Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA TRAO ĐỔI VỚI NGƯỜI TRUNG QUỐC QUA MẠNG TWITTER

    
FI) Bấp chấp các rào cản của Bắc Kinh trên mạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, hôm qua, 21/05/2010, đã nói chuyện trong hơn một tiếng đồng hồ trên mạng với người Trung Quốc. Ngài đã nhận đươc khoảng 300 câu hỏi, từ thắc mắc về lời tố cáo của Bắc Kinh quy tội Ngài ly khai, cho đến việc thừa kế Ngài trong tương lai. Đây là những câu hỏi mà 12 500 người đã bầu chọn qua Google Moderator, một dịch vụ của Google.
Thông tín viên RFI, Marc Lebeaupin, tường thuật từ Bắc Kinh:
“Đây là một sự kiện chưa từng xẩy ra đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma và khoảng 12.000 người Trung Quốc sử dụng mạng Internet: Đó là trực tiếp trao đổi ý kiến với lãnh đạo tinh thần Tây Tạng sống lưu vong từ 50 năm qua. Sở dĩ sự kiện trên đã có thể diễn ra, đó là nhờ nhà ly khai lưu vong Vương Lực Hùng, một người luôn chỉ trích chính sách Trung Quốc ở Tây Tạng, đã để tài khoản Twitter của mình cho Đức Đạt Lai Lạt Ma sử dụng và nhiều máy chủ khác đã tiếp vận Twitter vốn bị cấm ở Trung Quốc.
Cả một hệ thống như trên đã cho phép lãnh đạo tinh thần Tây Tạng phản bác luận điểm chính thống Trung Quốc. Bị chính quyền Bắc Kinh tố cáo là kẻ ly khai, căn nguyên gây rối giữa Trung Quốc và Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích là Ngài không có lỗi. Theo Ngài, chính chính quyền Trung Quốc đã phạm sai lầm khi tạo điều kiện cho người Hán ồ ạt đến Tây Tạng. ‘’Tại một số vùng, văn hoá và tiếng Tây Tạng ngày càng mai một do việc người Hán đến đó ngày đông đảo hơn…’’
Những người trao đổi với Ngài đã đặt gần 300 câu hỏi, trong đó có câu về người thừa kế của Ngài và tương lai Tây Tạng. Theo Đức Đạt Lai lạt Ma ‘’tất cả đã được chuẩn bị xong xuôi’’. Ngài giải thích là đã cho thiết lập một hế thống dân chủ với một lãnh đạo được chọn một cách hợp pháp để thay thế Ngài lãnh đạo chính phủ lưu vong.
Còn liên quan đến việc hoá sinh của Ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma có vẻ không lo ngại trước việc Trung Quốc chỉ định người kế vị Ngài. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, việc này không quan trọng lắm. Ngài cũng chờ đợi là quân đội Trung Quốc sẽ rút khỏi Tây Tạng. Lãnh đạo tình thần Tây Tạng tỏ ý tin chắc là cuối cùng thì cũng sẽ đạt được thoả thuận với chính quyền Bắc Kinh về quyền tự trị rộng lớn hơn của Tây Tạng”.
(Phần mở đầu đến đây trích theo bàn dịch Việt ngữ của RFI)
Đây là mười câu hỏi quan trọng nhất mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời từ Dharamsala vào ngày 16 tháng Bảy 2010, được phổ biến trên website bằng Hoa ngữ thuộc Văn phòng Đức Đạt Lai Lạt Ma vào ngày 19 tháng Bảy 2010.
CÂU HỎI 1: Nhìn vào tình trạng hiện tại, dường như khó có thể đem đến một giải pháp hữu hảo với nhà cầm quyền Bắc Kinh trong cuộc đời này của Ngài. Một ngày nào Ngài không còn nữa, Ngài không thể kiểm soát đối với những tổ chức trẻ Tây Tạng là những người kiên quyết với ý tưởng độc lập cho Tây Tạng. Có thể họ sẽ tiến hành những hành động khủng bố một cách mãnh liệt hơn sau này hay không? Có những cách nào để ngăn chặn họ hành động như thế hay không?
