Chương 11
Campuchia

    
iữa trưa 7-1-1979, khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin, “Quân ta đã vào Phnom Penh”, ông Lê Duẩn chỉ “ừ” rồi ngủ tiếp. Ông Hồ Ngọc Đại nói: “Tôi rất ngạc nhiên. Khi nhận được điện thoại từ Cục Tác chiến tôi cũng không ngờ chuyện long trời lở đất như thế mà ông vẫn ngủ”. Đưa đại quân đến thủ đô một quốc gia khác tưởng nhẹ tựa giấc ngủ trưa của một đấng quân vương nhưng phải mười năm sau Quân đội Việt Nam mới rút được chân ra khỏi đó. Cho dù câu chuyện xảy ra bên ngoài lãnh thổ, mười năm ấy sẽ trở thành một phần lịch sử Việt Nam, lịch sử can thiệp vào một quốc gia khác.
“Pot ở đầu phum ta cuối phum”
Theo Tướng Lê Đức Anh: “Khi đánh Campuchia, trong lãnh đạo Đảng ta có hai ý kiến: một là đánh xong giao lại cho bạn rồi rút về ngay, hai là đánh xong phải giúp bạn xây dựng cho vững rồi mới bàn giao và rút về nước… Anh Lê Duẩn bảo đánh xong giao cho bạn rồi rút cho bộ đội về Nam Bộ làm ruộng”558. Ông Ngô Điền xác nhận, khi mới lên Phnom Penh, ông Lê Đức Thọ có nói đại ý, “ta cố làm tốt một thời gian, ba tháng, sáu tháng rồi giao cho bạn”. Nhưng làm sao trong ba hoặc sáu tháng những người lính Việt Nam có thể “trở về Nam Bộ làm ruộng” khi Khmer Đỏ chỉ mới bị đánh đuổi chứ chưa bị đánh tan.
Chưa đầy một tháng sau khi khởi binh, ngày 17-1-1979, bộ đội Việt Nam đã đánh đổ chính quyền cuối cùng của Pol Pot ở thị xã Ko Kong. Nhưng, như Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Hữu Đức thừa nhận, “chúng ta chiếm được Phnom Penh và các thành phố, thị xã, nhưng chúng ra không diệt được sư đoàn nào của Pol Pot. Sinh lực địch bị tiêu hao không đáng kể”. Trung tướng Lê Hữu Đức cho rằng: “Chúng ta đã dùng búa tạ diệt ruồi, sử dụng binh chủng hợp thành như đánh Pháp, đánh Mỹ, để đánh với một đội quân du kích”.
Khmer Đỏ bỏ chạy nhưng chúng không phải là một tàn quân. Tướng Đức nói: “Chúng được các cố vấn Trung Quốc dạy rất kỹ, cứ thấy xe tăng là chạy rồi gài mìn lại. Mìn Trung Quốc không giết chết mà chỉ sát thương. Cứ một người trúng mìn, quân ta lại phải mất bốn người để cáng”. Khi tiến quân vào Phnom Penh, thế Việt Nam như “chẻ tre”, nhưng khi tới những vùng biên giới xa, các đơn vị Việt Nam lập tức bị Khmer Đỏ đặt trong tầm phục kích. Đây là giai đoạn quân đội Việt Nam bắt đầu chịu hy sinh lớn nhất.
Mùa khô năm 1980-1981, Khmer Đỏ mở cuộc phản kích lần thứ nhất. Khi ấy, lực lượng Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia vẫn ở mức cao. Không giành lại được đất, nhưng Pol Pot cũng đã kéo Quân Tình nguyện và Quân đội của Heng Samrin vào một cuộc chiến khốc liệt không chỉ bởi mức độ thương vong.
Mùa mưa năm 1983, ông Phạm Văn Trà, lúc bấy giờ là phó tư lệnh Tham mưu trưởng Mặt trận 979, trực tiếp lên vùng biên giới Ko Kong chỉ đạo Sư đoàn 4. Ông Trà kể: “Suốt mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 10, hầu như tuyến trước bị cắt đứt hoàn toàn liên lạc với tuyến sau; đặc biệt là việc tiếp tế, vận chuyển tê liệt hoàn toàn. Trong khi đó, địch sử dụng pháo đất từ Thái Lan bắn dai dẳng, ngày này qua ngày khác vào khu vực có bộ đội ta, các trận địa, bãi mìn của địch bủa giăng khắp nơi; anh em mình cứ đi ra khỏi địa bàn quen thuộc là vướng mìn, thương vong rất nhiều. Xuống các bệnh xá, trạm phẫu của sư đoàn, bắt gặp nhiều chiến sĩ trẻ trung, khôi ngô bị mìn nổ tiện mất chân, có đồng chí cụt cả hai chân, tôi không cầm được nước mắt, thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm với anh em. Và cũng thật đớn đau, sau một mùa khô, một mùa mưa, giật mình thấy hàng ngũ của anh em mình thưa thớt, trống vắng mất một phần”559.
Ở nơi hòn tên mũi đạn, bữa cơm người lính, theo ông Trà, chỉ gạo mục, cá khô mục, thịt ôi. Động viên anh em cũng chỉ tăng gia được một ít rau xanh để cải thiện bữa ăn, có thêm tí chất rau. Khí hậu thì khắc nghiệt, sốt rét, sốt rét ác tính cứ như “thần chết cầm lưỡi hái” đứng chờ mỗi ngày. Người lính cần vụ của Tướng Trà đã bị sốt rét, chết khi mới mười tám tuổi.
Ông Phạm Văn Trà kể: “Riêng tôi, mặc dù không bị sốt rét quật ngã, nhưng cũng đã nếm trải những cơn sốt kinh khủng. Sợ nhất là đang xuống đơn vị, cắt rừng kiểm tra trận địa phòng ngự của bộ đội, bất thần cơn sốt ập đến, người run lên bần bật, mắt hoa lên, bước đi lẩy bẩy, anh em acute;nh quyền, vì trong hai năm ấy ông Khôi đã giúp những người như ông Lộc khôi phục được phần lớn khả năng hoạt động của nhà máy.
Ông Nguyễn Quang Lộc kể: “Khi tôi vào, ông Khôi nói, mời anh làm giám đốc, tôi đề nghị để tôi làm ‘phụ tá’ thôi. Rồi tôi nói với công nhân, quý vị yên tâm, ông Khôi dùng được quý vị thì tôi dùng được. Nhưng điều tôi lo nhất là những cán bộ từ miền Bắc vào”. Cán bộ miền Bắc, kể cả ông Lộc là kỹ sư, chưa bao giờ nhìn thấy một giây chuyền sản xuất như vậy. Chưa kể, từ miền Bắc thiếu thốn, vào thấy cái gì trong nhà máy cũng có giá, không tránh khỏi thèm thuồng. Thế nhưng, thay vì học hỏi, không ít người lại tự cao, tự đại. Ông Lộc đã phải nói với họ: “Các anh vào đây, chuyên môn chưa làm được thì phải lo mà giữ đạo đức, đừng có đi mót của, người ta khinh mình”.
Khác với ông Trần Văn Khôi, tháng 8-1976, khi bà Nguyễn Thị Đồng được Liên hiệp Dệt cử vào “tiếp thu” Tái Thành Kỹ Nghệ thì chủ nhà máy, bà Đoàn Thị Mỹ, đã bị đi cải tạo rồi. Quan điểm của bà Đồng là “phải có chi bộ mới đề ra chủ trương lãnh đạo nhà máy được”. Đảng ủy cấp trên đồng ý cho bà lập một chi bộ có mười ba người do bà làm bí thư.
Bà Nguyễn Thị Đồng kể: “Tôi phân công từng đồng chí đảng viên chịu trách nhiệm từng khâu. Khẩu hiệu là không làm thịt máy chết” – tức là không tháo phụ tùng từ máy cũ sang thay vào máy mới. Tái Thành Kỹ Nghệ sau năm 1975 đã hoạt động cầm chừng. Nhà máy có 130 máy dệt, một máy hồ mới đem về và mười bốn máy nhuộm mà “Cách mạng vô không ráp được”. Theo bà Đồng thì những người thợ giỏi đã bị chủ cũ đuổi đi. Từ danh sách những người bị đuổi, bà Đồng mời được năm mươi hai thợ giỏi vào nhà máy, lúc bấy giờ được gọi là Dệt Thành Công, làm việc.
Cũng như ông Nguyễn Quang Lộc, bà Nguyễn Thị Đồng cũng phải dặn các đảng viên: “Nghèo thì nghèo, tuyệt đối không được lạng quạng”. Thoạt đầu, bà Đồng phân công các đảng viên làm tổ trưởng. Nhưng vì những người này, theo lời bà Đồng, đều là “bộ đội quăng qua, không có nghề nghiệp gì”, nên “tôi phải gọi họ lên làm công tác tư tưởng để họ xuống làm tổ phó cho thợ giỏi lên làm tổ trưởng”.
Những năm tháng đầu sau khi tiếp quản, bà Đồng tích cực “phát triển Đảng trong giai cấp công nhân”. Bà nói: “Mục tiêu là mỗi tổ sản xuất phải có một đảng viên, tiến tới một ‘ca’ phải có một chi bộ”. Khát vọng khi đó của bà Đồng là xây dựng “mô hình xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh” trên quê hương mình. Bà nói với những công nhân cũ bỏ việc: “Chị nói thật với các em, chị cũng là người miền Nam, ra Bắc ráng học để trở về xây dựng ở miền Nam một xã hội tốt đẹp, cớ gì các em lại bỏ đi”. Khi ấy bà Đồng chưa nhận ra rất nhiều khó khăn xuất hiện ở miền Nam là bởi xã hội đang phải đi theo những điều mà những người như bà tin là “tốt đẹp”. Những khó khăn mà bà Đồng và ông Lộc phải đối diện không chỉ là những gì xảy ra ở bên trong. Ông Nguyễn Quang Lộc nhớ lại: “Nhà máy đã bị cơ chế quản lý xé nhỏ, các bộ cắt dọc, địa phương cắt ngang: sáu mươi xe tải của Viso bị bắt bàn giao cho Bộ Giao thông Vận tải quản lý, hai máy phát điện giao Bộ Điện lực, khu liên hợp sản xuất nguyên liệu hóa chất giao cho Tổng cục Hóa chất, dây chuyền đóng gói bột giặt giao cho Bộ Công nghiệp nhẹ”. Trước 1975, nhà máy Viso có năm kỹ sư nước ngoài, nguyên liệu thiếu, phụ tùng hết chỉ cần gọi điện ra là người ta đưa sang. Theo ông Lộc: “Cách làm đó ta gọi là lệ thuộc vào ngoại bang nên khi tôi đề nghị học cách làm của tư sản, tiếp tục hợp tác với nước ngoài không được ai chấp nhận”.
Để có thể duy trì hoạt động của nhà máy, ông Nguyễn Quang Lộc đưa những người cũ, giỏi nhất về cơ khí làm quản đốc phân xưởng. Những vị quản đốc cũ này được trả lương cao, hơn hai ngàn đồng một tháng, trong khi lương ông Nguyễn Quang Lộc chỉ có 117 đồng. Ông Lộc kể là khi ông trả lương bậc bảy cho một thợ cơ khí không biết chữ, Vụ Kỹ thuật của Bộ Công nghiệp nhẹ kịch liệt phản đối khiến cho ông đã rất nao núng. Nhưng khi ông muốn làm mấy cái bồn để dự trữ nhiên liệu, kêu thợ bậc bảy ngoài Bắc vào làm không được. Ông đành phải gọi một ông thợ người Hoa, ông thợ người Hoa trả lời: “Ngộ làm được”. Ông Lộc hỏi cần điều kiện gì, ông thợ người Hoa nói: “Cho ngộ năm thợ phụ, hai thợ hàn, hai thợ gò, mỗi ngày cho thêm hai bữa phụ bằng xôi và cho mấy két nước ngọt”. Rồi chỉ mười lăm ngày sau là dựng được bốn bồn đứng.
Cách mạng đã rất tự tin khi đổi tên Tái Thành Kỹ Nghệ thành nhà máy Dệt Thành Công. Nhưng chỉ chưa đầy hai năm sau, Thành Công đứng trước nguy cơ phải đóng cửa, máy móc để cho tơ nhện giăng. Công nhân một nhà máy có công nghệ dệt hiện đại nhất lúc ấy phải sống bằng cách tận dụng vải vụn, tơ rối để khâu găng tay, nhồi búp bê, đan mũ, đan tất và làm thú nhồi vải vụn. Những công việc bằng tay đó cũng chỉ giải quyết được một phần lao động. Một phần lớn khác, kể cả đội ngũ công nhân dệt lành nghề, kỹ sư, thợ điện đều phải đi gặt thuê ở Long An, mở trại nuôi bò ở Long Thành, xuống Cà Mau làm ruộng, lên Đồng Nai, Sông Bé khai hoang trồng sắn, lập trang trại nuôi bò. Bí thư Dệt Thành Công, bà Nguyễn Thị Đồng, cho biết thêm: “Chủ trương đi sản xuất lương thực là từ Bộ Công nghiệp nhẹ, Liên Hiệp Dệt triển khai. Các ông ấy bị ám ảnh bởi cái đói từ thời chống Pháp”. Không chỉ công nhân trong nhà máy, theo ông Tư Kết Nguyễn Văn Ly, thư ký riêng của ông Mai Chí Thọ: “Mấy ngày sau giải phóng, ông Mai Chí Thọ chuyển từ trường Petrus Ký về cư xá Lữ Gia, ở nhà của Đại tá Đỗ Kiến Nhiễu (đô trưởng Sài Gòn cũ), sau ông thấy bất tiện nên viết giấy kêu tôi sang tiếp quản nhà 21 Duy Tân470”. Nhà 21 đường Duy Tân vốn là tư dinh của tổng giám đốc hãng Esso, có hồ bơi riêng, có máy phát điện riêng. Khi tình hình khó khăn, ông Tư Kết kể: “Tôi và Mười Lù, bác sỹ riêng của ông Mai Chí Thọ, phải phá vườn bông trồng rau muống còn hồ bơi thì nuôi cá rô phi”.
Tư duy “tăng gia sản xuất để tự cung tự cấp” không phải xuất phát từ địa phương mà từ Chỉ thị 306-TTg mà thủ tướng ban hành ngày 18-11-1980. Theo đó, các cơ quan xí nghiệp trong cả nước phải tổ chức cho công nhân viên thay phiên nhau về nông thôn mượn đất của các hợp tác xã để trồng trọt. Kỹ sư, bác sĩ và những công nhân lành nghề bắt đầu được huy động đi vác cày, vác cuốc. Một thành phố như Đà Lạt cũng bị chỉ đạo, thay vì trồng hoa, phải phát triển diện tích trồng khoai sắn.
Cũng có đơn vị không “chấp hành chủ trương” này như nhà máy Bột giặt Viso.
Ông Nguyễn Quang Lộc kể: Ông Mười Hương, phó bí thư thường trực hỏi: ‘Tại sao mày không đưa người đi trồng lúa để tự túc lương thực?’. Ông Lộc bảo: ‘Việc của chúng em không phải là trồng lúa’. Ông Mười Hương: ‘Chủ trương của Trung ương là sẽ cắt hai tháng lương thực, không trồng lấy gì ăn?’. Ông Lộc: ‘Người ta chỉ công nhân hóa nông dân, không ai nông dân hóa công nhân cả. Làm ruộng cũng là một nghề, không phải làm phong trào’. Ông Mười Hương: ‘Tại sao người ta làm được mà mày không làm được?’. Ông Lộc: ‘Thưa anh chúng nó lếu láo, lấy xăng dầu đổi sắn, đổi gạo hết chứ không trồng cấy gì ra thóc ra lúa đâu’. Ông Mười Hương: ‘Tao không cãi với mày, tao vẫn bảo bên Lương thực cắt hai tháng của Viso đấy’.
Tháo gỡ
Tác giả của mô hình kinh tế này, Tổng Bí thư Lê Duẩn, cũng rơi vào bế tắc. Theo ông Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam: “Không ít lần tôi báo cáo thông tin với đồng chí Tổng bí thư, nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên tôi thấy anh Ba ngồi yên, nghe mà như không nghe, không hỏi lại mà cũng không ngắt lời”471. Khi ông Đỗ Phượng nói “muốn được nghe ý kiến của anh”, ông Lê Duẩn đứng dậy, nói bằng một giọng nhẹ nhàng mà ông Đỗ Phượng nói là ông chưa từng nghe bao giờ: “Thế anh bảo Trung ương phải làm gì đây, tôi phải làm gì đây! Các đồng chí lãnh đạo có trách nhiệm bên Đảng và bên chính phủ đều có mặt tại chỗ. Khó khăn thì phải tìm cách tháo gỡ, ngồi mà kêu cực trông chờ ai cứu mình”.
Ở cấp địa phương, theo ông Võ Văn Kiệt: “Hàng ngày lãnh đạo Thành phố phải họp để nghe chi tiết thương nghiệp thu mua được mấy tấn thịt, mấy tấn rau mà vẫn không sao làm tốt bằng tư nhân được. Dân kêu: ngay cả khi chiến tranh ác liệt nhất, Sài Gòn vẫn có rau xanh, cá tươi, thịt ngon bán chứ không khan hiếm thế này”. Ông Kiệt thừa nhận bản thân ông lúc ấy cũng chưa nhìn thấy nguyên nhân chính nằm ở chế độ bao cấp vừa được nhanh chóng áp dụng ở miền Nam. Ông nói: “Mình có biết gì về cách mạng xã hội chủ nghĩa đâu, Trung ương bảo làm thì ráng làm. Làm rồi mới thấy không phù hợp”. Ông Kiệt cố gắng xoay xở để làm sao có cá, có rau và có thịt. Ông chỉ thị: “Không được để một người dân chết đói”.
Thoạt đầu, ông Võ Văn Kiệt dự định “tháo gỡ” từ trên. Theo ông Nguyễn Thành Thơ: “Một hôm anh Kiệt đi công tác Cần Thơ, nghe anh Bảy Máy472, bộ trưởng Bộ Lương thực, đang đi đôn đốc cất kho trữ lúa, anh Kiệt mời anh Bảy Máy gặp bàn về lưu thông nông sản, chủ yếu là lương thực. Anh Bảy Máy nói: ‘Tôi chỉ biết nghe ý kiến chính thống, chớ không nghe ý kiến ai cả’. Anh Kiệt xếp tập sổ lại: ‘Hết làmviệc rồi’”.
