độ xã hội đương thời. Nếu chế độ xã hội đương thời là có thật, tin theo Hégel, nó tất nhiên phải có lý. Đã nhận là có lý, làm sao có thể đánh đổ được chế độ ấy! Cho nên, kết luận suy diễn ở thuyết Hégel, phái trí thức Nga dần dằn mới nhận thấy sự trải ngược với hoài bão cách mạng. Họ đâm ra ngấn ngơ. Nhưng vì chót mang trong người bầu nhiệt huyết muốn giải phóng cho dân chúng, nên phái trí thức Nga đã dần dần bước từ quan niệm lý trí độc tôn của Hégel tới một chủ nghĩa trái ngược: đó là hư vô chủ nghĩa. Từ 1840 cho đến 1870, trào lưu hư vô chủ nghĩa phôi thai và lan tràn. Nó sẽ trở thành nguyên nhân sâu xa của những phong trào cách mạng tiếp theo. Hầu hết các tay trí thức thời đó đều trải qua giai đoạn biến chuyển nói trên, từ Hégel đến hư vô chủ nghĩa. Lúc đó, những tư tưởng gia Nga tiền phong của cách mạng khá nhiều, nhưng thiết tưởng chỉ cần kể tới mấy tay cự phách sau đây:
Biélinski: sinh vào cuối thế kỷ 18, và chết vào 1848, tức là năm mà Marx tung ra bản tuyên ngôn của đảng cộng sản. Một trong những tư tưởng gia có nhiều ảnh hưởng từ 1840 đến 1850. Vốn có đầu óc cách mạng, Biélinski trước kia chịu ảnh hưởng của nền tư tưởng cách mạng Pháp. Tới khi đọc Hégel, ông cũng tưởng chừng như tìm thấy chân lý: “Bây giờ tôi mới hiểu rằng không có gì là tình cờ và ngẫu nhiên hết. Tôi đã giã từ tư tưởng Pháp”. Từ đó, ông gần như chuyển sang sự chấp nhận chế độ xã hội đương thời, và chấp nhận một cách thành thực?” Trong một thời gian, ông ép mình chấp nhận cái thế giới trước mắt, và ông tự an ủi cho rằng có lẽ những đau khổ của con người rồi đây sẽ trở thành cái vinh quang của nó. Nhưng chỉ được một thời gian! Dần dần, tâm hồn hào hiệp của ông lại không chịu nổi những cảnh lượng đè nén bóc lột dưới chế độ Nga hoàng, có lẽ ông chỉ có thể chịu nổi những đau khổ của riêng mình, còn như đứng trước đau khổ của kẻ khác, ông vẫn thấy bất nhẫn. Ồng từng viết: “Tôi không muốn cái thứ hạnh phúc đơn độc của riêng tôi, một khi lôi còn thấy trước mắt những đồng chủng bị đau khổ”. Rồi từ đó, ông lại từ bỏ quan niệm của Hégel để trở lại tâm trạng nổi loạn trước kia. Nhưng lần này, sự nổi loạn đi xa hơn nữa, và ông bắt đầu đặt nền tảng của hư vô chủ nghĩa. Ỏng viết: “Cá nhân con người không thể nào thừa nhận lịch sừ trên diễn trình tự nhiên của nó. Từ nay trở đi, sự phủ nhận hết thẩy thực tại sẽ là phương châm của tôi. Và những vị anh lùing tôi hằng sùng kính đều là những người đã từng đả phá chế độ cũ: Luther, những tư tưởng gia Bách khoa Pháp, những tay cách mạng khủng bố, và Byron trong cuốn Cain”. Lời Biélinski, hư vô chủ nghĩa bắt đầu được gieo rắc trong lớp trí thức Nga thời đó.