TRẢ LỜI: Trên tổng thể, tôi tin tưởng rằng ngay cả sau khi tôi vắng bóng, chính quyền lưu vong Tây Tạng sẽ tiếp tục hành động với những tiến triển, đặc biệt trên lĩnh vực học vấn. Một cách quan trọng hơn, có một sự gia tăng số lượn những lạt ma trẻ tuổi khoảng 20 đến 30, những người hiện tại đang theo đuổi việc học hành trong những học viện tôn giáo khác nhau của cộng đồng chúng tôi, họ có thể tiếp nhận vai trò lãnh đạo rộng rãi hơn trong lĩnh vực tâm linh. Về lĩnh vực chính trị, trong hơn một thập niên qua, tôi đã ở trong vị thế bán hưu trí. Tất cả những quyết định chính trị quan trọng được điều hành bởi đội ngũ lãnh đạo dân cử và điều này cũng sẽ tiếp tục như thế trong tương lai. Có những động thái trong cộng đồng chúng tôi như Đại Hội Tuổi Trẻ Tây Tạng, những người phê bình chính sách Trung Đạo của chúng tôi và đòi hỏi một sự độc lập hoàn toàn cho Tây Tạng. Dường như tiếng nói của họ đang lớn mạnh hơn trong những ngày này. Chúng tôi không thể phàn nàn họ về vấn đề này, vì nổ lực liên tiếp của chúng tôi để đem đến một giải pháp lợi ích hổ tương đến vấn đề của Tây Tạng đã thất bại trong việc làm nên bất cứ một kết quả tích cực nào và dưới một tình trạng như thế, quan điểm của họ đang chiếm được một xung lực trong xã hội chúng tôi. Tuy nhiên, rõ ràng rằng 99% đồng bào Tây Tạng hoàn toàn tin tưởng trong con đường bất bạo động mà chúng tôi đã chọn lựa và vì thế quý vị không phải lo lắng về kế sách tăng cường bạo động của họ.
CÂU HỎI 2: Thưa ngài, ngài dự tính giải quyết như thế nào đến vấn đề của những vùng đã hình thành nên một bộ phận của khái niệm ‘Đại Tây Tạng’của ngài nhưng bị sáp nhập vào trong những tỉnh của Trung Hoa như sự phân bố chính quyền hiện tại của những tỉnh này liên quan đến? Có phải chính quyền tự trị ‘Đại Tây Tạng’ của ngài hành động kiểm soát trên những nhóm dân tộc thiểu số đang sống trong những khu vực này chứ? Nếu như thế, làm thế nào ngài bảo đảm nguyện vọng của những nhóm thiểu số này?