Ông Kiệt trở lại Thành phố gặp Sở Lương thực, và khi bà Ba Thi đề xuất để bà chủ động về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thu mua lúa gạo đem về Sài Gòn, ông Kiệt đồng ý. Ngay sáng hôm sau, ông Võ Văn Kiệt cho mời giám đốc Ngân hàng Thành phố, ông Lữ Minh Châu, giám đốc Sở Tài chánh, ông Nguyễn Ngọc Ẩn, chánh Văn phòng Thành ủy, ông Nguyễn Văn Nam và bà Ba Thi đến nhà riêng “ăn sáng”.
Sau bữa điểm tâm, ông Kiệt nói: “Hiện nay, dự trữ gạo Thành phố chỉ còn vài ngày. Theo nguyên tắc thì Bộ Lương thực có trách nhiệm cung cấp mỗi tháng bốn mươi đến bốn mươi lăm nghìn tấn gạo nhưng nhiều lắm thì bộ chỉ cung cấp được khoảng ba mươi nghìn tấn thôi. Bộ không có đủ gạo vì dân không muốn bán lúa cho nhà nước theo giá quy định. Sở Lương thực thì không được phép tự ý thu mua với giá thỏa thuận. Người dân Thành phố cũng không thể tự đi mua gạo với giá hợp lý cho nông dân vì không thể vận chuyển gạo ra khỏi tỉnh. Tại sao ta không ráp hai mối này lại?”.
Ở thời điểm đó, “ráp” khả năng cung ứng lúa gạo của nông dân với nhu cầu lương thực của thị dân là phạm luật. Theo ông Lữ Minh Châu, nếu bà Ba Thi lấy danh nghĩa Sở Lương thực đi mua thóc thì bà không được quyền mua theo giá thỏa thuận; nếu bà lấy danh nghĩa cá nhân thì bên tài chánh không thể cấp vốn, ngân hàng không thể cho vay; mua được thóc cũng khó mà vận chuyển thóc từ các tỉnh về cũng khó. Ông Châu cho rằng muốn làm được thì phải “xé rào”, ông Võ Văn Kiệt lập tức đồng ý.
Một mô hình làm việc ngay buổi sáng hôm đó đã được hình thành: tài chánh cử kế toán đi cùng, ngân hàng cử người mang tiền mặt theo, bà Ba Thi quyết định mua ở đâu thì kế toán làm giấy tờ, ngân hàng chi tiền. Mô hình có tên gọi là “tổ thu mua lúa gạo” do bà Ba Thi làm tổ trưởng.
Mặc dầu đã được ông Kiệt với tư cách là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy ra “chủ trương” nhưng bà Ba Thi vẫn lo lắng: “Chúng tôi làm được nhưng trung ương biết là đi tù đó”. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Đừng tham ô thôi, còn nếu chỉ làm thế này mà các anh chị phải đi tù thì tôi đưa cơm!”. Rồi đích thân ông Kiệt cùng bà Ba Thi về làm việc với Tỉnh ủy Bạc Liêu và Huyện ủy Giá Rai, thuyết phục các địa phương bán gạo cho Thành phố. Khi ấy, nhiều tỉnh ban hành lệnh cấm mang lúa gạo ra khỏi địa phương. Các trạm kiểm soát được lập trên gần như tất cả mọi tuyến đường, ai đi qua cũng có thể bị khám xét, mua năm bảy ký gạo, đưa ra khỏi huyện, khỏi tỉnh là có thể bị tịch thu. Vì thế có nơi để gạo thóc ẩm mục, phải cho heo gà ăn hoặc làm phân bón, có nơi đói mà không thể lưu thông. Các sở lương thực chỉ có quyền ngồi chờ khoai sắn từ Bộ Lương thực cấp về rồi phân phối.
Để có thể mua được lúa gạo và đưa trót lọt về Sài Gòn, bà Ba Thi vừa phải dựa vào uy của ông Võ Văn Kiệt vừa phải khai thác các mối quan hệ của chính mình. Thời gian đầu, bà phải dùng xe biển số đỏ của Bộ Tư lệnh Thành với bộ đội mang súng đi theo áp tải gạo qua địa bàn các tỉnh.
Cái cách mà bà Ba Thi mua lúa ở miền Tây cũng “du kích” không khác gì phương thức mà bà đã hoạt động ở đồng bằng trước ngày giải phóng473. Ông Nguyễn Thành Thơ viết: “Một hôm chị Ba Thi ra Hà Nội tặng quà những ai giúp đỡ chị, quà là năm gói mì ăn liền do nhà máy chị sản xuất. Chị đưa tặng tôi, tôi nói: ‘Chị cho tôi biết tôi đã giúp đỡ gì tôi mới dám nhận quà’. Chị nói: ‘Bận tôi mua lúa gạo không có anh, nhưng tôi tìm anh, nhờ anh nói các tỉnh, giúp tôi mua lúa gạo dễ dàng, đồng thời một chuyến ghe tôi mua lúa gạo ở Rạch Giá, bị bắt, anh em chạy đến nhờ anh giúp đỡ, anh giúp có kết quả’. Tôi nói: Vậy tôi nhận quà”474.
Một cán bộ thu mua lương thực của bà Ba Thi, bà Út Hiền, kể: “Ở nông thôn, nông dân cần dầu lửa thắp đèn, cần vải đen may quần áo đi làm ruộng, cần thuốc uống trị bệnh lúc ốm đau. Nhưng, nhiều người cầm xấp tiền mới mà không có gì để mua”. Khi đó, mới đổi tiền, 500 đồng tiền chế độ cũ đổi một đồng tiền mới. Mệnh giá đồng tiền quá lớn trong khi hàng hóa không còn. Bà Út Hiền nói tiếp: “Chúng tôi không còn mua gạo bằng đồng tiền nữa”475.
Bà Ba Thi đề nghị Thành ủy mang hàng hóa về đổi lương thực, thuật ngữ kinh tế khi đó gọi là “hàng hai chiều”. Dầu lửa, thuốc tây, vải đen,… bắt đầu được chở xuống. Bà Ba Thi lập ra các điểm thu mua, nông dân mang lúa tới, đổi lấy những tờ phiếu lãnh hàng rồi cầm phiếu n&agravu thốn. Đại đội tôi có 110 người mà chỉ còn chín mươi khẩu súng; theo lý thuyết thì hỏa lực phải được trang bị tới tận phân đội nhưng tiểu đội thì có B40, trung liên, tiểu đội không”.
Đóng quân ở bìa rừng, nơi lực lượng Khmer Đỏ thường từ Thái Lan vượt biên giới vào bên trong đất Campuchia. Long kể: “Chiến tranh như trò đùa, chúng tôi thì cứ phơi mặt ra, trong khi Khmer Đỏ lại lẩn khuất trong bóng đêm, trong dân. Từ biên giới luồn qua, tụi lính Pol Pot lại dừng lại đánh nhau với tụi tôi một chặp, sau đó đi về lại bắn nhau thêm một chặp nữa. Chúng tôi phải đắp tường và đào hào vây quanh doanh trại theo kiểu pháo đài. Loại pháo đài tường đất với những ngôi nhà tranh tre chỉ cần một phát B40 là cháy rụi”.
Sự ác liệt mà những người lính ở Campuchia đã phải trải qua là không thể định lượng. Đánh chiếm một căn cứ của Khmer Đỏ thì có vẻ như rất dễ, nhưng tiêu diệt lực lượng Pol Pot thì rất khó. Có những đơn vị Quân Tình nguyện Việt Nam đã từng bị “xóa sổ”. Thượng úy Long kể: Đầu mùa khô năm 1986, trung đoàn tổ chức truy lùng địch, đại đội tôi được giao ở nhà giữ cứ. Tối, tôi qua Đại đội 13, anh em kêu ngồi vào uống ly rượu tiễn. Đang ăn, Đại đội trưởng Thụ hỏi: “Còn đạn K54 không?”. Tôi rút nguyên băng đạn từ khẩu K54 bên hông đưa cho Thụ. Trưa hôm sau ra phum, thấy mấy người già Khmer ngồi khóc, nói: “Bộ đội ông Thụ chết hết rồi”.
Toàn bộ lực lượng Đại đội 13 tham gia trận đánh bị hy sinh, chỉ còn một người lính vác chân đại liên sống sót. Đêm ấy, gần 300 lính Khmer Đỏ bị Trung đoàn 4 bao vây, dồn đánh. Chúng buộc phải mở đột phá khẩu. Nơi chúng chọn nằm trong phạm vi chốt chặn của Đại đội 13. Những tên lính Khmer Đỏ hung hãn nã B40 như vãi xuống những người lính đang phơi lưng giữa đồng trống. Người lính sống sót về kể rằng, trước khi chúng đến, anh kịp nằm sấp xuống, kéo xác đồng đội đè lên.
Lính Khmer Đỏ lần lượt bắn bồi vào những cái xác bộ đội Việt Nam, nhưng không hiểu sao anh sống sót. Sáng hôm sau, người dân đưa xe bò vào rừng chở về bốn mươi xác bộ đội trong đó có cả “Đại đội trưởng Thụ”.
Sau trận ấy, Thượng úy Long triệu tập đơn vị nói, lực lượng mỏng, chúng ta có thể bị đánh bất cứ lúc nào. Rồi ra lệnh mở kho đạn, nâng cấp báo động, đặt đơn vị trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đầu năm 1987, một tiểu đoàn Pol Pot xuất hiện trong khu vực đại đội Long đóng quân. Lúc này, Long đã chuyển sang chỉ huy Đại đội 12. Người dân trong phum nói: “Ông Long ơi, nó chuẩn bị đánh bộ đội 12 đó”.
Nguôn, tiểu đoàn trưởng Khmer Đỏ, nhắn qua dân: “Nói ông Long chỉ cần ra khỏi doanh trại, bước qua bìa phum là tôi bắn”. Thượng úy Long nhắn lại: “Nói ông Nguôn có giỏi thì cứ đưa quân về đây”. Khmer Đỏ không đánh ngay mà cứ dấm dứ hàng tháng trời hòng đặt bộ đội của Thượng úy Long trong trạng thái căng thẳng kéo dài cho đến khi mệt mỏi. Bộ đội của Long vẫn thường nghêu ngao hát: “Pot ở đầu phum / Ta cuối Phum / Uống chung dòng nước thối um um / Lên đây đã trải bao mùa lúa / Pot vẫn đầu phum ta cuối phum”564.
Thượng úy Long kể: “Đêm Campuchia tối tới mức ngửa lòng bàn tay ra đưa lên trước mặt cũng không nhìn thấy. Khi hành quân đêm, chúng tôi phải bắt con sâu đất có ánh lân tinh quệt lên ba lô của người lính trước mặt để bám theo nhau. Đêm đi qua trảng trống, nếu lỡ tụt lại phía sau phải nằm sát mặt đất may ra mới nhìn thấy bóng những người lính hành quân in trên nền trời”. Những khoảnh khắc hay bị phục kích nhất là ở thời điểm trăng vừa lên, Khmer Đỏ phục sẵn chỉ chờ có ánh sáng nhận rõ mục tiêu là bắn. Khi tiểu đoàn Khmer Đỏ của Nguôn vẫn thập thò ngoài rừng, Long kể: “Cứ hai tiếng một lần, tôi lại phải dậy đi một vòng đốc gác. Tiền đồn tối như mực mà không có lấy một trái hỏa châu. Khmer Đỏ áp sát hàng rào cũng khó lòng nhìn thấy”.
Sau bốn ngày bị bao vây, “bộ đội 12” căng như dây đàn nhưng đám lính Khmer Đỏ vẫn chưa khởi chiến. Trung đoàn 4 lúc đó cũng không còn khả năng chi viện vì lực lượng đã bị dàn mỏng. Tiểu đoàn nhắn xuống: “Tập trung phòng thủ cho tốt”.
Khoảng 4:30 sáng, Thượng úy Long đi đốc gác lần cuối, thấy anh em chấp hành nghiêm, anh trở về lán. Long kể: Vừa đặt lưng, tôi nghe tiếng AK nổ phát một bụp, bụp. Chưa kịp nhảy ra thì quả B40 thứ nhất nổ sát nóc nhà sở chỉ huy. Tôi phóng xuống hầm.
Nghe đạn của tụi Pol Pot bắn hết cỡ mà không thấy tiếng súng bắn trả của anh em mình. Tôi nói với cậu liên lạc: không ra đánh là chết hết. Vừa dợm chân ra thì một trái B40 nổ ngay cửa hầm hất mình trở lại. Nhìn thấy miệng cậu liên lạc mấp máy, tôi hét lên: “Tao còn sống, đánh!”. Ra khỏi hầm, thấy hàng chục nóc nhà đang bốc lửa. Một nhóm bộ đội đang vác khẩu cối 82 che;y đi nhận dầu, nhận vải, nhận thuốc. Gạo của bà Ba Thi mua về được bán theo giá “đảm bảo kinh doanh”: tính đủ chi phí mua lúa, vận chuyển, xay xát, hao hụt. Từ năm 1979, khoảng một triệu rưỡi dân Thành phố đã được mua mỗi người sáu ký gạo mỗi tháng với giá bảy đồng; năm 1982, chín ký mỗi tháng với giá mười hai đồng, rẻ hơn so với gạo của tư nhân cùng loại.
Cùng với những “tháo gỡ” trong việc “thu mua lương thực”, cuối năm 1978, đầu năm 1979, ông Võ Văn Kiệt xuống làm việc ở nhà máy dệt Việt Thắng, một nhà máy có hàng ngàn công nhân được trang bị máy móc hiện đại. Thoạt đầu, ông Kiệt đến đây như một nhà lãnh đạo Đảng đến với giai cấp công nhân. Ông muốn chuyến đi của ông đánh tan mối nghi ngờ của một số nhà lãnh đạo lúc đó cho rằng lực lượng công nhân ở những nhà máy do giai cấp tư sản để lại như Việt Thắng đã bị chi phối bởi “công đoàn vàng”. Tuy nhiên, sau một tuần làm việc ở nhà máy, ông Võ Văn Kiệt nhận ra điều mà “giai cấp công nhân” cần không phải là “phẩm chất chính trị” mà là công ăn việc làm. Vật tư, nguyên liệu do nhà nước cung cấp theo kế hoạch chỉ đủ cho nhà máy sản xuất được vài ba tháng. Trong khi đó, nhà máy lại không được quyền tự tìm kiếm vật tư nguyên liệu. Phần lớn công nhân phải nghỉ hưởng 70% lương.
Ngoài Việt Thắng, ông Võ Văn Kiệt đã cùng với các ủy viên Thường vụ khác đến làm việc tại mười lăm nhà máy. Từ thực tế đó, Ban Thường vụ Thành ủy đã chủ trương “mở rộng quyền chủ động cho các cơ sở sản xuất”, cho xí nghiệp thực hiện “ba phần kế hoạch”. Theo đó, ngoài kế hoạch nhà nước giao, xí nghiệp còn được thực hiện kế hoạch 2: khai thác nguồn nguyên liệu từ tận dụng phế liệu, phế thải; kế hoạch 3: liên kết với các xí nghiệp và các địa phương để sản xuất. Thành ủy còn cho phép các xí nghiệp áp dụng chế độ “ba lợi ích”, theo đó, ngoài “lợi ích của nhà nước”, “lợi ích tập thể”, xí nghiệp còn có phần để quan tâm đến “lợi ích của người lao động”.
Đồng thời, ông Kiệt cho phép Ủy ban Nhân dân Thành phố mở các kho chứa tài sản thu được từ các chiến dịch cải tạo tư sản ra sử dụng. Thành ủy cũng kiến nghị với trung ương cho phép Thành phố được sử dụng nguồn phế liệu trong các kho do quân đội và các ngành trung ương quản lý. Đặc biệt, Thành phố kiến nghị để cho các xí nghiệp xuất nhập khẩu được trực tiếp giao dịch với khách hàng sau khi đã hoàn thành chỉ tiêu xuất đại ngạch cho trung ương theo kế hoạch.
Nghị quyết Trung ương 6
Việc dự trữ lương thực của một Thành phố như Sài Gòn có lúc chỉ còn đủ ăn vài ngày đã được ông Võ Văn Kiệt đưa vào chương trình nghị sự của Bộ Chính trị. Cuối năm 1978, không chỉ có Thành phố, hầu như địa phương nào cũng ở trong tình trạng cực kỳ khó khăn. Đầu năm 1979, Ban Bí thư đã tiến hành điều tra thực tế miền Nam. Báo cáo của đoàn kiểm tra là cơ sở để ngày 18-5-1979, Bộ Chính trị ra Thông báo số 10, điều chỉnh một số chỉ tiêu và biện pháp kinh tế hai năm còn lại của “Kế hoạch 5 năm”. Thông báo của Bộ Chính trị thừa nhận: “Một số biện pháp tưởng là đúng đắn trước đây tỏ ra không hiệu quả, ngược lại những ý kiến bị quy kết là sai lầm nay cần được lắng nghe và xem xét một cách nghiêm túc”. Thông báo số 10 không chỉ ra “những ý kiến bị quy kết sai lầm” bao gồm chuyện thu mua lương thực của Thành phố và chuyện mua đường và đậu phộng giá cao của Long An. Tuy nhiên, nhận xét của Bộ Chính trị đã gỡ bỏ được không ít “án treo”, đặc biệt là những cái “án” lơ lửng trên đầu lãnh đạo Long An.
Năm 1977, tỉnh Long An cũng đã mua đường và đậu phộng của nông dân theo giá thị trường rồi bán giá cao tại các cửa hàng thương nghiệp. Phần nghĩa vụ, Long An thay vì nộp theo “giá chỉ đạo” lại đòi Trung ương phải trả theo giá đã thu mua. Trung ương không chịu. Tỉnh đem bán cho Công ty Xuất Nhập khẩu Thành phố Hồ Chí Minh rồi mua hàng công nghiệp về bán lại. Bằng cách đó, Long An không chỉ thu hồi được nguồn tiền bỏ ra thu mua mà còn tích lũy được khá nhiều cho ngân sách. Tuy nhiên, cách làm “trái nguyên tắc” này đã được Bộ Nội thương báo lên chính phủ. Phó Thủ tướng Phạm Hùng đã ra lệnh cho Long An dừng lại.
Tháng 8-1979, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 6. Không còn sự lạc quan, say sưa của ba năm trước đây, Trung ương thừa nhận: “Lẽ ra thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước cùng những thắng lợi mấy năm qua phải tạo nên một sự phấn khởi to lớn và một sức vươn lên mãnh liệt của nhân dân lao động. Nhưng sự phấn khởi và sức vươn lên đó đã bị hạn chế và gần đây phát sinh tâm lý bi quan, xao xuyến, thiếu tin tưởng trong một bộ phận dân cư”.