Herzen, Pisarey: tiếp theo Biélinski, Herzen và Pisarey đã phát triển thêm hư vô chủ nghĩa. Họ đem lại cho hư vô chủ nghĩa một sắc thái vô thần, và đồng thời làm sâu rộng thái độ khẳng định trước kia của Biélinski. Tới lúc đó (1850-1880), nềntư tưởng duy vật của Buchner, cùng thuyết tiến hoá của Darwin đã du nhập nước Nga. Giới thanh niên đều dần dần chấp nhận quan niệm vô thần. Những ai không chịu công nhận Darwin, hoặc còn muốn nói tới tính chất bất tử của linh hồn đều bị coi là kẻ phản bội. Herzen vả Pisarey đã nhuốm thêm cho hư vô chủ nghĩa một mầu sắc hoàn toàn khoa học thực nghiệm. Rồi từ những cứ điểm đó, họ tiến tới thái độ khước từ hết thẩy: khước từ mọi truyền thống tư tưởng, mọi luân lý, khước từ các tôn giảo, triết học, các quan niệm thẩm mỹ, họ khước từ cả đến những tập quán cùng sự lịch thiệp trong việc giao tế xã hội, vì cho rằng tất cả những thứ đó đều trái với lý trí và khoa học. Tóm lại, ở giai đoạn này, hư vô chủ nghĩa thường được thâu tóm trong thái độ khước từ có tính cách hoàn toàn vị kỷ. Sự xiển dương lòng vị kỷ cá nhân, cũng như sự khước từ luân lý, khiến có lần Pisarey đã đặt lên vấn đề gay cấn như sau: người ta có quyền giết bố mẹ không? Và Pisarey trả lời: tại sao không, nếu quả thực tôi mong muốn điều đó (?!) - Tuy nhiên, với Herzen và Pisarev, hư vô chủ nghĩa còn ở trên hình diện lý trí, và phải đợi tới những người sau như Bakounine, chủ nghĩa đó mới được chuyền sang xã hội và hành động.
Bakounine: Bakounine là người đầu tiên đã du nhập hư vô chủ nghĩa sang lãnh vực hành động. Ông cũng là người đầu tiên đã mang lại cho thái độ hư vô một tác phong trắng trợn trong sự tranh đấu chính trị. Trước kia, Bakounine cũng say mê tư tưởng Hégel, và trong một thời gian, nhận thái độ bảo thủ. Nhưng sau đó, ông ly khai với Hégel và bước sang hư vô chủ nghĩa. Ông đã đào sâu chủ nghĩa đó bằng cách đề xướng tính chất tự do của con người. Mộng tưởng lớn lao của ông là thực hiện một thứ giáo hội đại đồng và thực sự dân chủ của nền tự do con người. Tự do đã trở thành tôn giáo của ông. Đối với ông, chỉ cần có tự do, còn luân lý không đáng kể, ông cho rằng lịch sử loài người chỉ có hai trạng thái, hai nguyên động lực: tự do và sự đè nén bóc lột. Tự do được tượng trưng bởi cách mạng, còn đè nén bóc lột được tượng trưng bởi bộ máy nhà nước. Hai trạng thái đó không sao có thể điều hoà được, và mỗi bên đều phải tranh đấu đến cùng để tiêu diệt bên kia. Ông từng viết: “Nhà nước tức là tội ác. Dù bé nhỏ và hiền lành đến đâu, bộ máy nhà nước vẫn giữ ngyên tính chất tội ác ấy”. (trích dẫn bởi Camus trong L'homme révolté, trang 197).
Cho nên, cách mạng tượng trưng cho trạng thái hoàn thiện. Muốn làm cho Thiện chiến thẳng, cần phải tranh đấu quyết liệt, không thương xót, không cần luân lý. Trong cuộc tranh đấu này, phải tiêu diệt hết thảy những vết tích cũ của xã hội, ông cho rằng: “Sự đarn mê hủy diệt là một sự đam mê đầy sáng tạo”. Khi nghiên cứu về cuộc cách mạng Pháp 1848, ông hết lời ca ngại sức huỷ diệt của cách mạng, và coi sự hủy diệt như một cuộc dạ hội liên hoan. Tóm lại, cách mạng là một trạng thái liên hoan đầy hy vọng, và nhiệm vụ của chiến sĩ là phải xô đổ xã hội cũ vào giữa sự hỗn mang của một cơn hồng thủy. Do lòng chiêm ngưỡng sự huỷ diệt, ông thường xưng tụng một số lãnh tụ cách mạng Nga thời trước, nửa làm cách mạng nửa ăn cưởp như Stenka Razine hoặc Pougatchev. Vì những người đó đã tranh đấu quyết liệt, mà không cần tới một chủ nghĩa gì hết, cốt nhằm đạt tới một lý tưởng tự do thuần tuý. Bakounine từng viết: “Một cuộc sống đầy giông tố, đó là điền cần thiết cho chúng ta. Rồi thiết lập một thế giới mới, một thế giới không luật lệ, một thế giới tự do”. Cũng do những câu đó mà sau này, nhiều người coi Bakounine như chủ trương vô chính phủ.