Theo chương trình toàn khóa, Hội nghị Trung ưà làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn”.
Theo Tướng Lê Đức Anh: “Ông Lê Đức Thọ là người thiết kế từ đầu, là người quyết định những vấn đề lớn như xây dựng lực lượng, phương thức tiến hành, phương án chiến đấu, điều binh khiển tướng”.
Khi chính quyền Khmer Đỏ tháo chạy, người dân Campuchia đang ở trong các công trường giống như những trại tập trung thời Đức Quốc xã, run rẩy, đói khát, hôi hám. Công việc của bộ đội Việt Nam trong mấy ngày đầu chủ yếu là cứu đói và cứu sống hàng vạn người Khmer đang thoi thóp. Những hố chôn người tập thể, những giếng nước đầy xương người có thể tìm thấy tại hàng ngàn phum, sóc của đất nước nhỏ bé này.
Sau hơn ba năm chín tháng sống dưới bàn tay Pol Pot, Campuchia thực sự trở thành những “cánh đồng chết”. Hàng triệu người bị hành quyết hoặc bị hành hạ cho đến chết trong các công xã và trên những đại công trường567. Bộ đội Việt Nam đã giúp từng người dân tìm lại nhà, tìm lại những người sống sót trong gia đình, mang từng hạt bắp, hạt đậu từ Việt Nam sang để người dân Campuchia khôi phục công việc đồng áng. Những “hạt giống cách mạng” cũng đồng thời được mang tới, hình thành ở Campuchia một chế độ theo đúng mô hình Việt Nam.
Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đứng chân ở đâu có nhiệm vụ giúp lập nên chính quyền ở đấy. Tiểu đoàn, đại đội, “giải phóng huyện” thì giúp lập ra chính quyền cấp huyện, tiểu đội “giải phóng xã” thì giúp từng xã lập nên chính quyền tạm thời gọi là “ủy ban tự quản”. Những người “thù Pol Pot, không có nợ máu với dân, đoàn kết với Việt Nam” có thể được cơ cấu vào các ủy ban này.
Những người lính Việt Nam trong độ tuổi hai mươi chưa từng lập gia đình, chưa từng một ngày “làm quan” bỗng nhiên trở thành “chuyên gia” ở xã và có khi ở huyện. Ông Lê Đức Thọ muốn dựng lên ở Campuchia một bộ máy hoàn chỉnh, theo mô hình Việt Nam, mặc dù ông chỉ tập hợp được vẻn vẹn sáu mươi mốt cán bộ người Khmer trước khi “Phnom Penh giải phóng”.
Cuối năm 1978, báo chí Việt Nam dồn dập đưa tin về các lực lượng nổi dậy, về “Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia”, liên tục phát thanh những “lời kêu gọi” của Heng Somrin, Chea Sim. Nhưng cho tới lúc đó, trên lãnh thổ Campuchia không hề có nổi dậy, chỉ có những cuộc đào thoát của người Campuchia đến Việt Nam. Tháng 9-1978, những người đào thoát này mới được tập hợp lại thành “đoàn đại biểu lực lượng nổi dậy đến thành phố Hồ Chí Minh” yêu cầu Việt Nam giúp đỡ.
Theo ông Ngô Điền568: “Lãnh đạo Việt Nam lúc đó rất khó mà đánh giá các nhóm từ Campuchia sang nên điều dễ hiểu là phải dành sự tin cậy của mình cho những nhóm cán bộ năm 1954 tập kết ra Bắc. Oái oăm là những cán bộ tập kết có tầm cỡ đã lần lượt được đưa về lại Campuchia từ 1970 và đã lần lượt bị bọn Pol Pot thủ tiêu. Những người còn sót lại tới năm 1978 là những cán bộ rất khó sử dụng. Anh Lê Đức Thọ đã dùng cụm từ ‘vơ bèo, vạt tép’ nhưng cũng chỉ kiếm được khoảng bốn mươi người”569. Ông Ngô Điền thừa nhận: “Thực tế là ta dựng lên nhóm lãnh đạo bảy người; ta dựng lên Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước mười bốn người; ta viết cương lĩnh Mặt trận 11 điểm; ta tổ chức lễ ra mắt của Mặt trận ở vùng Mimot ngày 2-12-1978”.
Chỉ có khoảng hai mươi cán bộ trong “lực lượng nổi dậy” được quân đội Việt Nam mang theo khi tiến vào Phnom Penh. Theo ông Ngô Điền: “Ta tuyên truyền như là một cuộc tổng tiến công và nổi dậy của bạn, có sự giúp đỡ quân sự của Việt Nam. Sự thực, sau khi Phnom Penh giải phóng rồi, đội quay phim quân đội của ta đã bố trí quay cảnh một cánh quân Cách mạng Campuchia, thực ra là chiến sĩ Việt Nam mặc quân phục Campuchia, ngày 7-1-1979, tiến nhanh dưới lá cờ đỏ năm tháp vàng xông vào chiếm hoàng cung giống như cảnh đánh chiếm Cung điện Mùa đông trong Cách mạng tháng Mười”570.
Tối ngày 8-1-1979, thế giới nghe được tuyên bố thành lập “Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia” của những người nổi dậy. Nhưng sự thực thì vài giờ trước đó, theo ông Ngô Điền: “Tại Bộ Tư lệnh Quân khu VII, ông Lê Đức Thọ mới chủ trì một cuộc họp gồm lãnh đạo B68 và Tiền phương Bộ Quốc phòng để xem xét lần cuối danh sách chính phủ mới của Campuchia trước khi công bố. Cuộc họp không có bạn Campuchia tham dự. Ta đã quyết định không gọi là ‘chính phủ’ mà gọi là ‘Hội đồng Nhân dân cách mạng’. Việc lớn mà ta quyết định nhanh như vậy và mọi người xem như bình thường”571.
Mãi tới ngày 20-1-1979, tại Nhà khách 14 Võ Văn Tần, ông Lê Đức Thọ mới làm tiệc tiễn hơn bốn mươi cán bộ người Campuchia còn lại về Phnom Penh chấp chính. Trong số đó có bảy nhân vật chủ chốt: Pen Sovan, Chea Xim, Heng Samrin, Van Xôn, Bou Thong, Nan Xarin tức Chan Kiri và Hun Sen.
Tư tưởng nước lớn
Từ cuối tháng 1-1979, ông Đỗ Mười cùng một số chuyên viên đã được đưa sang Phnom Penh. Ngày 11-2-1979, toàn bộ “Trung ương bạn” có mặt ở Hoàng cung dự họp với Lê Đức Thọ, Đỗ Mười và các thành viên B 68. Ông Đỗ Mười trình bày một dự thảo hiệp định theo đó, Việt Nam sẽ viện trợ cho Campuchia 400 triệu đồng, tương đương với 60-70 triệu USD theo thời giá. Một tuần sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng bay sang, ký với Chủ tịch Heng Samrin một hiệp ước có giá trị trong vòng hai mươi lăm năm gọi là “Hiệp ước Hòa bình Hữu nghị và Hợp tác”, theo đó, “Campuchia yêu cầu Việt Nam để quân tình nguyện ở lại”.
Một năm sau khi đánh sang Campuchia, ông Lê Đức Anh được thăng quân hàm từ trung tướng lên thượng tướng. Ngày 20-5-1981, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, lấy phiên hiệu là “Bộ Tư lệnh 719”. Ông Lê Đức Anh, khi ấy đang là tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu VII, được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Tình nguyện.
Vừa làm tư lệnh 719, ông Lê Đức Anh vừa trực tiếp làm trưởng Đoàn Chuyên gia quân sự 478, cơ quan giúp hình thành Bộ Quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang Campuchia. Bên cạnh lực lượng “Quân Tình nguyện” còn có một “Đoàn Chuyên gia” giúp xây dựng hệ thống chính quyền dân sự, có mật danh là B68, do ông Trần Xuân Bách, ủy viên Trung ương Đảng phụ trách. Tháng 3-1982, tại Đại hội Đảng lần thứ V của Việt Nam, ông Trần Xuân Bách vào Ban Bí thư trở về Hà Nội làm chánh Văn phòng Trung ương; ông Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị, trở lại Campuchia, thống lĩnh cả Đoàn Chuyên gia B68 và Quân Tình nguyện.
Những năm ấy ở Việt Nam, kinh tế thì kiệt quệ, kinh nghiệm thì chỉ có cơ chế quan liêu, bao cấp. Vậy mà mô hình chính trị, kinh tế, văn hóa mà chính Việt Nam cũng đang cần phải đổi mới ấy lại được đưa sang áp đặt ở Campuchia, một quốc gia vốn rất khác biệt về văn hóa và đã quá hoảng sợ chính quyền vô sản từ thời Khmer Đỏ.
Những người Việt Nam làm “nhiệm vụ quốc tế” ở Campuchia, theo tướng Lê Đức Anh, còn mắc phải “tư tưởng nước lớn”. Từng cán bộ Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ “chuyên gia giúp bạn”, biết rõ nguồn gốc lý lịch của từng cán bộ người Campuchia.
Thật khó để bỗng chốc họ có được thái độ đúng mực với những người vừa được đưa lên lãnh đạo ở tầm quốc gia ấy.
Những người thực sự có năng lực và đã từng nắm giữ những chức vụ cao trong hàng ngũ Khmer Đỏ chạy sang Việt Nam thì chưa được tin cậy. Trong giai đoạn 1979-1981, nhóm “tập kết” được ông Lê Đức Thọ giao nắm giữ các chức vụ tổng bí thư, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, bộ trưởng Bộ Quốc phòng; 3/8 ủy viên Bộ chính trị; 8/17 bộ trưởng; 7/29 chủ tịch, bí thư tỉnh, thành.
Những người tập kết từ miền Bắc Việt Nam đưa về trình độ rất giới hạn. Người được chọn “cầm cờ” là Pen Sovan cũng chỉ vốn là trưởng Phòng tiếng Khmer ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Người sau đó thay Pen Sovan giữ chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Chan Si, khi ở Việt Nam chỉ là trưởng một phân xưởng của nhà máy nhiệt điện Việt Trì, Vĩnh Phú. “Tư lệnh Binh đoàn I” và sau đó là chủ tịch thành phố Phnom Penh, Khang Sarin, nguyên là một thượng úy ở Thị đội Sơn Tây. Khi được Lê Đức Thọ kêu, Khang Sarin đã về hưu, đang đi cọ rửa thùng phuy với tiền công hai đồng một cái. Men Som Ol, từ một nữ y tá hai mươi sáu tuổi ở Quân khu VII, được ông Lê Đức Anh đưa về làm cục phó Cục Cán bộ Bộ Quốc phòng. Som Sosor, người gác cổng một nhà máy, được ông Lê Đức Thọ bố trí làm bí thư tỉnh Kongpong Speu. Mọi quyết định về nhân sự cao cấp của Campuchia đều do một tay ông Lê Đức Thọ. Sau ngày 20-1-1979, “Ban Xây dựng đảng”, chỉ mới hình thành trước đó mấy ngày, được ông Thọ gọi là “Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia” và theo ông Ngô Điền, Pen Sovan được ông Lê Đức Thọ gọi là tổng bí thư, cùng với Chia Xim, Van Xon hợp thành Ban Thường vụ. Nói là trung ương, là ban thường vụ, nhưng theo ông Ngô Điền: “Trên thực tế chẳng mấy khi họp, mọi quyết định lớn đều do phía ta làm rồi truyền đạt cho Pen Sovan, Pen Sovan nêu ra với Trung ương như là ý kiến của Ban Thường vụ. Cái đầu thực sự là Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể là Lê Đức Thọ. Làm giúp chỉ là cách nói thôi, trên thực tế là làm thay”572. Từ thực tế này, ông Ngô Điền thừa nhận tâm lý coi thường của cán bộ Việt Nam là không tránh khỏi.
Ông Ngô Điền là đại sứ kiêm cố vấn cho Bộ Ngoại giao Campuchia. Bộ trưởng là Hun Sen, năm ấy mới hai mươi bảy. Ngô Điền là người hướng dẫn cho Hun Sen từ cách cầm từng cái ly, cái nĩa. Khi đã được đưa lên làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, năm 1985, giữa công khai, Hun Sen vẫn giới thiệu ông Ngô Điền với mọi người: “Đây là người thầy vĩ đại của tôi”. Bộ Ngoạ về cũng phản đối. Hội nghị kéo dài sang ngày hôm sau thì ra được Quyết định số 03-ĐB về “Biện pháp thực hiện chủ trương mua bán hàng theo giá thỏa thuận”.
Sau khi có nghị quyết, ông Chín Cần lên Thành phố gặp ông Nguyễn Văn Linh, khi đó là ủy viên Bộ Chính trị được phân công theo dõi việc thực hiện nghị quyết ở các tỉnh phía Nam. Ông Linh nói: “Vấn đề liên quan đến tiền lương phải báo cáo anh Lê Đức Thọ”. Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ nghe xong “cho làm thử”. Ông Linh, sau khi nghe báo cáo là đã có ý kiến “anh Sáu Thọ” và cho trợ lý xuống Long An kiểm tra, đã đồng ý cho Long An làm thử.
Tuy nhiên, từ đó cho tới tháng 9-1980, Ủy ban Tỉnh không ra được văn bản nào để triển khai Quyết định 03-ĐB. Theo ông Bùi Văn Giao: “Ông Chín Cần bảo tôi, nếu anh không qua Ủy ban thì không làm được đâu”. Tháng 9-1980, ông Giao được đưa qua Ủy ban, làm phó chủ tịch phụ trách phân phối lưu thông. Việc đầu tiên của ông là thảo ra Chỉ thị 31 để thi hành đề án.
Mặt hàng đầu tiên được triển khai bán ra là vải. Trong ngày đầu tiên, theo quán tính, người dân đổ xô, tranh nhau mua. Ông Bùi Văn Giao kể: “Ở huyện Đức Huệ, bí thư Huyện ủy cấm xe của thương nghiệp chở hàng về bán giá cao. Khi thấy dân mua nhiều quá, những người lúc trước không tán thành chủ trương bù giá đề nghị cho ngưng lại. Tôi xin ba ngày. Hôm sau, tôi cho xe chở hàng tới nhiều nơi trong tỉnh bán lưu động. Người dân chợt nhận ra hàng bán với giá như chợ bán, xếp hàng mua làm gì”. Khi người dân không còn mua hàng tích trữ nữa, thị trường ổn định trở lại, tỉnh bắt đầu cho giảm giá từ từ. Theo ông Giao: “Chúng tôi không những tiết kiệm được rất nhiều tiền in tem phiếu mà Phòng Tem phiếu có chín người từ đó bắt đầu hết việc làm”.
Cũng trong năm 1980, tại An Giang, những hoạt động trao đổi lương thực của bà Ba Thi trong vùng đã như một gợi ý để An Giang thực hiện phương thức “mua cao bán cao” với nông dân. Từ đầu năm 1980, An Giang quy định giá mua phần lúa “vượt mức nghĩa vụ” của nông dân lên sát giá thị trường, đồng thời cũng cho bán phân bón, vật tư theo sát giá thị trường. Đặc biệt, từ năm 1980, An Giang bắt đầu xóa bỏ các trạm kiểm soát hàng hóa. Đến năm 1982 thì tỉnh không những “cấm gây phiền hà cho việc đi lại của nhân dân, phân biệt người buôn bán với nhân dân đi lại có mang theo ít hàng hóa để dùng hoặc để làm quà” mà quyết định ngày 29- 6-1982 của Ủy ban Tỉnh còn “cho phép nhân dân đem lúa gạo ra khỏi tỉnh để bán. Mỗi người mỗi lần được chở không quá hai tấn gạo hoặc ba tấn lúa”.
Cắm cờ xé rào
Sau Hội nghị Trung ương 6, trở lại Sài Gòn, nơi bức tường rào cơ chế ghi dấu vết “xé” đầu tiên, ông Võ Văn Kiệt tiếp tục sử dụng ảnh hưởng của một ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị thúc đẩy sự bung ra ở cả những xí nghiệp thuộc quyền quản lý của trung ương nhưng đóng trên địa bàn Thành phố.
Ông Kiệt xuống nằm nhiều ngày trong các nhà máy như Bột giặt Viso, Dệt Việt Thắng, Dệt Thành Công, Thuốc lá Vĩnh Hội,… tận mắt nhìn thấy máy móc bị vất lăn lóc, trực tiếp lắng nghe từng kỹ sư, từng người thợ bậc cao nói về cách mà những người chủ cũ của họ đã điều hành những nhà máy này, lắng nghe những ràng buộc mà cơ chế đang trói tay, trói chân các doanh nghiệp. Theo ông Phạm Văn Hùng, thư ký riêng của ông Kiệt: “Những khi ông ở lại nhà máy, chúng tôi phải mang cơm cho ông vì ông không cho nhà máy tiếp đón”.
Xuống Viso, ông Võ Văn Kiệt nói: “Không có cuộc chiến tranh nào kết thúc mà bên chiến thắng tiếp quản được một thành phố nguyên vẹn hoàn toàn như Sài Gòn.
Những cái khó, ách tắc còn lại chỉ là tự mình gây ra, tự mình trói mình. Chúng ta phải tháo gỡ, tháo không được thì phải chòi đạp”. Giám đốc Viso, ông Nguyễn Quang Lộc, nói với ông Kiệt: “Ta phải học cách làm của tư bản thôi. Nếu muốn học tư bản thì không ở đâu tốt hơn Sài Gòn”. Ông Nguyễn Văn Kích, khi ấy là trưởng phòng Tổng hợp, Ban Thi đua Thành phố, tháp tùng ông Kiệt xuống các “điển hình”, nói: “Đến Viso, ông Kiệt trở nên cởi mở hơn, vì ở những nơi mà ông đi qua, không ai trình bày vấn đề một cách có hệ thống và chỉ ra được những ách tắc và lối ra rõ ràng như ông Lộc”.
Được ông Võ Văn Kiệt khích lệ, thay vì đưa công nhân đi cấy lúa, trồng khoai, ông Lộc đã dùng “sức mạnh công nghiệp” làm ra sản phẩm đem đổi “thực phẩm, lương thực” về cho nhà máy. Ông Nguyễn Quang Lộc được coi là người đầu tiên nghĩ ra “tam giác” xuất khẩu: dùng sản phẩm công nghiệp đổi nông sản, dùng nông sản đổi ngoại tệ, dùng ngoại tệ mua nguyên liệu cho công nghiệp. Ông Lộc kể: “Tổng Cục không còn hóa chất cấp cho Viso, tôi đành xuống Minh Hải mua dầu dừa về nấu thành xà bông. Dùng xà bông đó đổi gạo, đổi heo. Tỉnh Minh Hải rất phấn khởi, họ cấp giấy, rồi lấy cờ Văn Phòng Tỉnh ủy cắm trên xe chở heo, chở gạo để chúng tôi có thể chạy phăng phăng về Thành phố”.
Cũng như Viso, Dệt Thành Công không có quyền đi mua sợi về dệt vải, đồng thời không có quyền tự ý đem vải mình dệt đem bán ra thị trường. Nhà nước, thông qua Liên Hiệp Dệt, đầu năm giao kế hoạch rồi giao sợi, nếu sợi ít thì cuối năm rút bớt kế hoạch xuống. Số sợi theo kế hoạch đó dệt được bao nhiêu lại giao cho Liên Hiệp để Liên Hiệp giao lại cho Thương nghiệp. Thương nghiệp dùng vải đó phân phối theo chế độ, trong đó có phần dùng làm hàng trao đổi cho nông dân trên cơ sở nhà nước thu lại nông sản với giá “mua như cướp”.
Để thoát ra khỏi cơ chế này, các nhà máy Viso, Dệt Thành Công và Thuốc lá Vĩnh Hội, nơi ông Lê Đình Thụy làm giám đốc, đưa ra sáng kiến tự vay ngoại tệ mua nguyên liệu sản xuất. Sản phẩm làm ra, thay vì giao cho Liên hiệp để bán cho Thương nghiệp, nhà máy tự bán trực tiếp cho các công ty xuất nhập khẩu để thu ngoại tệ. Vấn đề là khi đó chỉ có Vietcombank mới có ngoại tệ, và ngân hàng này chỉ xuất ngoại tệ theo lệnh của chính quyền chứ không có chuyện cho doanh nghiệp nào vay USD cả.
Giám đốc Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Nhật Hồng, và Giám đốc Sở Ngoại Thương, ông Mười Phi, không phải là những cán bộ quan liêu. Hai ông đã từng quan hệ với giới ngân hàng ở Hong Kong trong thời gian làm kinh tài chuyển tiền mua vũ khí vào Nam. Hiểu cách làm của các giám đốc năng động, hai ông đã cùng với Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt xuống tận nhà máy để nghe giải trình, và khi ông Võ Văn Kiệt “bật đèn xanh”, Vietcombank đã cấp ngoại tệ cho các nhà máy mua nguyên liệu. Sau đó, đích thân ông Võ Văn Kiệt xuống tận các nhà máy “phát động chiến dịch”. Báo Sài Gòn Giải Phóng cử người đi theo Bí thư Thành ủy và cho đăng các bài xã luận gọi những hành động “xé rào” này là những “trận đánh táo bạo”479. Cứ mỗi lần ông Võ Văn Kiệt xuống các nhà máy “cắm cờ” là lại thêm một đoạn “tường rào cơ chế” được “xé”.
Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là lúc ấy ông chỉ nhận ra thực tiễn có điều gì đó thậm sai nhưng không đủ lý luận để tìm ra nguyên nhân. Ông Kiệt chỉ biết số phận chính trị của những giám đốc dám nghe ông “xé rào” còn có một “tròng” nằm trong tay các ban ngành trung ương. Giống như hồi 1973, cứ sau khi đẩy lui được một “thành trì”, ông lại cho “cắm cờ’ thi đua, khen ngợi. Sự xác nhận của một ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị như ông ít nhiều sẽ làm cho những “đặc phái viên” quan liêu được cử từ Hà Nội vào lúng túng mà chùn tay. Họ không thể “xử trảm” một cách làm ăn mà cấp ủy địa phương đã đóng dấu “điển hình tiên tiến”.
Sau một thời gian làm việc chung với “giai cấp tư sản” miền Nam, ông Nguyễn Quang Lộc cho rằng không phải những người được đưa từ miền Bắc vào dốt hơn, kém khả năng hơn chủ cũ của các nhà máy. Sở dĩ chỉ một thời gian ngắn sau khi tiếp quản, nhà máy đi đến chỗ suy sụp, công nhân đói là vì họ tuân thủ các nguyên tắc mà họ mang từ miền Bắc vào. Ông Lộc nói: “Những người xé rào như chúng tôi không phải giỏi hơn, đơn giản chỉ vì chúng tôi không phản lại thực tế”. Ở Viso, ông Nguyễn Quang Lộc giữ nguyên bộ máy cũ, chỉ sử dụng 2% cán bộ tăng cường từ miền Bắc. Một trong những lý do khiến sáu tháng sau khi ông Lộc nắm Viso, nhà máy khôi phục được mức sản lượng trước ngày “giải phóng” là nhờ ông giữ được 90% thợ kỹ thuật giỏi người Hoa (thời kỳ “nạn kiều” không có ai ở Viso bỏ đi). Nhưng rồi ông Võ Văn Kiệt sẽ thấm thía ý kiến của Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng: “Điều hành một đất nước phải bằng pháp luật chứ không thể bằng nghị quyết và những sáng kiến cá nhân”. Những câu chữ như “bung ra” hay “quyền chủ động hợp lý” không phải là một quy phạm để người thực thi xác định được ranh giới đúng sai; chúng chỉ là những khái niệm mơ hồ, áp dụng tới đâu là tùy thuộc vào ý chí và nhận thức. Hồ sơ tố cáo “xé rào” liên tục được gửi ra Hà Nội. Khi nghe Viso thay vì chờ Bộ cung cấp phụ tùng lại xoay xở tự tìm lấy ngoài thị trường, ông Đỗ Mười, khi ấy là phó thủ tướng, quát: “Bọn này tiếp tay cho gian thương”. Ở nhà máy dệt Thành Công, từ chỗ không có một đồng dính két, từ khoản vay 120.000 USD đầu tiên trong năm 1980, Thành Công lãi được 82.000 USD; năm 1981, tích lũy ngoại tệ của Dệt Thành Công lên đến 1,3 triệu USD. Nhưng như thế là sai phạm. Ông đứng chờ bắt tay ông. Sau ngày Việt Nam có mặt ở Campuchia, khi ông Thạch tới Bangkok, những người biểu tình gọi ông là “dog eater-kẻ ăn thịt chó”.
Tháng 4-1984, khi quân đội Việt Nam mở chiến dịch đánh vào căn cứ địa của “ba phái Khmer phản động” nằm trên đường biên giới, trong đó có những phần nằm sâu trong đất Thái Lan, một máy bay trinh sát L19 của Thái đã bị trúng đạn phòng không Việt Nam, một trực thăng khác bị bắn hỏng. Tháng 5-1984, pháo của quân tình nguyện Việt Nam bắn sâu vào lãnh thổ Thái Lan, phần thuộc tỉnh Surin làm chết và bị thương một số dân làng. Quan hệ với Thái Lan càng thêm căng thẳng. Theo ông Trần Quang Cơ, đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đầu thập niên 1980, chính quyền Thái Lan lúc đó gắn bó rất chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng Pol Pot chống Việt Nam nên, hầu như không có tháng nào là không có những đám đông biểu tình trước sứ quán hò hét phản đối Việt Nam “xâm lược Campuchia”, xâm phạm lãnh thổ Thái.
Sự căng thẳng giữa hai quốc gia đã dồn thêm nhiều áp lực lên cộng đồng Việt Kiều. Các tỉnh Đông Bắc Thái Lan là nơi có nhiều người Việt từ hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An tới làm ăn. Họ đã từng được Thái Lan chào đón. Cuối thập niên 1920, Nguyễn Ái Quốc thường dừng chân tại đây để gây dựng cơ sở, truyền bá chủ nghĩa cộng sản trong cộng đồng và liên lạc với các phong trào trong nước. Đây cũng là vùng có hàng ngàn người Thái cảm tình với chủ nghĩa cộng sản, nuôi ý đồ làm cách mạng.
Năm 1947, chính phủ có thiện cảm với Hồ Chí Minh của Thủ tướng Bridi Banomyong bị thay thế bởi một chính phủ thân Mỹ. Lo sợ chủ nghĩa cộng sản nảy nở, chính quyền mới ban hành luật cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lập hội và không cho tự do ngôn luận. Vùng biên giới Đông Bắc Thái Lan bị thiết quân luật.
Người Việt ở đây, tuy vẫn được lưu dung, nhưng bị coi là “tị nạn bất hợp pháp”.
Theo ông Trần Quang Cơ: “Họ không được cấp ‘tàng-đạo’ – giấy chứng nhận ngoại kiều – cũng không được nhập quốc tịch Thái. Mặc dù đã làm ăn sinh sống trên đất Thái hàng chục năm, hàng chục vạn người Việt vẫn bị quản thúc, muốn ra khỏi nơi cư trú, muốn đến sứ quán ở Bangkok những dịp Tết Nguyên đán hay ngày Quốc khánh, đều phải xin giấy phép. Đại sứ Việt Nam cũng không thể tới những tỉnh Đông Bắc để thăm người Việt”579.
Năm 1979, khi đến Liên Hiệp Quốc, ông Hoàng Sihanouk đã dừng lại ở New York khá lâu để chờ chấp thuận tị nạn. Nhưng sự im lặng của người Mỹ đã đẩy ông trở lại tay Trung Quốc. Tất cả các dinh thự mà người Trung Quốc và Bắc Triều Tiên tặng ông ở Bắc Kinh và Bình Nhưỡng vẫn chờ đợi ông. Thoạt đầu, Sihanouk tuyên bố “không bao giờ hợp tác với Pol Pot”. Sihanouk đã từng nói với Đặng Tiểu Bình: “Ngài có thể mở tiệc chiêu đãi tôi, nhưng chúng ta đừng thảo luận về Pol Pot và Khmer Đỏ, nếu không, cuối cùng chúng ta sẽ ném cốc chén và bát đĩa vào mặt nhau”. Nhưng, khi Trung Nam Hải để Đặng Dĩnh Siêu, bà quả phụ Chu Ân Lai, người mà ông rất quý trọng, tiếp, ông Hoàng đã không còn khăng khăng nữa. Đặng Dĩnh Siêu đã nói với ông: “Hãy quên những nỗi đau riêng của ngài đi”.
Liên Hợp Quốc vẫn giữ chiếc ghế của Campuchia cho Pol Pot. Ngày 22-6-1982, tại Kualalumpur, Đảng Funcinpec của Hoàng thân Norodom Sihanouk đã ngồi lại với Khmer Đỏ – những kẻ đã giết mười tám người thân của ông – cùng với Mặt trận Giải phóng Dân tộc Nhân dân Khmer (KPNLF) của Son Sann, lập “Chính phủ Liên hiệp Ba phái Campuchia Dân chủ” do Sihanouk làm chủ tịch. Lại một lần nữa Sihanouk đánh cờ cho “Trung Hoa”, củng cố vị thế chính trị cho lực lượng chủ yếu là Khmer Đỏ.
Phương Bắc
Sau khi ký Hiệp định Paris, Kissinger đã đến Việt Nam. Có nhiều giai thoại nói rằng khi đó, Kissinger cảnh báo: từ nay, mối đe dọa của Việt Nam sẽ đến từ phương Bắc. Tuy nhiên, khi trả lời phỏng vấn tác giả cuốn sách này, Cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger đã cười và giải thích: “Khi tới Hà Nội, Lê Đức Thọ dẫn tôi đến bảo tàng lịch sử, ở đó chưa nói gì về chiến tranh với người Mỹ trong khi mô tả khá chi tiết những lần xung đột với Trung Hoa. Anh nghĩ, Hà Nội còn cần tôi nói với họ điều mà họ đã thuộc làu qua lịch sử!”.
Cảnh giác với người Trung Hoa là điều có từ trong máu người Việt Nam. Nhưng, trong lịch sử nghìn năm kháng cự để tồn tại với “Thiên Triều”, chưa có triều đại nào lại công khai xác định Trung Quốc là “kẻ thù truyền kiếp và lâu dài” trong các văn kiện chính thức như thời Tổng Bí thư Lê Duẩn. Trong suốt thập niên Trung Quốc đánh Việt Nam, Hà Nội vẫn giữ đại sứ tại Bắc Kinh và Bắc Kinh vẫn giữ đại sứ của mình tại Hà Nội. Nhưng đó là một mối quan hệ không bình thường.
Theo Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc giai đoạn 1974- 1987, ngay từ khi mới xảy ra vấn đề người Hoa, ông đã rất “vất vả với các trò trẻ con của Trung Quốc”. Tướng Vĩnh kể: “Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn luôn chầu chực ở hai cửa của sứ quán ta, cán bộ mình đi đâu nó theo đấy, ngay đại sứ đi nó cũng đi theo. Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ sứ quán ta ra, đi được một đoạn, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh, đúng luật, thế mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ. Giấy tờ đủ cả! Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra cái gì để bắt bẻ nữa. Chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với đại sứ nước nào đó”. Nhân viên sân bay Bắc Kinh cũng từng bắt Tướng Vĩnh đi vào cửa kiểm tra hành lý, cho dù ông được quyền “miễn trừ ngoại giao”.
Tướng Vĩnh dọa “họp báo tố cáo Bắc Kinh vi phạm công ước quốc tế” và dọa sẽ áp dụng biện pháp tương tự với đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội theo “nguyên tắc đối đẳng” họ mới để ông đi theo cửa không kiểm tra hành lý.
Sau khi Trung Quốc rút hết quân vào ngày 18-3-1979, hai bên đã có hai vòng đàm phán – vòng 1, từ 18-4 đến 18-5-79 tại Hà Nội và vòng 2, từ 28-6-79 đến 6-3- 80, tại Bắc Kinh – chủ yếu là giải quyết vấn đề tù binh. Theo ông Trần Quang Cơ: “Từ năm 1980 đến cuối năm 1988, ngót hai chục lần Việt Nam gửi thư hoặc công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị Trung Quốc bác. Trung Quốc nâng cao dần điều kiện lên: về quân sự đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, về chính trị đòi Việt Nam chấp nhận sẽ lập chính phủ liên hiệp ở Campuchia, bao gồm cả Khmer Đỏ”.
Chỉ hơn một năm sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc bắt đầu gây chiến tranh trở lại580. Duy trì chiến sự trên biên giới phía Bắc không chỉ làm suy kiệt Việt Nam mà còn là nơi để Trung Quốc phối hợp tấn công khi các phái Khmer chống Việt Nam bị đánh đuổi trên vùng biên giới Thái581. So với thời điểm tháng 2-1979, cuộc tiến công năm 1984 của Trung Quốc có trình độ tác chiến cao hơn hẳn. Ngày 16-5- 1984, chỉ sau mười tám ngày điều quân, Trung Quốc đã chiếm và chốt giữ hai mươi chín điểm dọc biên giới Việt Nam.
Cuộc phản công đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 11-6-1984, đánh vào các cao điểm 233, 685 nhưng không thành công. Cuộc phản công quy mô hơn vào ngày 12-7-1984 cũng bị coi là thất bại. Chiến sự ở thế dằng co kéo dài cho tới tháng Giêng năm 1985. Có những nơi, chốt của quân đội Việt Nam cách chốt của quân Trung Quốc chỉ từ sáu đến tám mét; có những điểm cao, đôi bên liên tục giành giật, chiếm đi, chiếm lại ba bốn chục lần. Do địa hình phía Việt Nam hiểm trở, tháng 3-1985, Trung Quốc chiếm lại được bốn điểm cao quan trọng thuộc khu vực Quân khu II, đặc biệt là các khu vực thuộc vùng biên giới Hà Giang. Đây là giai đoạn chiến tranh có tỉ lệ thương vong cao nhất ở vùng biên giới582.
Tháng 2-1979, khi Đặng Tiểu Bình đánh Việt Nam, Liên Xô đang có năm mươi sáu sư đoàn ở vùng biên giới với Trung Quốc nhưng đã không có bất cứ một động thái quân sự nào. Trước “thông điệp” này, Đặng Tiểu Bình quyết định “đi đêm” ngay với Moscow, và mặc dù nhận ra sự yếu kém của quân đội, Đặng quyết định không cần vội vã chi tiền hiện đại hóa quân sự583. Tuy nhiên, Đặng vẫn duy trì chiến tranh quy mô nhỏ trên vùng biên giới, một mặt giữ chân thường xuyên hơn 800 nghìn quân Việt Nam584, mặt khác, biên giới trở thành chiến trường thật để quân đội Trung Quốc có nơi huấn luyện. Trong thập niên 1980, gần hết lực lượng bộ binh Trung Quốc ở trên cả nước đã được luân chuyển đến tác chiến ở vùng biên giới Việt Nam585.
Chiến cuộc đã giữ chân đội quân bảo vệ biên giới phía Bắc Việt Nam lên tới ba quân đoàn, mười một sư đoàn, mười ba trung đoàn trung đoàn và bảy mươi tiểu đoàn độc lập, góp phần đưa lượng quân thường trực ở cả hai đầu đất nước lên tới 1,6 triệu người. Sau khi Gorbachev nhận chức tổng bí thư, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam bắt đầu bị cắt giảm. Người lính trên biên giới phía Bắc vừa rất khổ về vật chất, vừa rất căng thẳng về tinh thần. Hà Nội nhận ra không thể tiếp tục duy trì tình trạng đó.
“Giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia” liên quan đến “bình thường hóa quan hệ Việt – Trung” được Bộ Chính trị đặt ra trong Nghị quyết 32/BCT21, ngày 9- 7-1986, một ngày trước cái chết của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Hội nghị do Trường Chinh chủ trì. Nghị quyết 32 ra đời, theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, “không phải là ngẫu nhiên”. Gần hai mươi ngày sau đó (28-7-1986), tại Vladivodstock, Gorbachev công bố chính sách đối ngoại mới, theo đó, Liên Xô sẽ: “Xích gần lại với Trung Quốc, giải quyết ‘ba trở ngại’ mà Trung Quốc nêu ra: rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung-Xô, giải quyết vấn đề Campuchia”. Gorbachev tuyên bố: “Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các i đi vì ruộng đất lại phải đưa vào hợp tác484.