Chigalev di đến một kết luận rất tuyệt vọng. Chigalev cho rằng muốn xây dựng thiên đường nhân loại, không có cách nào khác là phải thiết lập chế độ độc tài vô hạn định: “Lấy xuất phát điểm ở tự do vô hạn định, tôi đã đi tới độc tài vô hạn định”. “Đó là con đường ngắn nhất để thực hiện tự do. Rồi đây, chỉ còn một phần mười nhân loại sẽ được phép có cá tính và được sử dụng quyền hành. Thiểu số đó sẽ có một uy quyền không giới hạn đối với chín phần mười kia, còn đa số này sẽ dần bị lột hết cá tính, trở thành như một đàn cừu. Họ sẽ trở lại trạng thái thơ ngây vui sướng của người thời cổ sừ, nhưng ngay ở nơi thiên đường đó, họ vẫn phải làm việc!”. Chigalev cho rằng chín phần mười nhân loại đó, tuy phải làm theo mệnh lệnh, nhưng họ thường sung sướng. Trái lại, thiểu số một phần mười kia, tuy có cá tính và danh vọng, nhưng họ lại đau khổ vì phải gánh trách nhiệm hành hạ đầy ải kẻ khác! Tóm lại, nhân loại của Chigalev chĩ gồm hai hạng: một hạng thống trị có cái sung sướng là thoả mãn được ý chí quyền lực của mình, nhưng họ sẽ là hạng người đau khố vì phải đầy ải kẻ khác, còn như đa số, tuy phải tuân lệnh và bị đầy ải, nhưng trái lại, họ không bị bắt buộc phải hành hạ kẻ khác! Cho nên, viễn tượng xã hội của Chigalev quả thực là tuyệt vọng, vì nó gồm hai hạng người (đao phủ và tội nhân) đều cùng tuyệt vọng cả. Có thể kết luận rằng Bakounine là nhà tư tưởng gia đã linh cảm được phần nào cuộc diễn tiến sau này của nước Nga dưới chế độ Staline.
Netchaiev, Tkatchev: Tới 1806, trong giới trí thức Nga thấy xuất hiện một nhân vật đặc biệt: Netchaiev. Cuộc đời của Netchaiev rất ngắn, vì xuất hiện năm 1866, ông đã chết trong ngục tối vào 1882. Trong khoảng 16 năm ấy, Netchaiev ngồi tù mất 12 năm. Tuy nhiên, Netchaiev đã để lại một vết xe không thể xoá mờ trong trào lưu cách mạng Nga. Thực ra, trên đường hành động, vì thời gian ngắn ngủi, nên Netchaiev cũng không gây được nhiều thành tích. Song tác phong của ông đã đưa tới một quan niệm hành động có ảnh hưởng nhiều tới người Bolsevich sau này. Đó là một tác phong hành động sắt đá và hoàn toàn phi luân lý. So với Netchaiev, Bakounine chỉ mới phi luân lý trên lý thuyết. Trái lại, Netchaiev đã áp dụng quan niệm đó vào đời sống và hành động. Trong lúc các phần tử cách mạng còn triền miên trong tư tưởng hoặc sa lầy trong tình cảm. Netchaiev đã chủ trương hành động và tiêu diệt tình cảm. Trong các tiểu tổ ông hoạt động, Netchaiev đều đặt thành quy luật: người chiến sĩ cách mạng phải tự coi như đã lãnh sẵn án tử tù. Họ không có quyền có một đời sống cá nhàn, không thể có một liên hệ tình cảm, không yêu một vật gì hoặc một ai hết. Người chiến sĩ phải trút bỏ hết tên tuổi của mình. Tất cả đời sống phải tập trung vào sự đam mê duy nhất: cách mạng. Để bù lại những hy sinh ấy, ngưởi chiến sĩ lãnh đạo phải có, tất cả quyền năng hành động. Họ có quyền dùng bạo lực và dối trá. Kẻ lãnh đạo còn có quyền coi người