Khoán xuất hiện lần đầu ở Hải Phòng vào năm 1962 trong vài hợp tác xã ở hai huyện Tiên Lãng, An Lão. Thấy phương thức làm ăn này hiệu quả, Bí thư Thành ủy Hải Phòng lúc bấy giờ là ông Huỳnh Hữu Nhân đã đề nghị trung ương cho mở rộng485. Tuy nhiên, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, khi đó là trưởng Ban Công tác Nông Thôn, đã không đồng ý vì cho rằng “khoán hộ là con dao hai lưỡi”486. Hải Phòng, năm 1974, cũng là nơi đầu tiên khôi phục khoán, nhưng chưa đầy hai năm sau thì bị cấm487.
Năm 1976, cho dù chịu đói kém, cả xã có tới sáu mươi hộ có người đi ăn xin, nông dân Đoàn Xá, Hải Phòng, đã thà mò cua bắt ốc chứ nhất định không xuống làm ở ruộng hợp tác xã. Sau khi có biểu quyết của 90% cán bộ, xã viên, ngày 10-6- 1977, “Ban thường vụ Đảng ủy xã họp phiên bất thường và ra ‘nghị quyết miệng’, cho phép khoán sản phẩm”488. Cả xã nắm chặt tay nhau thề tuyệt đối giữ bí mật để “bảo vệ sự nghiệp và bảo vệ cán bộ”. Năm 1978, ở huyện Ứng Hòa, Hà Sơn Bình, để bảo vệ “khoán chui”, chủ nhiệm hợp tác xã Sơn Công đã phải cho gỡ bỏ một số ván trên cây cầu độc đạo dẫn vào xã, sao cho xe cải tiến chở phân, chở lúa của nông dân thì qua được nhưng xe hơi lãnh đạo về thì không qua được.
May mắn cho Đoàn Xá, từ Bí thư Huyện ủy Nguyễn Đình Nhiên, Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo, Chủ tịch Thành phố Đoàn Duy Thành đều đã cùng “đội nón, xắn quần lội xuống thăm đồng, nói chuyện chia sẻ với nông dân”, nên ngày 27-6-1980, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã ra Nghị quyết 24, cho “áp dụng khoán trên 100% đất nông nghiệp”489. Toàn bộ nghị quyết này được ông Tạo cho đăng tải trên đài, báo Hải Phòng. Nhiều địa phương miền Bắc đã khăn gói về đây học tập490.
Nhưng trong Thành ủy Hải Phòng, có bốn ủy viên không đồng ý khoán. Hai tỉnh láng giềng là Hải Hưng và Thái Bình cấm cán bộ nghe theo Hải Phòng. Một cơ quan lý luận của Trung ương đặt vấn đề: “Nếu cứ khoán như thế thì đốt hết sách Marx- Lenin đi à”.
Trước tình hình đó, Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo đã trực tiếp báo cáo với Ban Bí thư Trung ương Đảng. Trong Ban Bí thư chỉ có một nửa tán thành. Ban Nông nghiệp Trung ương, đặc biệt là Trưởng Ban Võ Thúc Đồng, quyết liệt phản đối, coi khoán là “chệch hướng, mất lập trường, mất chủ nghĩa xã hội”. Một số cán bộ của Ban ủng hộ khoán đã bị kỷ luật, Vụ trưởng Nguyễn Thái Nguyên bị khai trừ Đảng. Nhưng Hải Phòng vẫn không nao núng. Ở nhiều huyện, nạn đói vẫn còn nghiêm trọng. Ông Bùi Quang Tạo yêu cầu bí thư các huyện tiếp tục triển khai, đồng thời Thành ủy Hải Phòng “tổ chức lực lượng tiến công vào từng thành lũy quan điểm lập trường”, từ Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Trường Chinh, đến Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Một thuận lợi cho Hải Phòng là có khu nghỉ mát Đồ Sơn, nơi các nhà lãnh đạo thường xuyên về nghỉ ngơi hoặc tổ chức hội nghị. Đặc biệt, năm 1962, sau khi từ Trung Quốc trở về, bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của ông Lê Duẩn, đã về công tác tại báo Hải Phòng cho đến ngày trở lại Khu IX. Mối quan hệ của ông Lê Duẩn với Hải Phòng, vì thế, còn có cả tình riêng. Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nghe Chủ tịch Đoàn Duy Thành “báo cáo tình hình Hải Phòng” trong suốt ba giờ liền: nông nghiệp được báo cáo là sa sút, “người trồng lúa mà không có gạo ăn, lúa chín ngoài đồng mà không ai muốn gặt, vì gặt về mà chẳng được hột nào”. Ông Thành, một người cởi mở và ăn nói trôi chảy, lại rất được ông Lê Duẩn và bà Nguyễn Thụy Nga cảm tình, đã phân tích “nhiều yếu tố không hợp lý của hợp tác xã”. Ông Thành còn đọc cho ông Lê Duẩn nghe câu ca dao: “Mỗi người làm việc bằng hai, để cho cán bộ mua đài, mua xe. Mỗi người làm việc bằng ba, để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân”. Theo ông Đoàn Duy Thành thì ông Duẩn nghe tới đó liền đứng phắt dậy: “Tôi đồng ý! Làm ngay! Làm ngay! Không phải hỏi ai nữa. Cứ làm ngay đi!”.
Ngày 2-10-1980, tổng bí thư xuống thăm Hải Phòng, từ Đồ Sơn đến Kiến An, ông thấy quả là trên các thửa ruộng khoán lúa xanh tốt, nông dân phấn khởi, đời sống nhân dân đi lên khác hẳn những nơi còn duy trì lối làm ăn tập thể. Trợ lý tổng bí thư, ông Đậu Ngọc Xuân tháp tùng, gợi ý với Hải Phòng: “Nếu anh Ba đã nói cho phép làm thì phải làm thật nhanh, để đến khi ở trên có ai phản ứng thì ở dưới đã có kết quả thực hiện rồi, lúc đó có ai muốn ‘bẻ ghi’ cũng không kịp nữa”491.
Sau khi tổng bí thư ra về, Chủ tịch Đoàn Duy Thành lại đi Hà Nội xin gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông Thành đã không quên “thưa với thủ tướng” rằng Tổng Bí thư Lê Duẩn đã xuống thăm và “rất ủng hộ khoán”. Ngày 12-10-1980, thủ tướng xuống nghỉ mát ở Đồ Sơn, Hải Phòng lại báo cáo, và giọng của Chủ tịch Đoàn Duy Thành lại lâm ly như khi báo cáo với tổng bí thư. Thủ tướng Phạm Văn Đồng xót xa: “Làm lấy cái để ăn mà cũng còn khó như thế đấy”. Trước khi rời Đồ Sơn, thủ tướng dặn: “Các đồng chí phải cố sức thuyết phục anh Năm (tức Chủ tịch nước Trường Chinh) để sớm đi tới thống nhất”492.
Cuộc tiếp cận với “anh Năm” mất nhiều thời gian hơn, không chỉ vì ông là người đã tuyên ngôn chống khoán thời Kim Ngọc. Trường Chinh là một con người làm việc có nguyên tắc, và nguyên tắc quan trọng nhất của ông là chủ nghĩa Marx-Lenin.
Theo ông Phan Diễn, khi đó là trợ lý của Chủ tịch Trường Chinh: “Mùa hè năm 1980, bác Thận (tức Trường Chinh) đang nghỉ ở Đồ Sơn. Anh Bùi Quang Tạo ra thăm bác, nhưng chỉ nói qua loa về chuyện khoán hộ, coi như việc làm tự phát ở một vài nơi. Bác Thận biết ý cũng không hỏi sâu thêm”. Một cán bộ của Văn phòng Trung ương, ông Hà Nghiệp, khéo léo hé tin với Trường Chinh: “Anh Ba và anh Tô (tức tổng bí thư và thủ tướng) cũng mới xuống xem các cơ sở và tỏ ý đồng tình với khoán”. Rồi ông Hà Nghiệp gợi ý với Hải Phòng: “Thành phố nên mời chủ tịch nước xuống thăm bà con nông dân ở các hợp tác xã có khoán. Tất nhiên phải chọn địa điểm nào thật thuyết phục”493.
Năm 1981, nhân dịp xuống nghỉ ở Đồ Sơn, Chủ tịch Trường Chinh đồng ý là sẽ “dành nửa tiếng để tiếp lãnh đạo Hải Phòng”. Các nhà lãnh đạo Hải Phòng rất lo nhưng quyết định tốt nhất là cứ nói ra sự thật. Bí Thư huyện ủy Đồ Sơn Nguyễn Đình Nhiên, lại bắt đầu bằng câu chuyện “năm mươi, sáu mươi hộ xã viên của Đoàn Xá” đã từng phải đi ăn xin, do đói mà tệ nạn ăn cắp trong nông thôn phát triển.
Ông Nhiên thưa với chủ tịch: “Cả gà, cả chó, cả lợn, rồi cả trâu của hợp tác xã người ta cũng giết trộm ngay ngoài đồng để ăn”.
Thấy “cụ chau mày”, ông Nhiên khá lo nhưng rồi “cụ” bảo tiếp tục, ông nói tiếp: “Thưa Chủ tịch, lên quy mô lớn còn có cái tệ nữa là chè chén ghê lắm. Cái gì cũng liên hoan. Chỉ xây dựng một cái cống con chừng độ bốn, năm mét mà cũng phải có khai mạc, bế mạc. Chẳng qua là để đánh chén thôi. Ngày tổ chức đặt vòng cũng đánh chén! Cán bộ đánh chén như thế thì dân đói là phải”494. Người thư ký nhắc nhở giờ, nhưng Chủ Tịch Trường Chinh vẫn cho tiếp tục. Thay vì nửa giờ, hôm đó nhà lãnh đạo vào hàng kiên định nhất của Đảng này đã nghe nói về “xé rào” hết hơn một giờ rưỡi.
Trước đó, tháng 8-1980, ông Lê Thanh Nghị, khi ấy làm thường trực Ban Bí thư, tổ chức một cuộc họp, mời ông Lê Duẩn cùng bốn bí thư tỉnh ủy: Trương Kiện, bí thư Nghệ Tĩnh, Hoàng Văn Hiều, bí thư Thanh Hoá, Bùi Quang Tạo, bí thư Hải Phòng, Ngô Duy Đông, bí thư Hải Hưng, bàn về hợp tác xã.
Theo ông Trần Đức Nguyên, thư ký của ông Lê Thanh Nghị: Buổi sáng hội nghị nghe Ban Nông nghiệp trình bày một bản đề án mà trước đó ông Nghị đã cho là “không thoát khỏi tư duy cũ”. Đầu giờ chiều, Văn phòng Trung ương gửi tới những người dự hội nghị bản kiến nghị khoảng ba trang do một chuyên viên, ông Nguyễn Minh Chương, tranh thủ viết trong buổi trưa, nêu hai vấn đề: 1-Tổ chức lại các hợp tác xã quá to theo quy mô hợp lý, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và trình độ cán bộ. 2- Cho hợp tác xã khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và đến người lao động.
Hội nghị đã thảo luận sôi nổi, đa số tán thành kiến nghị này. Ông Lê Duẩn nói: “Thêm vấn đề huyện vào đây nữa”. Còn ông Ngô Duy Đông thì bác bỏ thẳng thừng: “Nếu có thể dùng dây thép gai rào lại để ngăn việc khoán sản phẩm ở Hải Phòng không tràn được sang Hải Hưng thì tốn mấy tôi cũng làm”. Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương Võ Thúc Đồng không phát biểu gì. Nhưng một phó ban của ông Đồng là ông Nguyễn Công Huế nói sau cùng: “Nếu khoán theo kiểu này, thì ba năm nữa, nước ta phải làm lại cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai!”.
Ngay sau cuộc họp này, Thông báo 22, đã được ông Lê Thanh Nghị ký vào ngày 14-8-1980, cho phép: “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã”. Do có khoảng cách với quan điểm của Ban Nông nghiệp Trung ương, theo ông Đinh Văn Niệm: “Thông báo này không được đăng báo, không được phát hành xuống cơ sở; tuy nhiên, nó cứ được truyền tay mà lan ra”.
Từ ngày 27 đến 29-10-1980, tại Côn Sơn, ông Hoàng Tùng, bí thư Trung ương Đảng kiêm tổng biên tập báo Nhân Dân, đã lấy uy bhoàn toàn không biết. Tháng 9-1989, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Phan Văn Khải sang Nhật gặp chủ tịch Đảng Tự do Dân chủ, ông Michio Watanabe594. Cuộc gặp tại trụ sở đảng của ông Watanabe diễn ra thân mật, đôi bên bàn một số vấn đề chiến lược về hợp tác kinh tế, bàn những công việc có thể bắt đầu ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận. Theo ông Phan Văn Khải, cuối cuộc gặp, ông Watanabe gợi ý: “Tôi có nhiều bạn bè quốc tế, liệu tôi có thể giúp được gì không?”. Được lời, ông Khải nói: “Việt Nam muốn bình thường hóa với các nước, đặc biệt là với Trung Quốc và Mỹ”.
Giữa năm 1990, ông Michio Watanabe đi Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân. Sau chuyến đi đó, ngày 7-5-1990, Watanabe lặng lẽ bay tới Sài Gòn. Ông được đưa tới biệt thự 261 Điện Biên Phủ, nơi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Phan Văn Khải, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mai Chí Thọ và người trung gian, ông Charles Đức595 đang đợi. Ông Phan Văn Khải thừa nhận, ông Watanabe chuyển tới Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh những tín hiệu tích cực. Sau khi ông Watanabe rời Sài Gòn, Bắc Kinh gửi Thứ trưởng Ngoại giao Từ Đôn Tín đến Hà Nội.
Trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, ngày 5-6-1990, ông Nguyễn Văn Linh mời Đại sứ Trương Đức Duy đến Nhà khách Trung ương Đảng “nói chuyện thân mật”. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói với Trương Đức Duy là ông sẵn sàng đến Bắc Kinh. Ông Nguyễn Văn Linh thừa nhận: “Trong quan hệ hai nước, mười năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến Pháp, có cái sai đang sửa”596. Sáng hôm sau, ngày 6-6-1990, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng mời cơm Đại sứ Trương Đức Duy. Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên cuộc gặp chỉ có hai người. Bộ Ngoại giao chỉ biết thông tin về cuộc gặp này vào chiều 10-6-1990 từ Bí thư Thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn597.
Ngày 29-8-1990, Đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, chuyển thông điệp của Bắc Kinh mời Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô – thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc – vào ngày 3-9-1990 để “hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước”. Chuyến đi Thành Đô vào ngày 2-9-1990 gồm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng, được tháp tùng bởi Hồng Hà, chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn, trưởng Ban Đối ngoại và Thứ trưởng Ngoại Giao Đinh Nho Liêm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch không có trong thành phần cuộc gặp.
Hội nghị Thành Đô đóng vai trò quyết định trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Nó là cơ sở để thiết lập hòa bình trên biên giới Việt- Trung, một biên giới chiến trường bắt đầu có cơ hội chuyển sang biên giới thị trường. Tuy nhiên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh không chỉ muốn cuộc gặp gói gọn trong vấn đề hai nước.
Ngày 5-6-1990, trong cuộc gặp Đại sứ Trương Đức Duy, tổng bí thư Việt Nam đã sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội”. Ông Nguyễn Văn Linh nói với Trương Đức Duy: “Chúng tôi muốn cùng những người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin”598. Thay vì bắt đầu một kỷ nguyên Việt Nam thiết lập quan hệ với Trung Quốc bằng tư thế độc lập của một quốc gia và chỉ vì quyền lợi quốc gia, Trung Quốc vẫn được coi là đàn anh trong mối tương quan của hai quốc gia cộng sản. Điều này còn ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Hà Nội và Phnom Penh.
Trong cuộc gặp Trương Đức Duy ngày 5-6-1990, tổng bí thư tiếp tục đề cập đến “giải pháp Đỏ”, giải pháp chấp nhận Khmer Đỏ trong thành phần chính phủ mới ở Phnom Penh. Ông Nguyễn Văn Linh giải thích: “Không lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản; họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”599. Ngày 6-6-1990 Tướng Lê Đức Anh nói với Trương Đức Duy: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Pol Pot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường… Ngày xưa Pol Pot là bạn chiến đấu của tôi”600.
Tại Hội nghị Thành Đô, sáng kiến “giải pháp đỏ” mà lãnh đạo Việt Nam đưa ra đã bị Lý Bằng và cả Giang Trạch Dân bác bỏ. Giang Trạch Dân đã giảng giải cho phía Việt Nam: “Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta”. Theo ông Trần Quang Cơ, trong bảy điểm về Campuchia thống nhất ở Hội nghị Thành Đô, có hai điểm có tính chất chung, năm điểm còn lại hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, không có điểm nào theo yêu cầu của Việt Nam601.
Campuchia thời hậu Việt Nam
Đất nước Campuchia may mắn đã không rơi trở lại vào tay của Khmer Đỏ sau khi Việt Nam rút quân như trường hợp Afganistan rơi vào tay Taliban thời kỳ hậu Liên xô. Và cũng thực sự may mắn cho người dân Campuchia khi những người được Hà Nội đưa lên nắm quyền ở Phnom Penh, đặc biệt là Hun Sen, đã không nghe theo Hà Nội một cách mù quáng. Khi đứng trước thời cuộc mới, họ đã biết quyết định dựa trên quyền lợi của dân tộc mình.
Ngay sau Hội nghị Thành Đô, ngày 5-9-1990, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch và Lê Đức Anh, bay sang Phnom Penh thuyết phục Phnom Penh chấp nhận thỏa thuận Thành Đô, coi Trung Quốc là một đồng minh. Nhưng điều này chỉ làm cho Phnom Penh càng xa hơn với Hà Nội. Theo Đại sứ Ngô Điền: “Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định trái với sự gợi ý của ta trên nhiều việc”.
Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, muốn Phnom Penh chọn “giải pháp Đỏ” nhằm để “hai phái Khmer cộng sản” hợp tác với nhau. Nhưng, hơn ba năm sống dưới triều đại Pol Pot, các nhà lãnh đạo Campuchia đã mất đủ máu xương để biết sợ cái gọi là “cộng sản”. Năm tháng trước khi Việt Nam rút hết quân, ngày 30-4-1989, Phnom Penh quyết định đổi tên nước “Cộng hòa Nhân dân Campuchia” thành “Nhà nước Campuchia”.
Ngày 18-10-1991, khi Việt Nam không còn can thiệp được vào các quyết định của Phnom Penh, Campuchia đã sửa đổi hiến pháp theo hướng từ bỏ chủ nghĩa xã hội: chấp nhận kinh tế thị trường tự do và hệ thống chính trị đa đảng. Tên nước, quốc kỳ, quốc ca, ngày quốc khánh thời Sihanouk được đưa ra dùng trở lại. Hai chữ “cách mạng” trong tên gọi Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đảng mà Việt Nam giúp dựng lên, đã được bỏ đi.
Năm 1985, khi tổng kết một lớp tập huấn chuyên gia, Tướng Lê Đức Anh cho rằng lực lượng Quân Tình nguyện sẽ rút trước sau khi giúp Phnom Penh tự đảm đương được về quân sự, nhưng đội ngũ chuyên gia thì phải ở lại Campuchia cho tới năm 2000. Trên thực tế, khi Việt Nam ngỏ lời rút chuyên gia, “bạn” sốt sắng đồng ý và thúc đẩy tiến trình này diễn ra nhanh hơn. Đoàn Chuyên gia đã được giải thể từ ngày 30-12-1988.
Trừ một số không nhiều cán bộ Việt Nam thực sự có năng lực, phần lớn chuyên gia chỉ là những người năng nổ, nhiệt tình, sốt sắng áp đặt những kinh nghiệm, lề lối làm việc máy móc từ chế độ quan liêu bao cấp Việt Nam. Sau Hội nghị Cán bộ Đảng toàn quốc lần thứ II, tháng 4-1989, Hun Sen đã khen ngợi Bí thư tỉnh Takeo, Pol Saroeun, khi ông này đã biết “báo cáo láo” để qua mặt chuyên gia về thành tích xây dựng “hợp tác hóa” trong nông nghiệp. Nhờ không hình thành mô hình tổ đoàn kết sản xuất theo yêu cầu của chuyên gia Việt Nam, trong khi vẫn báo cáo “có” lên chuyên gia, sản xuất nông nghiệp của Takeo đã khá hơn các tỉnh khác.
Cũng tại Hội nghị Cán bộ Đảng toàn quốc lần II, Campuchia đã thay căn bản thành phần nhân sự mà chuyên gia Việt Nam trước đây áp đặt. Giai đoạn 1979- 1981, nhóm “tập kết” được ông Lê Đức Thọ đưa về gần như thống lĩnh Phnom Penh. Từ tháng 4-1989, nhóm từ lực lượng Quân Khu Đông (khu 203) chạy sang Việt Nam, cầm đầu bởi Chea Sim, Hun Sen, Ouk Bun Sươn, Heng Samrin, bắt đầu thâu tóm dần quyền bính602.
Đây không hẳn là sự kỳ thị. Theo ông Ngô Điền, ngay từ đầu chuyên gia Việt Nam đã không tin những người thuộc phái Khu 203. Ở Bộ Nội vụ, những người thực sự có năng lực như Sin Song được cả Heng Samrin lẫn Chea Sim đề cử nhưng vẫn không được chuyên gia chấp nhận; trong khi đó, Khang Sarin, một người “năng lực có hạn, đạo đức kém, sinh hoạt bừa bãi”, lại được đưa lên làm bộ trưởng (1981). Khi thấy Khang Sarin không hoàn thành nhiệm vụ, “chuyên gia” lại đưa Nay Pena, một người năng lực không khá gì hơn lên thay. Phải đến khi chuyên gia rút, “bạn” mới đưa được Sin Song lên làm Bộ trưởng.
Yim Chhay Li, vốn là y tá, chỉ bổ túc nghề ở Việt Nam một thời gian ngắn, cũng được “chuyên gia” đưa lên làm bộ trưởng Y tế. So Niet, theo ông Ngô Điền, “dốt nát và thường say rượu”, cũng được cử làm thứ trưởng Bộ Nội vụ. Đặc biệt, nữ y tá Quân khu VII Mel Sam Ol đã được Tướng Lê Đức Anh và các chuyên gia Trần Xuân Bách, Đỗ Chính, Phạm Bái đưa lên giữ chức trưởng Ban tổ chức Trung ương Đảng thay cho Xại Phuthong, một kháng chiến quân kỳ cựu603. Ngay từ khi chuyên gia chưa rút, các quyết định lớn về nhân sự, Heng Samrin, Chea Sim và Hun Sen đã phải làm thay. Sau tháng 4-1989, tuy chưa tiện đưa Mel Sam Ol ra khỏi Bộ Chính trị nhưng nữ ý tá này chỉ còn giữ chức chủ tịch Công đoàn. Hun Sen càng ngày càng tỏ ra bản lĩnh, tách khỏi các ảnh hưởng của Việt Nam và đưa ra những quyết định thích hợp hơn với thời cuộc.
Tốirc;n vận động phu nhân Trường Chinh để thay vì đi Vĩnh Phú ông đến Hà Nam Ninh. Khi ấy đã giáp tết, ông Trường Chinh đồng ý về Hà Nam Ninh, nhân thể thăm quê. Đến huyện Xuân Thủy, tỉnh bố trí để ông ở nhà khách, nhưng Trường Chinh đã về ngủ đêm ở xã Xuân Hồng.
Đêm ấy, theo ông Nguyễn Thái Nguyên, người dân kéo đến rất đông, ai cũng xưng là cháu Trường Chinh nên bảo vệ không thể nào ngăn cản. Mấy người bà con của Trường Chinh “vô tư” khoe: “Bác ạ, nhờ giải tán hợp tác xã, khoán ruộng mà chúng cháu không còn đói nữa”. Thái Nguyên nghe sợ quá nói với Phan Diễn: “Gay rồi”. Phan Diễn cũng sợ, nhưng không ngờ, nhờ những lời nói thật của những người cậy thế cháu chắt ấy mà sáng hôm sau, thay vì trở lại Xuân Thủy, ông Trường Chinh triệu tập một cuộc nói chuyện ở xã Xuân Hồng. Tại đây, lần đầu tiên ông nhắc đến Chỉ thị 100 và công khai ủng hộ khoán.
Năm 1982, khi trở thành phó chủ tịch trường trực Hội Đồng Bộ trưởng, ông Tố Hữu xuống thăm và tặng Hải Phòng mấy câu thơ:
“Bốn cống ba cầu, năm cửa ô
 Đào sông lấn biển dựng cơ đồ”.
Người dân Hải Phòng lập tức họa lại:
“Có cống có cầu lại có ô
Phi thương bất phú dựng cơ đồ”.
Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn 
Việc “xé rào” mà ông Võ Văn Kiệt cho làm ở Thành phố Hồ Chí Minh quả là có gây tiếng vang, nhưng đồng thời cũng bị một số người quy kết là “đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa”. Theo ông Võ Văn Kiệt, điều đó khiến ông Lê Đức Thọ lo lắng.
Ở Đại hội lần thứ IV, năm 1976, ông Võ Văn Kiệt được đưa vào Bộ Chính trị với vai trò ủy viên dự khuyết cùng với hai nhân vật khác là Tố Hữu và Đỗ Mười. Cả ba được chuẩn bị để trở thành lực lượng kế cận trong thập niên tiếp theo. Ông Võ Văn Kiệt kể: “Anh Sáu Thọ muốn đưa ngay tôi ra Trung ương. Anh Ba Lê Duẩn nói cứ để Kiệt làm ở Thành phố, làm được ở Thành phố rồi thì giữ cương vị gì cũng được. Nhưng anh Sáu Thọ nói cũng phải tập và cũng phải cho va chạm. Về sau, tôi biết thêm là anh Sáu Thọ sợ tôi sa lầy bởi vụ xé rào”499.
Tháng 3-1982, sau Đại hội Đảng lần thứ V, cả ba ông Võ Văn Kiệt, Tố Hữu, Đỗ Mười đều trở thành ủy viên chính thức Bộ Chính trị, cùng với hai ủy viên mới là Tướng Lê Đức Anh, tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, và Nguyễn Đức Tâm, trưởng Ban Tổ chức. Hai nhân vật bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị trong thời gian này là ông Nguyễn Văn Linh và Tướng Giáp. Sau đại hội, ông Kiệt ra Hà Nội giữ chức phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, ông Linh được điều trở lại Thành phố làm bí thư.
Đúng như Lê Đức Thọ dự đoán, ngay trong Đại hội V, thực tiễn xé rào ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam chỉ nhận được rất ít hoan nghênh, trong khi lại bị rất nhiều nơi phê phán. Ông Phạm Văn Hùng, thư ký của đoàn đại biểu Thành phố tại Đại hội V, kể: “Tôi đi dự các phiên họp, nghe thư ký các đoàn phản ánh, thấy các đoàn tuy có đánh giá mặt tích cực của “bung ra”, nhưng những tín hiệu này không những không được nâng niu, mà mặt trái của nó đã bị phê phán vô cùng gay gắt”. Đại hội V vì thế lúc đầu định bỏ chế độ hai giá trong “lưu thông phân phối”, cuối cùng vẫn phải duy trì. Nghị quyết đại hội tuy có ‘chống tập trung quan liêu bao cấp” nhưng cũng đã nhấn mạnh chống “tùy tiện, vô tổ chức vô kỷ luật” hơn. Theo ông Phạm văn Hùng: “Cuộc đấu tranh trong Đảng là vô cùng phức tạp”.
Nửa năm sau, ngày 10-8-1982, Bộ Chính trị vào làm việc với ban lãnh đạo mới của Thành phố Hồ Chí Minh. Ngay trên máy bay chuyên cơ, theo nhà báo Hữu Thọ, Tố Hữu nói: “Chưa tới Tân Sân Nhất đã ngửi thấy mùi Nam Tư”500. Tại phiên họp ở “Hội trường 10” cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh của Văn phòng Trung ương (T78), kéo dài đến hết ngày 19-8-1982, chính các nhà lãnh đạo từng ủng hộ “xé rào” trong nông nghiệp ở Đồ Sơn đã phê phán gay gắt tình trạng bung ra trong Thành phố. Nghị quyết của Bộ Chính trị tại đợt làm việc này, được gọi là “Nghị quyết 01”, đánh giá: “Những nhận định về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội chưa thật rõ và có phần buông lơi chuyên chính vô sản trên mặt trận phân phối lưu thông, mặt trận nóng bỏng nhất trong cuộc đấu tranh giữa ta với tư sản thương nghiệp và các thế lực chống đối khác”.
Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã chủ trì cuộc “làm việc” này, và ông Nguyễn Văn Linh, vừa mới về làm bí thư, là người “chịu trận”. Nhà báo Hữu Thọ, người có mặt ở Hội trường 10 trong phiên họp này, nhớ lại: “Ông Lê Duẩn nói: bí thư nên từ chức, chủ tịch cũng không nên làm nữa!”. Theo ông Trần Đức Nguyên, chuyên viên có mặt trong phiên họp, bị phê bình quá căng, ông Nguyễn Văn Linh nói: “Tôi về thì tình hình đã như thế này rồi”.
Ông Nguyễn Thành Thơ, người vừa bị Lê Đức Thọ loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Khóa V, là một trong rất ít người khi ấy đến chia sẻ với ông Nguyễn Văn Linh. Thấy ông Mười Thơ và ông Năm Vận tới thăm, “anh Nguyễn Văn Linh rất mừng”. Hôm ấy, ông Nguyễn Văn Linh đã thuật lại cho ông Mười Thơ và ông Năm Vận nghe về cuộc làm việc tại Sài Gòn của Bộ Chính trị. Ông Linh nói: “Trước một số tình hình, anh Đồng không ngồi, đi giày lọc cọc quanh bàn họp nói: ‘Phá hoại, phá hoại, từ chức, từ chức’. Tôi giận quá muốn nói: ‘Làm cho nền kinh tế đất nước suy sụp thế này lẽ ra tổng bí thư và thủ tướng phải từ chức’. Nhưng vừa mới nhóng lên, thấy thành phần hội nghị có bộ trưởng, thứ trưởng rất phức tạp, đành ngồi dựa ghế lặng im, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Chiều tôi cử đồng chí trưởng Ban kinh tế Thành ủy trình bày, đồng chí này trình bày được”501. Trưởng ban Kinh tế Thành ủy khi ấy là ông Nguyễn Ngọc Ẩn502. Ông Nguyễn Văn Linh kể: “Năm Ẩn nói xong, thấy các anh há hốc, chứng tỏ họ không hiểu gì thực tế”503.
Nghị quyết 01, ban hành sau phiên họp này của Bộ Chính trị, được công bố vào ngày 14-9-1982, tuy cho rằng Thành phố “buông lỏng chuyên chính vô sản trên mặt trận lưu thông phân phối” nhưng đã không đòi phải xử lý cụ thể những gì. Tuy vẫn khẳng định rằng “trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ phải hoàn thành cơ bản về cải tạo xã hội chủ nghĩa”, nghị quyết vẫn nhấn mạnh “kết hợp chặt chẽ cải tạo và xây dựng, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới”.
Như một động thái chính trị nhằm triển khai Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, ngày 30-9-1982, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh họp, dưới sự chủ trì của Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh, phân tích nguyên nhân của tình trạng tăng giá, buôn lậu, trốn thuế… không thể ngăn chặn là do “Thành phố còn tồn tại năm thành phần kinh tế”. Nghị quyết 17, ngày 30-9-1982, của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: “Chuyên chính vô sản trên mặt trận phân phối lưu thông là mặt trận nóng bỏng nhất trong cuộc đấu tranh giữa ta và tư sản thương nghiệp và các lực lượng chống đối khác”.
Năm tháng sau, ngày 4-3-1983, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh ra tiếp Nghị quyết 19, đòi: “Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh… triệt để xóa bỏ tư sản thương nghiệp, từng bước cải tạo các tầng lớp tư thương… Truy mua toàn bộ phương tiện của tư sản kinh doanh ngành vận tải, nhất là phương tiện vận tải chuyên dùng”504.
Nghị quyết 17 và 19 có thể dùng để bổ sung vào nhận xét ông Nguyễn Văn Linh “không phải là người chống cải tạo tư sản”505. Tuy nhiên, đây là một thời điểm mà không khí cải tạo đang được tái lập. Tháng 12-1982, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết 03, yêu cầu: “Lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa, trước hết trong nội bộ kinh tế quốc doanh và cơ quan nhà nước”. Sau khi Nghị quyết 01 phê phán “chuyên chính vô sản bị buông lỏng” ở Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21-1-1983, Bộ chính trị làm việc với Hà Nội, lại ra Nghị quyết 08, phê phán gay gắt hiện tượng xé rào và yêu cầu Hà Nội “mau chóng xiết chặt kỷ cương của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa”. Đầu tháng 5-1983, nhiều địa phương miền Bắc nhận được một “điện mật” của Trung ương chỉ thị thi hành một chiến dịch mang mật danh “Z-30”. Theo đó, chính quyền được phép “tiến hành điều tra, khám xét” những gia đình được gọi là có “tài sản bất minh”. Chỉ thị “Z-30” gần như chỉ được tiến hành ở Hà Nội506. Tại đây,
những gia đình có nhà mới xây từ hai tầng trở lên, hoặc những gia đình mà xóm giềng tố cáo có vẻ giàu có, khá giả, đều bị đưa vào diện nghi vấn “làm ăn bất chính”. Hàng trăm ngôi nhà đã bị khám xét, một số nhà được gọi là bất minh đã bị tịch thu. Năm 1983, người Hà Nội nói thơ: “Ti vi, tủ lạnh, Honda / Có ba thứ ấy khám nhà như chơi”507.
Ở Nam Định, khi công an lập một danh sách 200 hộ có “tài sản bất minh” cần kiểm tra, ông Nguyễn Văn An, khi ấy là bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, đã cho ngăn lại. Theo ông Nguyễn Văn An, khi ấy ở Hà Nội ông thấy “có gia đình cả nhà thắt khăn tang khi bị tống lên xe, kêu khóc ầm ĩ”. Bí thư Thành ủy Hải Phòng lúc bấy giờ là ông Đoàn Duy Thành nhận ông là người đầu tiên và duy nhất lên Trung ương “phản đối chiến dịch Z-30”.
“Ai g có 40.000 quân Việt Nam và một triệu Việt kiều ở Campuchia. Hơn hai tuần sau, ngày 28-05-1992, ông Akashi đại diện đặc biệt của tổng thư ký Liên Hợp quốc đã phải làm dịu tình hình bằng cách tuyên bố “không có bằng chứng về sự hiện diện của quân đội Việt Nam ở Campuchia” nữa.
Trước khi UNTAC tới Phnom Penh, chính quyền Hun Sen cũng đã đưa ra khỏi các cơ quan nhà nước một số người có thể “bị nghi ngờ là Việt Nam”. Chính UNTAC, khi giám sát và kiểm soát năm bộ của Chính phủ Hun Sen cũng đã loại bỏ thêm một số người bị cho là lai Việt.
Theo Đại sứ Trần Huy Chương: “Ngày 1-3-1993, sau nhiều lần điều chỉnh định nghĩa, khái niệm ‘lực lượng nước ngoài’, UNTAC phát hiện ba người đã từng ở trong quân đội Việt Nam nhưng sau khi giải ngũ lấy vợ sanh con và ở lại. UNTAC đòi đưa ba người này ra khỏi Campuchia. Ta giải thích rằng, việc trục xuất họ, chẳng những sai trái về mặt pháp luật, mà còn là tội ác vô nhân đạo, vi phạm nhân quyền. Cuối cùng UNTAC không nêu lại vấn đề này và cũng không dẫn độ ba người nói trên ra khỏi Campuchia”606.
Các lực lượng đối lập với Hun Sen phối hợp với Khmer Đỏ tiến hành nhiều cuộc khủng bố để xua đuổi Việt kiều. Cuối năm 1992, một lực lượng mà Chính phủ Hun Sen nói là Khmer Đỏ đã sát hại chín mươi hai người Việt Nam ở Đầm Be. Đây là số lao động do Công ty Miền Đông, một công ty được Quân Khu VII lập ra thời kỳ hậu Campuchia, đưa sang khai thác gỗ theo một thỏa thuận ký giữa quân đội Việt Nam và Chính phủ Phnom Penh.
Ngày 15-3-1993, Hoàng thân Shihanouk “khuyên người Việt nam về nước vì ở Campuchia không có an ninh”. Theo Đại sứ Trần Huy Chương: UNTAC đã làm ngơ trước hành động khủng bố, làm cho hàng vạn người Việt đã phải rời khỏi Campuchia về nước, mặc dù họ đã sống qua nhiều thế hệ ở Campuchia. Tính đến khi cuộc vận động bầu cử chấm dứt vào ngày 18-5-1993, có 131 người bị Khmer Đỏ giết, 250 người bị thương, năm mươi ba người bị bắt cóc; đặc biệt 25.000 người Việt đã phải rời Campuchia chạy qua biên giới lánh nạn, phần lớn về định cư tại một số tỉnh miền Nam Việt Nam. Hơn 4000 người đã bị kẹt lại ở Korthum, biên giới Việt Nam-Campuchia”.