khác như những vật dụng, và coi những đảng viên dưới quyền mình như một thứ vốn liếng có thể mang tiêu xài. Những chủ trương trên đây, có lẽ trong lịch sử các tay lãnh đạo đều thường nghĩ như thế cả, nlurng duy có Netchaiev là dám nói ra. Netchaiev còn cho rằng người lãnh đạo có quyền khủng bố kẻ rụt rè, và lường gạt kẻ dễ tin. Muốn chặt cầu của bọn do dự, phải đẩy họ vào một tình trạng bất khả vãn hồi, tỷ dụ như giết người. Còn đối với dân chúng, mặc sức muốn dối trá sao cũng được, miễn có lợi cho cách mạng! Netchaiev từng chủ trương rằng muốn cho cách mạng chóng chín mùi, cần phải xúi đẩy chế độ Nga hoàng tới sự hà hiếp bóc lột hơn nữa. Còn về việc ám sát, Netchaiev không chủ trương ám sát những phần tử địch bị dân chúng ghét hơn hết, vì phải để những phần tử đó làm tăng gia sự bóc lột!
Những tác phong sắt đá của Netchaiev còn đi xa hơn nữa. Từ trước tới đây, người ta chỉ dám nói tới việc dùng bạo lực và dối trá đối với kẻ địch hoặc dân chúng. Riêng Netchaiev đã dám mang sử dụng bạo lực và dối trá ngay đối với những đồng chí của mình. Nếu cần tố cáo hoặc hy sinh một đồng chí, hoặc cần tự tay giết một đồng chí để có lợi cho cách mạng, người chiến sĩ cũng không được ngần ngại. Cho nên, Netchaiev đã chặt đứt hết các tình cảm: tình gia đình, trai gái, tình bạn, và ngay cả đến tình chiến hữu.
Qua quãng đòi ngắn ngủi của ông, Netchaiev đã lạnh lùng áp dụng những chủ trương nói trên. Quen biết với Bakounine ở Genève, Netchaiev được Bakounine phái về nước vào 1866. Lúc đó, ở ngoại quốc, chưa hề có một tổ chức cách mạng. Nhưng về tới nước, Netchaiev liền hội họp một số tiểu tổ, tự giới thiệu là đặc phải viên của Liên hiệp Cách mạng Âu châu. Rồi Netchaiev tổ chức một đảng, mệnh danh là đảng “Cái búa”, viết lấy quy chế. Ông cũng nói gạt rằng Liên hiệp Cách mạng Âu châu là một tổ chức rất mạnh, có phương tiện tài chính vô giới hạn. Đảng hoạt động được ít lâu, thì Ivanov, một sinh viên hoạt động cùng tiểu tổ, tỏ ý hoài nghi rằng chưa chắc đã có một tổ chức trung ương, và có lẽ Netchaiev đã bịa đặt điều đó để tự gán cho mình vai trò lãnh tụ mà thôi. Netchaiev liền quyết định giết Ivanov. Ồng nêu vấn đề trong tiểu tổ. Có kẻ chất vấn: “Chúng mình có quyền gì để giết một đồng chí?” - Netchaiev trả lời: “Đây không phải là quyền mà là nhiệm vụ”. Sau đó, Netchaiev giết Ivanov, rồi trốn ra ngoại quốc. Nhưng bị dẫn độ, và kết án 25 năm tù. Netchaiev chết trong ngục. Ồng quả là người đầu tiên đã mở đường cho quan niệm hành động sau này của phe bolsevích. Cuộc mưu sát Ivanov đã gây nhiều giao động trong hàng ngũ, khiến cho Dostoievsky đã dùng đề tài ấy viết cuốn tiểu thuyết “Les Possédés” mô tả nhân vật Verkhovensky giết Kirillov…
Tkatchev là một đồng chí gần gũi với Netchaiev, và có những quan niệm tương tự. Tuy nhiên, Tkatchev thường lưu tâm hơn tới vấn đề tố chức đảng, cùng kỹ thuật cướp chính quyền. Ông cũng là kẻ thù của luân lý và nghệ thuật.
Trên phương diện tổ chức đảng, ông là người đầu tiên đề xướng việc tổ chức thành những tiểu tổ ít người, có tính cách hoàn toàn bí mật, và các tiểu tổ chỉ có liên lạc với cấp trên mà thôi. Ở cấp trên, Tkatchev chủ trương tập trung quyền hành trong tay một thiểu số lãnh đạo. Sau này, Lenine đã lấy của Tkatchev những ý kiến trên để thiết lập guồng máy đảng: bí mật tuyệt đối, lựa chọn kỹ càng các đảng viên, huấn luyện thành những tay cách mạng chuyên nghiệp.
Cần ghi thêm rằng Tkatchev là người đã đề nghị tiêu diệt tất cả những người Nga quá 25 tuổi, cho rằng những thế hệ đó quá cằn cỗi không lãnh hội nổi những tư tưởng mới.
Trên đây là những tư tưởng gia cự phách, hoặc những tay hành động cừ khôi đã mở đường cho cách mạng trong thời gian 1830-1875. Đồng thời với những người đó, còn có bao nhiêu văn nghệ sĩ khác đã cổ xuý và truyền bá tư tưởng cách mạng: Pouchkine, Gogol, Tourguéniev, Dostoievsky, Tolstoi, Gorki… Tuy nhiên, thời gian đó chỉ là thời chuẩn bị tư tưởng cách mạng. Chưa có hành động thực sự, hoặc ít có hành động. Phải từ 1875 trở đi, tư tưởng cách mạng mới chín mùi, và những đợt tấn công mới liên tiếp mở màn.

3) Xã hội cách mạng đảng và chiến lược khủng bố - tâm trạng tuẫn đạo của các phần tử khủng bố

Vào năm 1875, các phần tử cách mạng đều chuẩn bị bị bước vào hành động. Hầu hết các nhóm lúc bấy giờ đều chịu ảnh hưởng của hư vô chủ nghĩa, và tuyệt đối phủ nhận chế độ cũ. Tuy nhiên, khi bước vào hành động, các nhóm liền bắt đầu có những sắc thái và khuynh hướng khác biệt. Từ 1870, đã thấy phôi thai một phong trào của giới trí thức, mệnh danh là phong trào “Đi vào dân chúng”. Các phần tử cách mạng trí thức đều rời bỏ gia đình, nghề nghiệp, địa vị, đi về những thôn quê hoặc xóm thợ để truyền bá tư tưởng mới. Họ bắt đầu bằng những công tác xã hội để thừa dịp tuyên truyền cách mạng. Nhưng sau một thời gian hoạt động, họ nhận thấy khó thể lay chuyền được tâm trạng thụ động cố hữu của người dân Nga, nhất là người dân quê. Do đó, một nhóm người, lấy tên là nhóm “Ý Dân”, đã chuyên sang chiến lược khác: chiến lược khủng bố. Từ đó trở đi, trong gần 30 năm trời, các phần tử cách mạng ấy đã cầm bom và súng để tiêu diệt những tay sai đắc lực của chế độ Nga hoàng. Họ đã nhiều lần tổ chức việc ám sát Nga hoàng. Nhóm “Ỷ Dân” dần dần chuyền thành một tổ chức đảng -đảng Xã hội Cách mạng, và cho tới 1917, Xã hội Cách mạng đảng còn đóng một vai trò quan hệ trên chính trường nước Nga.
Chỉnh sách khủng bố bắt đầu vào năm 1878. Năm đó, có một vụ án lớn xét xử 193 người của phong trào “Đi vào dân chúng”. Sau vụ án, một cô gái trẻ tuổi, Vera Zassoulitch, đảng viên của nhóm “Ý Dân”, đã trả thù bằng cách bắn chết viên đại tướng Trépov, thống đốc thành Saint Pétersbourg. Bị đưa ra toà án, Véra Zassoulitch lại được các vị bồi thẩm tha bổng.