Trong cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 23-5-1993, Đảng Funcinpec của Ranaridh dẫn trước với số phiếu chiếm 45%, Đảng Nhân dân Campuchia của Hun Sen chỉ được 38%, Mặt trận KNLF của Son Sann được 4%. Nhưng trước áp lực của Hun Sen, Sihanouk phải thuyết phục con trai nhượng bộ607. Ngày 15-6-1993 Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc công nhận kết quả bầu cử và đề cao vai trò lãnh đạo của Shihanouk. Hôm sau, ngày 16-6, Sihanouk đề cử Ranaridh và Hun Sen làm đồng thủ tướng của chính phủ liên hiệp lâm thời, cho phép các đảng có chân trong quốc hội được tham gia chính phủ.
Ngày 8-8-1993 chính phủ tấn công vào các khu vực Khmer Đỏ đã lấn chiếm trong thời kỳ UNTAC như Kongpong Thom, Preah Vihear, Siem Riep, Ban Tây Miên Chây nhằm xóa bỏ thế da báo. Cuộc tấn công có sự phối hợp của ba phái cầm quyền thu được kết quả lớn. Khmer Đỏ phải rút về khu vực mà chúng kiểm soát trước khi có Hiệp định Paris.
Ngày 24-9-1993 Hiến pháp Campuchia được công bố chính thức. Nhà vua với tư cách là quốc trưởng chỉ định Ranaridh làm thủ tướng thứ nhất, Hun Sen làm thủ tướng thứ hai; Sihanouk tuyên thệ làm vua, Monique trở thành hoàng hậu. Ngày 25-10-1993, Quốc hội Campuchia họp phiên đầu tiên và hôm sau, lễ trao quyền cho Chính phủ được thực hiện.
Các lực lượng UNTAC rút khỏi Campuchia vào ngày 15-11-1993. Quyền lực trên thực tế vẫn nằm trong tay Hun Sen. Tuy phải chia sẻ một số ghế ở chính quyền trung ương, nhưng chính quyền địa phương về cơ bản vẫn nằm trong tay Đảng Nhân dân Campuchia. Hun Sen còn bị thách thức ba lần trước khi ông thâu tóm gần như hoàn toàn quyền lực608.
Cho dù Hun Sen rồi sẽ bị chỉ trích như một nhà độc tài, quyền lực của ông càng được củng cố ở Campuchia càng làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam cùng thời yên tâm. Phía Tây Nam từ đây là một quốc gia láng giềng. Phần tiếp giáp với Trung Quốc cũng bắt đầu trở thành một đường biên mậu dịch. Chiến tranh chính thức kết thúc đối với Việt Nam. Hà Nội trở về với những vấn đề lợi quyền muôn thuở.
Chú thích
558 Đại Tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2005.
559 Phạm Văn Trà, 2009, trang 326-327.
560 Phạm Văn Trà, 2009, trang 327-328.
561 Mai Xuân Tần, 2005, trang 176.
562 Mai Xuân Tần, 2005, trang 176.
563 Sđd, trang 177.
564 Theo điệu bài hát Anh Ở Đầu Sông Em Cuối Sông, Phan Huỳnh Điểu.
565 Văn Lê, thơ.
566 Mìn zip và K58 thường không làm chết người. Mìn zip thì cắt đứt gót chân của những người đạp phải nó. Mìn K58 thì bật lên và nổ ở độ cao khoảng 80cm, sức sát thương đủ cắt đứt hai chân của người lính dẫm lên nó và còn có khả năng sát thương cả người đi phía sau, phía trước.
567 Điều tra của Ben Kiernan trong cuốn The Pol Pot Regime cho rằng: 1,67 triệu người, tương đương với 21% dân số Campuchia lúc ấy (7,89 triệu người) đã bị chết dưới bàn tay Khmer Đỏ; 100% người Việt, với mười nghìn sống trong các đô thị và mười nghìn người khác sống ở các vùng nông thôn, đều bị Khmer Đỏ giết sạch. Tuy, được hậu thuẫn bởi Bắc Kinh, nhưng chế độ Khmer Đỏ cũng không tha mạng cho người Hoa. Khoảng 50% người Hoa sống ở Campuchia, tương đương với 215 nghìn người đã phải chết dưới bàn tay Pol Pot.
568 Đại sứ Việt Nam tại Campuchia giai đoạn 1979-1991.
569 Ngô Điền, 1992, trang 63.
570 Ngô Điền, 1992, trang 63.
571 Sđd, trang 60.
572 Ngô Điền, 1992, tr 60.
573 Hun Sen sinh năm 1952 (Năm sinh trong lý lịch là 1951) quê ở huyện Stưng Troong, Kongpong Cham. Khi còn học phổ thông, Hun Sen có tham gia phong trào học sinh, bị khủng bố, lánh về Kratie buôn hàng tiếp tế cho Quân Giải phóng miền Nam. Khi Lonnol đảo chính, Hun Sen chạy theo bộ đội Việt Nam và sau đó tham gia một đơn vị vũ trang Campuchia do bộ đội Việt Nam huấn luyện. Năm 1972, Hun Sen đã lên đến tiểu đoàn trưởng. Năm 1975, khi tham gia “giải phóng Kompong Cham”, Hun Sen bị thương nặng và hỏng mắt trái. Thời Pol Pot, Hun Sen là trung đoàn phó, tham mưu trưởng Trung đoàn Vùng 21. Tháng 6-1977, trung đoàn của Hun Sen được lệnh chuẩn bị tác chiến, trinh sát về báo, mục tiêu được giao là đồn biên phòng Hoa Lư của Việt Nam. Sau khi một số cán bộ trung đoàn được gọi về quân khu học tập không thấy quay trở lại, Hun Sen cùng với một số cán bộ tâm phúc khác chạy thoát sang Việt Nam. Hun Sen đã được hai cán bộ Việt Nam tiếp đón và giúp đỡ trong thời kỳ đầu, ông Tám Quang và Ba Cung, đánh giá rất cao. Sau một số lớp huấn luyện đầu tiên, Hun Sen đã viết những kiến nghị có tầm chiến lược, được nói là, đã làm cho các cán bộ Việt Nam kinh ngạc. Khi trở thành bộ trưởng, biết mình bắt đầu từ số không, Hun Sen, với tư chất thông minh, đã nỗ lực hết mình để học tập. Theo ông Ngô Điền: “Bộ Ngoại giao Việt Nam nhanh chóng soạn một giáo trình sơ đẳng về ngoại giao, cử cán bộ sang giúp tôi mở lớp đào tạo cấp tốc. Hun Sen học trước, học riêng và học rất chăm, sau đó tự mình lên bục giảng lại bài cho các cán bộ Campuchia khác”. Cách làm này vừa giúp Hun Sen nắm bài chắc hơn vừa giúp ông kiến tạo uy tín trong hàng ngũ cán bộ Campuchia.
Theo ông Ngô Điền, khác với Pen Sovan, muốn tỏ ra tự mình làm được, không chịu tranh thủ sự giúp đỡ của chuyên gia, anh Hun Sen lúc đầu luôn khai thác chuyên gia, học rồi hỏi. Nhưng, những việc như chọn cán bộ, giải quyết các mối quan hệ nội bộ thì Hun Sen lại thường tự làm.
574 Ngô Điền, 1992, trang 65.
575 Sđd, trang 76.
576 Pen Sovan bị đưa trở lại Hà Nội giam giữ cho tới ngày 25-1-1992.
577 Theo Tướng Lê Đức Anh: “Trở về Hà Nội, Bộ Chính trị họp bàn xét vụ này. Lúc đó, tôi nhớ anh Tô (Phạm Văn Đồng) đã phê phán rất gay gắt và đề nghị một mức kỷ luật rất nặng đối với toàn bộ cán bộ chủ chốt của Bộ Tư lệnh 479 và 719 có liên quan đến vụ việc. Tôi nghĩ, lúc đó bất cứ ai đứng vào cương vị và nhiệm vụ của tôi cũng cảm thấy rơi vào trạng thái khó xử, vì nếu tình hình chỉ thuần túy là anh em tự động làm, sai đến đâu kiểm điểm kỷ luật đến đó thì không khó. Nhưng đằng này lại có chuyện đồng chí Hồ Quang Hóa có ra Hà Nội báo cáo cấp trên. Vậy thì mấy ông ‘cấp trên’ này trách nhiệm đến đâu phải do Bộ Chính trị định đoạt. Bởi vậy, tôi đề nghị với Bộ Chính trị là giao cho tôi xử lý thì tôi chỉ xin xử lý những việc cụ thể và những con người cụ thể của Bộ tư lệnh 719 và 479 có liên quan thôi. Bộ Chính trị chấp nhận. Tôi cũng đề xuất Bộ Chính trị nên cử một đồng chí có cương vị cao, thay mặt Đảng ta sang xin lỗi Đảng bạn, Bộ Chính trị nhất trí cử anh Chu Huy Mân” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2005, tr 186-187). Theo ông Lê Đức Anh: “Việc đầu tiên, tôi điện sang ngừng tất cả các cuộc bắt bớ và thả tất cả những người đã bắt. Tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh, sang Camphuchia, yêu cầu các đồng chí có trách nhiệm, không chỉ của Mặt trận 479 mà cả các mặt trận khác lên báo cáo tình hình. Tôi nghe rất kỹ, hỏi rất kỹ và đi kiểm tra thực tế thì thấy rằng các đồng chí không hề có ác ý hay thủ đoạn gì ở đây, chẳng qua chỉ là do ấu trĩ và nôn nóng nên dẫn đến sai lầm… Không kỷ luật thì không được nhưng kỷ luật nặng quá cũng không nên. Cuối cùng chỉ kỷ luật hai người, mỗi người hạ một sao cho về nước” (Đại Tướng Lê Đức Anh, trang 188).
Hai nhân vật mà ông Lê Đức Anh đề cập là Thiếu tướng Hồ Quang Hóa và Thiếu tướng Tư Thanh, tư lệnh Mặt trận 479, cả hai bị giáng cấp xuống đại tá. Ông Hồ Quang Hóa còn bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương, nơi ông chỉ vừa mới được bầu vào hồi tháng 3-1982.
578 Tháng 10-1985, Tổng Bí thư Lê Duẩn tới Phnom Penh dự Đại hội lần thứ V ĺp… Ta đã tóm cổ nhiều tên chủ vựa cá ác ôn, tịch thu trên mười tấn cá đồng và cá biển; tóm gọn nhiều chủ vựa rau, nhiều lái rau đường dài chở rau Đà Lạt về TP… Chỉ trong hai tuần lễ giáp tết, từ 23-1 đến 6-2-1978, ta đã bắt trên sáu mươi vụ gian thương… Nhân dân và lực lượng kiểm soát kinh tế các quận, huyện, đã xóa bỏ hàng chục vựa giết mổ heo lậu, trong đó có nhiều lò mổ lớn như ở Xa Cảng miền Tây, Bình Thạnh, Gò Vấp… Về mặt hàng chất đốt, ta đã xóa được một số vựa củi ở Quận 11, chặn bắt nhiều xe chở củi lậu ở Quận 10, ngăn chặn được một bước hoạt động của bọn gian thương chất đốt trong dịp tết”.
456 Sài Gòn Giải Phóng, 17-4-1978.
457 70% số đầu máy bị xếp xó vì hư hỏng, phụ tùng thay thế không có; khoảng 1,8 triệu hecta trong số bảy triệu hecta đất bị bỏ hoang. Năm 1976, sản lượng lúa cả nước đạt 11,8 triệu tấn. Năm 1980, sau một “kế hoạch 5 năm”, sản lượng lúa chỉ còn 11,6 triệu tấn. Tưởng sẽ có lương thực dư thừa cho xuất khẩu, năm 1980, Việt Nam phải nhập khẩu lương thực nhiều nhất trong lịch sử: 1.570.000 tấn. Về thủy sản, năm 1980 cũng chỉ đánh bắt được 500 nghìn tấn cá biển, thua xa kế hoạch và thấp hơn sản lượng đánh bắt của năm 1976, 600 nghìn tấn.
458 Phó giám đốc sở kiêm giám đốc công ty Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 1978-1991.
459 Chuyện kể về chị Ba Thi, Ban tuyên giáo tỉnh ủy Cửu Long xuất bản năm 1992.
460 Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 4-1-1978, của Bộ chính trị: “Giá thu mua thóc tính theo tiền miền Bắc trong tình hình hiện nay ở các vùng như sau: Vùng 1: giá mua 0,32 đ/1kg, ở những nơi điều kiện sản xuất có khó khăn hơn là 0,35đ/1kg; Vùng 2: giá mua 0,40 đ/1kg, ở những nơi chưa có công trình thủy lợi là 0,43đ/1kg… Giá mua 1 kg lợn thịt ở các tỉnh miền bắc tương đương với giá mua từ 7-7,5kg thóc. Ở các tỉnh miền Nam: giá 1 kg lợn thịt là 3 đồng; gạo 0,40đ/1kg tiền miền Bắc; thịt lớn xô 2,50đ/1kg tiền miền Bắc” (Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 38-1978, trang 10-11).
461 Theo ông Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam: “Giữa tháng 4-1978, anh Nguyễn Duy Trinh phải thay mặt Ban Bí Thư điện yêu cầu các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hà Sơn Bình, Hà Bắc nỗ lực cung ứng lương thực cho Hà Nội, sao sớm có được một nửa khẩu phần gạo hoặc tối thiểu được khoảng 40% gạo trong khẩu phần lương thực.
Điện nói rõ tháng 3-1978, Thủ đô chỉ được 30% gạo trong khẩu phần lương thực và sang tháng 4-1978 dân Hà Nội sẽ không còn được như tháng 3, trong khi các thực phẩm thông thường như rau, đậu phụ, mỡ, cá cũng không đủ để bán theo tem phiếu” (Đỗ Phượng, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 9-10).
462 Đỗ Phượng, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 9-10.
463 Đinh Thị Vận, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang (?).
464 Tiến sỹ Nguyễn Văn Huy, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 21-22.
465 Thu Hà, Chuyện thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 21-22.
466 Chuyện của cựu trung tá công an Phùng Duy Mận, ngụ tại nhà 123 Hàng Buồm: Thời đó, ông được phân phối đôi dép nhựa Tiền Phong, đi không vừa nhưng cũng không dám bán cho “con phe” sợ mang tiếng. Phải khi vào Huế công tác ông mới đem bán được năm nghìn rưỡi, đủ mua một vé máy bay, giá bao cấp, ra Bắc (Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang?).
467 Chuyện của ông Lê Gia Thụy, nhà số 8, ngách 12/21, ngõ 12, phố Lương Khánh Thiện, chủ nhân của chiếc xe đạp Thống Nhất trưng bày tại Triển lãm Thời Bao cấp diễn ra tại Bảo tàng Dân tộc học.
468 Cho đến năm 1978, mỗi khi đi công tác, ông Trần Thắng, Đoàn 871, Tổng Cục Chính trị, phải làm “giấy ủy quyền” cho vợ là chị Nguyễn Thị Sinh thì chị Sinh mới được dùng cái đài National đứng tên anh. Để có pin, Ban đại diện tiểu khu nơi anh chị cư trú còn phải chứng nhận anh chị là vợ chồng thì Công ty Bách hóa thành phố mới bán pin cho chị Sinh (Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang?).
469 Đầu thập niên 1980 là hiệu trưởng Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh.
470 Nay là đường Phạm Ngọc Thạch.
471 Đỗ Phượng, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 10.
472 La Lâm Gia.
473 Bà Ba Thi Nguyễn Thị Ráo cùng quê Vĩnh Long với ông Võ Văn Kiệt và ông Phạm Hùng, tham gia cách mạng khi còn thiếu niên, có nhiều năm hoạt động dưới quyền ông Nguyễn Văn Linh, và đã từng gặp gỡ ông Lê Duẩn thời kháng Pháp.
Chồng bà Ba Thi, ông Nguyễn Trọng Tuyển, bí thư Tỉnh ủy Gia Định, chết vào tháng 7-1959, trên đường ra cứ đón Trần Bạch Đằng, đặc phái viên Xứ ủy, để tiếp thu Nghị quyết 15. Bà Ba Thi chính là người phụ nữ cười rất tươi trong tấm ảnh chụp bốn người thuộc “Phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” ra thăm miền Bắc và “được gặp Bác Hồ” vào ngày 5-3-1969. Bà từng được gọi là “tư lệnh sân bay Lộc Ninh” do vai trò khá nổi bật của mình trong “ban đón tiếp tù binh” của Mặt trận sau Hiệp định Paris.
474 Nguyễn Thành Thơ, Cuối Đời Nhìn Lại, Bản thảo năm 2004.
475 Chuyện Kể Về Chị Ba Thi, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cửu Long, 1992, trang 117.
476 Theo ông Phạm Văn Hùng thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt.
477 Nghị quyết Trung ương 6 phê phán cung cách xây dựng kế hoạch tập trung quan liêu, thiếu căn cứ thực tế và khoa học; trì trệ bảo thủ trong xây dựng những chính sách cụ thể; nóng vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam; chưa chú ý sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc ở miền Nam; “khuynh hướng tả khuynh”, muốn sớm đưa cá thể vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên quốc doanh; phê phán cách làm coi thị trường là bất hợp pháp.
478 Văn kiện Đại hội II Thành phố Hồ Chí Minh, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành phố.
479 Báo Sài Gòn Giải Phóng, 1-12-1980.
480 Ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 25-CP công nhận điều mà ông Võ Văn Kiệt đã cho phép các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh làm từ cuối năm 1978. Quyết định 25-CP bắt đầu cho phép áp dụng chế độ ba kế hoạch: kế hoạch “chỉ tiêu pháp lệnh” do Trung ương giao, kế hoạch liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm thực hiện kế hoạch thứ nhất, kế hoạch do xí nghiệp tự xây dựng. Như vậy, Quyết định 25-CP có thể hiểu là đã “hợp pháp hóa” sự liên kết giữa các đơn vị kinh doanh, điều mà trước đó có thể bị bỏ tù vì bị coi là “móc ngoặc”.
481 Tuổi Trẻ, 19-4-2009.
482 Đặng Phong, 2009, trang 174.