Hành động của nàng đã mở màn cho một thời kỳ liên tiếp đầy khủng bố cùng sự tàn sát trả thù của địch. Cũng vào năm ấy, một đảng viên khác của nhóm “Ý Dân” đã lưu hành một cuốn sách nhan đề là “Mạng đổi mạng”, để chính thức hoá chính sách khủng bố. Nga hoàng Alexandre II đã lập tức trả lời bằng sự thiết lập một tổ chức công an đặc biệt (Okhrana) để diệt trừ bọn cách mạng khủng bố. Trong thời gian đó, trên nhiều nước Âu châu (Đức, Ý, Pháp, Tây Ban Nha) cũng phát hiện những trào lưu khủng bố. Tới 1881, nhóm “Ý Dân” thành công trong vụ ám sát Alexandre II. Nhưng thủ phạm, Téliabov, cùng các đồng chí đều bị treo cổ. Rồi từ đó cho đến 1905, xảy ra tới hàng ngàn vụ khủng bố. Nguyên trong năm 1892, đã có tới mấy trăm vụ. Đến năm 1905, trước khi cách mạng bột phát, một phần tử cách mạng, Kaliayev, đã ném một trái bom giết chết quận công Serge. Những năm 1892-1905 là những năm cao trào nhất của chính sách khủng bố.
Ngày nay, các sử gia đều công nhận rằng các phần tử khủng bố trên đây đều là những con người rất đặc biệt của trào lưu cách mạng Nga. Họ đều là đảng viên Xã hội Cách mạng, đều là những tay trí thức trẻ tuổi, và chịu ảnh hưởng của hư vô chủ nghĩa. Phần lớn thường chấp nhận quan niệm vỏ thần. Tuy nhiên, có một vài phần tử (Kaliayev) trong thâm tâm còn tin ở Thượng đế, nhưng bề ngoài, họ vẫn không chấp nhận những lễ nghi của Giáo hội… Song toàn thể đều có một đặc điểm chung: họ đi vào khủng bố với tâm trạng những kẻ tuẫn đạo. Họ dùng bạo lực, nhưng họ không giống Netchaiev. Vì trong khi Netchaiev chủ trương rằng: “Mọi phương tiện đều tốt, miễn đạt tới cứu cánh”, thì những phần tử khủng bố của đảng Xã hội Cách mạng lại quan niệm khác biệt. Họ dùng bạo lực, vì bạo lực là cần thiết để thực hiện công lý xã hội, nhưng trong thâm tâm, họ vẫn cho rằng dùng bạo lực là một trọng tội. Họ cũng khác với những người Bolsevich sau này, vì người Bolsevich thường giống Netchaiev và Tkatchev. Tóm lại, họ là những con người lý tưởng, cao thượng, kính trọng sinh mạng kẻ khác, và trên lương tâm không muốn chấp nhận sự chém giết khủng bố. Nhưng họ đã lựa chọn sự chém giết khủng bố, vì họ nghĩ rằng chỉ còn một con đường đó mới có thể đạp đổ chế độ Nga hoàng. Họ coi khủng bố như một hành động vì công lý, và những tay sai của Nga hoàng đều là kẻ có tội. Nhưng mỗi khi ám sát xong một người, họ lại nghĩ rằng chính họ cũng là kẻ phạm tội. Mặc dầu việc khủng bố là một hành động công lý. Để rửa sạch trọng tội của mình, họ thấy cần phải trả giá, nghĩa là phải chết. Chết để đem đời mình bù lại sinh mạng của kẻ bị ám sát. Cho nên, mỗi khi giết người xong, họ thường chịu hoặc mong mỏi cái chết. Chết để rửa sạch tội đối với lương tâm! Tâm trạng chia sẻ giầy vò ấy lại càng đau đớn hơn nữa, vì họ là những con người vô thần. Họ không còn mong gì sau này, sẽ có một sự phán xét cuối cùng của Thượng đế để minh oan cho họ. Họ đành chọn cái chết để minh oan trước lương tâm mình, và minh oan với hậu thế lịch sử. Hầu hết các tay anh hùng ấy, khi ra trước toà án, đều nhận cải chết, và thường chí kêu gọi đến hậu thế và lịch sử, không hề kêu gọi đến Thượng đế. Tính cách siêu nhiên của họ chỉ nằm trong lương tâm và lịch sử. Cần ghi rằng tâm trạng nói trên không phải là tâm trạng lẻ loi của một hai người, mà là tâm trạng chung của toàn thể. Cho nên, họ có lần mệnh danh đảng của họ là một tổ chức hiệp sĩ huynh đệ. Do tâm trạng tuẫn đạo ấy, nên Camus đã mệnh danh họ là những Đấng cứu thế bạo tàn (!)