483 Ngày 6-11-1968, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh về Vĩnh Phú, yêu cầu tổ chức một cuộc họp Tỉnh ủy mở rộng; tại đây, ông đã đọc một bài phát biểu, phê phán Vĩnh Phú: “Trong một thời gian dài đã không thấu suốt tinh thần đấu tranh triệt để giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa hai phương thức lao động tập thể và lao động cá thể ở nông thôn. Cán bộ và quần chúng nông dân hiểu biết vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp một cách nông cạn và đơn giản… nên khi vận dụng vào hoàn cảnh của địa phương đã đi chệch sang phương thức sản xuất cá thể, chuyển một phần tư liệu sản xuất của hợp tác xã cho các hộ xã viên, khôi phục dần cách làm ăn riêng lẽ” (Tạp chí Học Tập tháng 2-1969, trang 19). Ngày 12- 12-1968, Ban Bí thư có Thông tri số 224 về việc “chấn chỉnh ba khoán, kiên quyết sửa sai chống khoán hộ”, lập “ban chỉ đạo” huy động lực lượng cán bộ để truyền đạt thông tri của Trung ương và thảo luận bài “Phê phán của đồng chí Trường Chinh”; kiểm tra lại tất cả việc khoán để chấn chỉnh lại. Bí thư Kim Ngọc, sau đó đã phải làm “tự kiểm điểm” đăng trên Tạp chí Học Tập thể hiện tinh thần “quyết tâm sửa chữa”.
484 Theo ông Nguyễn Văn Tôn: “Sản lượng hoa màu quy ra thóc: năm 1960, đạt 28.520 tấn; năm 1968 lên được 32.782 tấn; năm 1970 xuống còn 25.468 tấn và năm 1975 xuống còn 18.565 tấn” (Đặng Phong, 2009, trang 191).
485 Tại Trung Quốc, năm 1962, sau khi chính sách tập thể hóa “Đại nhảy vọt” (từ 1959-1961) làm chết hàng chục triệu người do đói kém (khoảng 15-17 triệu người theo số liệu chính thức của Trung Quốc; khoảng 45 triệu theo các nhà nghiên cứu nước ngoài, Ezra F. Vogel, trang 41), Trần Vân (Chen Yun), một ủy viên Bộ chính trị đặc trách kinh tế đưa ra đề nghị khoán sản phẩm tới hộ cho nông dân. Đề nghị được Đặng Tiểu Bình ủng hộ nhưng ngay sau đó đã bị Mao Trạch Đông phê phán là “đi theo con đường tư bản”(Ezra F. Vogel, 2011, trang 436). Mao chỉ trích nặng tới mức Trần Vân suy sụp đến nỗi không thể nói trong vài tuần và sau đó phục hồi rất chậm(Ezra F. Vogel, 2011, trang 723).
486 Đặng Phong, 2009, trang 197.
487 Theo đề nghị của xã viên, một vài đội của hợp tác xã Tiến Lập, xã Đoàn Xá, huyện An Thụy, đã “khoán ruộng cho các hộ”, cứ một sào ruộng khoán, xã viên phải nộp lại cho hợp tác xã 70kg thóc, tương đương với sản lượng đạt được khi ruộng vẫn ở trong tay hợp tác. Kết quả, ngay trong vụ mùa thứ nhất, mỗi sào ruộng khoán đã thu được 1,4-1,5 tạ thóc, xã viên kiếm được bảy, tám chục ký thóc một sào. Nhưng, đầu năm 1976, thì chuyện bại lộ, huyện cử cán bộ về thanh tra, Đảng ủy xã Đoàn Xá phải tổ chức kiểm điệm, tự nhận: “Khoán là sai đường lối, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc vận động đưa hợp tác xã lên quy mô toàn xã”.
488 Đặng Phong, 2009, trang 204.
489 Cải cách của Trung Quốc lại thường bắt đầu từ trên xuống, năm 1977 khi Wan Li được điều về Bí thư tỉnh An Huy (Anhui) nạn đói ở đây vẫn còn hoành hành. An Huy là nơi có khoảng từ 3-4 triệu người chết đói vì “Đại nhảy vọt”. Wan Li đã đưa ra “Đề nghị 6 điểm” theo h Hải quân Việt Nam đã điều đến đây các tàu của Lữ đoàn vận tải 125 mang theo một số phân đội của Trung đoàn Công binh 83 và Lữ đoàn 146. Ngày 12-3-1988, tàu HQ-605 được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6 giờ sáng ngày 14-3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu HQ-605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14-3, cắm cờ Việt Nam trên đảo. Chín giờ sáng ngày 13-3, tàu HQ-604 và tàu HQ-505 được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Trong tình thế tàu Trung Quốc áp sát uy hiếp, đêm 13-3, Hải quân Việt Nam đã bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma. Sáng 14-3- 1988, bốn tàu lớn của Trung Quốc tiến gần đảo Gạc Ma, dùng loa nói ra mật danh của tàu HQ 604 và yêu cầu tàu rời đảo.
Một tổ 3 người trên tàu HQ 604 được Trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, Vùng 4 Hải quân Việt Nam, cử lên đảo Gạc Ma bảo vệ Quốc kỳ. Hải quân Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo, bắn chết Thiếu úy Trần Văn Phương và chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, đâm trọng thương Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh. Từ hai chiến hạm của mình, Trung Quốc bắn pháo 100 mm làm chìm tàu HQ-604. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông, Đại úy thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và nhiều sĩ quan, chiến sĩ đã hy sinh cùng tàu HQ-604. Sau khi thấy tàu HQ-604 bị bắn chìm, thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo, tăng tốc cho tàu ủi bãi. Tàu HQ-505 đã kịp trườn được hai phần ba thân lên đảo Co Lin trước khi bị bắn cháy. Cùng ngày, tàu HQ-605 của Hải Quân Việt Nam cũng bị tàu Trung Quốc bắn tại đảo Len Đao, thủy thủ đoàn bơi thoát về đảo Sinh Tồn. Trước đó, không ai nghĩ là Trung Quốc sẽ bắn. Các chiến sỹ Hải quân Việt Nam chỉ được trang bị súng AK nhưng khi xuống đảo chìm, họ để hết vũ khí ở khoang hàng. Trung Quốc đã bắn như vãi đạn vào những người lính đang đứng giữa biển trong tay không tấc sắt. Trong trận chiến không cân sức ấy, Hải quân Việt Nam chịu tổn thất: 3 tàu bị cháy; 64 sĩ quan, chiến sĩ hy sinh; 11 người bị thương. Nhưng, chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao đã được bảo vệ.
Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma.
594 Bộ trưởng Ngoại giao Nhật 1991-1993; Bộ trưởng Tài chánh 1980-1982.
595 Tổng Giám đốc Công ty kinh doanh ngoài nước (OFTC).
596 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
597 Theo ông Trần Quang Cơ: Mãi tới ngày 19-6-1990, Tướng Lê Đức Anh mới nói trong cuộc họp Bộ Chính trị để đánh giá cuộc đàm phán giữa Trần Quang Cơ với Từ Đôn Tín, ông gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh nói với đại sứ Trung Quốc hôm 5-6-1990: gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau. Cuộc gặp còn được viết trong cuốn tự truyện của ông Lê Đức Anh: “Ông (Lê Đức Anh) nói Cục trưởng Cục Đối ngoại quân sự Vũ Xuân Vinh đến mời Đại sứ Trương Đức Duy tới Nhà khách Bộ Quốc phòng ở số 28 Cửa Đông để ông mời cơm. Bữa cơm và cuộc gặp bí mật đó chỉ có hai người, vừa ăn vừa nói chuyện. Ông điểm lại quá trình Trung Quốc giúp Việt Nam… Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lãnh đạo Trung Quốc. Ông mới nhậm chức nhưng cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của Việt Nam. Để lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này… Hôm đó Đại sứ Trương Đức Duy vừa ngạc nhiên vừa vui mừng ra mặt khi nghe ông nói những lời như vậy. Trương nói: Vậy thì tôi phải về báo cáo với lãnh đạo bên tôi” (Khuất Biên Hoà, 2005, trang 220).
598 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
599 Sđd, trang (?).
600 Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
601 Sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, ngày 5-11-1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã đi thăm chính thức Bắc Kinh. Quan hệ Việt - Trung trở lại bình thường như hai quốc gia có quan hệ ngoại giao với nhau. Nhưng, Trung Quốc không còn là một “đồng minh” như đã từng trong thập niên 1950s, 1960s nữa. Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991: ông Nguyễn Văn Linh thôi chức Tổng Bí thư, ông Đỗ Mười thay thế; ông Lê Đức Anh, được xếp vào hàng thứ 2, từ năm 1992 sẽ làm Chủ tịch Nước kiêm Bí thư phụ trách quốc phòng-an ninh - ngoại giao; ông Võ Văn Kiệt làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; nhà lý luận Đào Duy Tùng giữ chức Thường trực Ban bí thư. Ông Nguyễn Cơ Thạch, người mà Trung Quốc đã đặt ra rìa trong các cuộc tiếp xúc song phương, bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Theo ông Trần Quang Cơ: “Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại - dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của Tổng Bí thư Đỗ Mười - quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ trì”. Theo ông Cơ: Ngày 5-8-1991, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: “Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh”. Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương từng đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Đây không chỉ là bỏ qua nguyên tắc ngoại giao, theo ông Trần Quang Cơ, mà còn là vấn đề “danh dự và quốc thể”.
602 Đến năm 1991, lực lượng Khu 203 có 19/62 ủy viên Trung ương, 8/16 ủy viên Bộ Chính trị, trong khi lực lượng tập kết chỉ có 5/62 ủy viên, 1/16 ủy viên Bộ Chính trị. Các chức vụ như tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch quốc hội, bí thư Thành ủy Phnom Penh, bộ trưởng Nội vụ, trưởng Ban Tổ chức Trung ương… đều là người của Khu 203. Phần còn lại trong chính trường Campuchia là lực lượng bắt đầu “tham gia cách mạng” sau ngày 7-1-1979: 24/62 ủy viên Trung ương; 2/16 ủy viên Bộ Chính trị, 40% ghế bộ trưởng, 28,5% số bí thư tỉnh, thành, 57,1% số chủ tịch tỉnh.
603 Mel Sam Ol là người Khmer nhưng gia nhập quân đội Việt Nam từ năm 17 tuổi. Năm 1979, từ một nữ y tá, chị được đưa về Phnom Penh giữ chức cục phó Cục Cán bộ, Bộ Quốc phòng, rồi sau đó được đưa vào Ban Bí thư, giữ chức trưởng Ban Tuyên huấn.
604 Ngày 10-12-1991, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 05/CT-TW, xác định: “Quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân Campuchia theo những nguyên tắc tôn trọng độc lập tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và theo phương thức mới, chủ yếu là quan hệ nội bộ, tránh mọi sơ hở gây hậu quả xấu, không lợi cho quan hệ về mặt Nhà nước và việc thi hành Hiệp định Paris về Campuchia… Trước mắt, Đảng ta chỉ quan hệ với Đảng Nhân dân Campuchia; sẽ xem xét tình hình các đảng và lực lượng khác để quyết định vấn đề quan hệ tùy từng trường hợp. Hai bên duy trì quan hệ giữa các đoàn thể quần chúng, các hội hữu nghị, tổ chức xã hội, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, phù hợp với Hiệp định Paris về Campuchia và tập quán quốc tế. Hai bên ngừng các quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh thành phố của hai nước, quan hệ giữa các tỉnh, thành phố sẽ được giải quyết trong khuôn khổ quan hệ giữa hai Nhà nước”.
605 Ngày 16-11-1991, trong cuộc họp báo đầu tiên tại Hoàng Cung kể từ khi trở về, khi trả lời câu hỏi của phóng viên Tuổi Trẻ về việc Việt Nam đưa quân tới Campuchia, Sihanouk nói: “Vấn đề có hai mặt (deux aspects). Tôi biết ơn Việt Nam đã cứu tôi, gia đình tôi và nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng. Mặt khác, tôi lên án việc thực dân hóa Campuchia của Việt Nam. Thà chết vì tay Pol Pot còn hơn là nước không có độc lập”.
606 Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 2004.
607 Ngày 11-6-1993, Khmer Đỏ tuyên bố không thừa nhận kết quả bầu cử và kêu gọi ám sát sáu nhân vật thuộc Đảng Nhân dân Campuchia. Trong khi, ông Hun Sen tố cáo cuộc bầu cử do UNTAC tổ chức là gian lận. Đảng Nhân dân Campuchia trong thế bị loại ra khỏi chính quyền đã dựng lên “phong trào ly khai đòi tự trị” trong nhiều vùng. Hai đại biểu của Đảng là Sinsong và Chakkrapong từ chối nhận chức đại biểu và đứng ra lãnh đạo phong trào này. Lo sợ đất nước bị chia cắt và nội chiến tái phát, Shihanouk đề nghị công thức chia quyền 45% + 45% + 10%. Funcinpec phải chấp nhận vì thắng lợi của họ là nhờ ảnh hưởng của ông hoàng Sihanouk.
608 Một lần suýt bị các đồng chí của ông ép từ chức. Một lần bị đảo chính hụt bởi Bộ trưởng Nội vụ Sin Song có sự hậu thuẫn của Chea Sim (2-7-1994). Một lần bị đảo chính bởi Funcinpec va lực lượng Khmer Đỏ: cuộc đảo chính được thực hiện ngày 5-7-1997 khi Hun Sen đang ở Vũng Tàu và Ranaridth thì lánh ra nước ngoài; ngày 6-7-1997, một ngày sau khi Hun Sen trở về, ông đập tan cuộc đảo chính; bảy tướng của Funcinpec bị giết.

Truyện Bên thắng cuộc Mấy lời tác giả Lời cám ơn Chương 1 Chương 2a Chương 2trì miễn là có nhiều sản phẩm cho xã hội. Trong thực tế đây là buông lỏng đấu tranh giai cấp, buông lỏng chuyên chính vô sản tạo sơ hở lớn để cho các đối tượng cải tạo có cơ hội phục hồi và tiến công lại trên nhiều mặt”.
505 Nhận xét của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương.
506 Bí thư Thành ủy Hà Nội lúc bấy giờ là ông Lê Văn Lương. Năm 1956, ông Lương bị mất chức ủy viên Bộ Chính trị do những “sai lầm trong việc chỉ đạo chiến dịch chỉnh đốn tổ chức” bắt đầu từ năm 1953. Được ông Lê Duẩn đưa vào Ban Bí thư năm 1960 và đưa trở lại Bộ Chính trị năm 1976.
507 Phóng viên Hà Nội Mới, ông Nguyễn Đức Thà, tả một ngôi nhà bị cải tạo ở Quận Hai Bà Trưng: “Bước vào nhà đã có cảm giác dễ chịu, nền gạch tráng men, nhà dưới, tầng trên đều có công trình vệ sinh riêng, có đèn neon, có gương soi. Các phòng đều có tiện nghị sinh hoạt như tivi, tủ lạnh, máy quay băng, sập gụ, tủ chè, gường modec, quạt trần, quạt bàn, salon gỗ lát, salon đệm mút… Đó là sự vô đạo đức, nỗi bất công không thể kéo dài” (Hà Nội Mới, 17-5-1983). Trên cùng số báo này, phóng viên Quang Cát viết: “Ai cũng phải đặt câu hỏi: Trong lúc đời sống còn rất khó khăn, lương chỉ đủ ăn, cá nhân nào có thể có tiền xây một nếp nhà lớn khang trang như thế? Nhà hai tầng, trang trí cầu kỳ, có bao lơn hoa văn, cánh cửa dưới nhà, trên gác đều sơn màu vàng… Trải qua nhiêu năm chiến tranh đất nước còn nghèo, làm sao có được một cơ ngơi như thế?... Một bà mẹ tóc đã hoa râm cương quyết nói: Phải xử lý chứ! Nó như cái gai trước mắt chúng tôi và nêu gương xấu cho mọi người”. Còn “bạn đọc” Nguyễn Ngọc Hiếu thì cho rằng, tịch thu tài sản bất minh là “nguyện vọng thiết tha của cán bộ và nhân dân lao động”... Chiến dịch Z-30 đã được một “luật gia” có tên là Phạm Ngọc Hải, lấy nguyên tắc của Lenin, “tước đoạt của những kẻ tước đoạt”, để phân tích: “Chính quyền đã thu hồi có chính sách rõ ràng phần tài sản bất minh để chuyển thành cơ sở phúc lợi công cộng. Các vật liệu chiến lược như xi măng, sắt, thép, gỗ… đều do nhà nước quản lý và phân phối, thế mà số hộ bị kiểm tra thường là có đầy đủ các vật liệu ấy để xây dựng nhà cửa có giá trị lớn. Chúng ta cũng hoan nghênh tính chất nhân đạo trong quyết định của chính quyền thành phố. Chúng tôi mong rằng chính quyền Thủ đô tiếp tục cuộc đấu tranh rất được quần chúng đồng tình này. Chế độ chuyên chính vô sản của chúng ta không những phải trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột mà còn phải nghiêm trị cả những bọn gian thương, tham ô, trộm cướp, phá rối trật tự.
Bọn chúng đều là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, hằng ngày đầu độc không khí trong lành của xã hội chúng ta” 508 Đặng Phong, 2009, trang (?).
509 Giáo sư Trần Đình Bút, người dẫn đoàn giáo sư Liên Xô sang giảng dạy ở trường Quản lý Kinh tế Cao cấp Trung ương đến nghiên cứu kinh nghiệm “xé rào” của ông Năm Ve ở Xí nghiệp Đánh cá Côn Đảo-Vũng Tàu đầu thập niên 1980, kể: Sau khi nghe giới thiệu toàn bộ quá trình hình thành và hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp, trưởng đoàn Liên Xô đặt câu hỏi: “Đề nghị các nhà khoa học, các giáo sư Liên Xô và Việt Nam, hãy trả lời gọn trong một câu thôi: Nguyên nhân nào làm xí nghiệp quốc doanh Đánh cá Côn Đảo đã có những thành công đáng khâm phục như vậy?”. Mọi người im lặng, trưởng đoàn nửa đùa nửa thật nói: “Tại vì Năm Ve không học, không biết các nguyên tắc quản lý và hạch toán xã hội chủ nghĩa mà chúng ta vẫn giảng”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là cho đến khi trở thành ủy viên Bộ Chính trị, ông chưa thực sự học qua một trường lớp lý luận chính quy nào.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: bodoilambao
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--