Để minh chứng tâm trạng trên đây, chỉ cần đơn cử một vài tỷ dụ. Năm 1881, Jéliabov là người đứng chủ mưu tổ chức vụ ám sát Alexandre II. Chàng chính là người chủ mưu, nhưng do một sự tình cờ, chàng lại bị bắt 48 giờ trước vụ ám sát. Tuy nhiên, các đồng chí của chàng vẫn thi hành mệnh lệnh, và Nga hoàng đã bị ám sát. Các đồng chí đều bị bắt và đưa ra treo cổ. Đáng tẽ Jeliabov có thể tránh tội ấy, vì bị bắt trước vụ mưu sát. Nhưng chàng đã tự ý xin được treo cổ với các đồng chí. Một phần tử khác Savinkov nhận được lệnh phải đặt mìn làm đổ một chuyến tầu của Dô đốc Doubassov. Nhưng Savinkov đã phản đối, vì cho rằng việc giết mìn xe lửa sẽ làm chết lây nhiều kẻ vô tội. Kaliayey vác bom đi ném quận công Serge. Nhưng lần đầu tiên, quận công Serge ngồi xe ngựa eó hai đứa trẻ ngồi cạnh. Kaliayev không ném trái bom, vì sợ hai đứa trẻ bị chết lây. Chàng đợi mấy ngày sau, lúc quận công đi xe một mình, chàng mới ném bom giết Serge. Bị bắt ngồi trong tù, chàng viết nhật ký: “Từ lúc trái bom nổ, tôi không hề có ý muốn tiếp tục cuộc sống nữa, dù là bằng cách nào”… Cần ghi thêm rằng những người trên đây không bao giờ chịu nhận mình là kẻ sát nhân, vì họ đã lấy cái chết của họ để bù lại cái chết của kẻ kia và rửa tội rồi… Có thể nói rằng những phần tử cách mạng thời đó đã sống tới cực độ tâm trạng cao cả nhưng chia sẻ của con người nổi loạn, muốn dùng bạo lực để sảng tỏ công lý, nhưng lại thấy mình phạm tội do bạo lực. Tâm trạng của họ nhắc nhở tới tâm trạng của Saint-Just, Danton. Tuy không nói rõ ra, nhưng Saint-Just và Danton đều có tâm trạng tương tự. Có lẽ vì thế, mà Saint-Just và Danton đã gần như chờ đợi cái chết: có lẽ họ cũng cho rằng chỉ có cải chết của họ mới trả giá cho những hành động công lý mà trước kia họ đã làm khi quyết nghị đưa kẻ khác lên đoạn đầu đài… Cũng cần nói trước ngay rằng những phần tử cách mạng lý tưởng trên đây (đảng Xã hội Cách mạng) sẽ không phải là những người chiến thắng sau này vào 1917. Vì những kẻ tuẫn đạo thường chỉ là người đặt nền móng cho Giáo hội mới. Họ không bao giờ được nắm quyền trong Giáo hội. Họ là linh hồn, nền tảng, họ là lý do cùng minh chứng. Nhưng quyền hành sẽ về tay kẻ khác thâu lượm, về những kẻ thủ từ ngồi giữ đền chùa của Giáo hội cách mạng, những lãnh tụ khôn ngoan lọc lừa, biết quý mạng mình hơn mạng kẻ khác…