TRẢ LỜI: Chúng tôi đã không từng sử dụng thuật ngữ ‘Đại Tây Tạng’. Thật sự nó là một từ ngữ được dùng bởi Mặt Trận Hành Động Thống Nhất của chính quyền Trung Hoa để liên hệ đến sự yêu cầu của chúng tôi. Những gì chúng tôi nói là tất cả những người Tây Tạng nào nói và viết cùng ngôn ngữ Tây Tạng phải có quyền bình đẳng để bảo tồn và phát huy tôn giáo và văn hóa cũng như để hành động cho sự phát triển kinh tế chung của họ. Bây giờ điều này trên nguyên tắc đã được chính quyền Trung Hoa đồng ý. Trong Diễn Đàn Lần Thứ Năm Về Tây Tạng, chính quyền trung ương Trung Hoa đã đề xướng một chính sách thống nhất cho việc quản lý tất cả những người Tây Tạng sống trong Khu Tự Trị và những vùng tự trị Tây Tạng khác trong bốn tỉnh của Trung Hoa. Tổng Lý Wen Jiabao đặc biệt đã từng đề cập điều này trong một báo cáo hoạt động của ông đến Đại Hội Đại Biểu Nhân Dân Toàn Quốc. Điều này, tôi tin rằng, thật sự phù hợp với tình trạng thực tế hiện tại. Trái lại, khi từ ngữ “Xizang” (Tây Tạng) được đề cập, nó như được liên hệ chỉ Khu Tự Trị Tây Tạng mà thôi. Điều này không đúng. Chỉ có hơn hai triệu người Tây Tạng sống trong Khu Tự Trị Tây Tạng và phần còn lại khoảng bốn triệu người Tây Tạng sống trong những vùng phụ cận thuộc bốn tỉnh của Trung Hoa. Như thế, chúng tôi đang nói rằng tất cả những người Tây Tạng này phải được ban cho những quyền tương tự. Thí dụ, tôi không thuộc Khu Tự Trị Tây Tạng; tôi đến từ tỉnh Tso-ngon (Thanh Hải). Giống như thế, quý vị nên quan tâm để nhìn vào lịch sử Tây Tạng, quý vị sẽ thấy rằng nhiều vị Lạt ma / Hóa thân (Lamas/Tulkus) thực chứng cao độ đã đến từ bốn tỉnh này. Ngay cả ngày nay, hầu hết những vị thầy tôn kính giảng dạy trong những tu học viện thuộc tất cả những truyền thống tôn giáo của cộng đồng chúng tôi đã đến từ những tỉnh này; rất ít trong số ấy thuộc Khu Tự Trị Tây Tạng. Do vậy, chúng tôi đang nói rằng một chính sách thống nhất phải được thực hiện cho tất cả những vùng này vì họ chia sẻ cùng tôn giáo và văn hóa.
Nó hoàn toàn là một vấn đề khác biệt nếu chúng tôi đi tìm một sự ly khai hay độc lập mà chúng tôi đã không làm như thế. Chúng tôi chỉ nói một cách đơn giản rằng chúng tôi phải được quyền tự do để bảo tồn tôn giáo, văn hóa và ngôn ngữ của chúng tôi trong một cấu trúc rộng rãi hơn của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Nếu, vào thời điểm mà chúng tôi có được một cơ hội để thảo luận về vấn đề này trong chi tiết, thế thì những người Tây Tạng bên trong Tây Tạng phải lãnh trách nhiệm chính. Một khi họ có thể dự vào những cuộc thảo luận rộng rãi với chính quyền Trung Hoa mà không có bất cứ một sự sợ hãi nào trong tâm tư họ, tôi không nghĩ rằng chúng tôi sẽ đối diện với bất cứ vấn nạn nào trong việc giải quyết vấn đề Tây Tạng.
Trong trường hợp của Khu Tự Trị Tây Tạng, một số ít người Hoa đã sống ở đấy trước những năm 1950, [con số này đã lớn hơn]. Tuy thế, một số lớn người Hoa, đang ở trong vùng Kham và Amdo, đặc biệt trong vùng sinh quán của tôi [Xining], đã sinh sống ở đấy từ những thời gian trước. Người Tây Tạng không nói rằng, và sẽ không bao giờ nói rằng, Tây Tạng phải chiếm cứ riêng cho những người Tây Tạng đến việc ngăn chặn hay loại trừ tất cả dân tộc khác kể cả những người Hán. Điểu quan trọng đấy là vì nó mang tên “Khu Tự Trị Tây Tạng” hay “Vùng Tự Trị Tây Tạng”, những người bản địa của chính những vùng này phải hợp thành đa số - và phần còn lại của những người khác là thiểu số - trong toàn bộ dân số. Đấy là vì chính mục tiêu này mà cái tên đã được đặt nên. Trái lại, nếu con số người Hoa hay những thiểu số khác sống trong những vùng này nhiều hơn người Tây Tạng, thế thì không có cách nào mà cái tên như được đề cập ở trên có thể được định danh như thế. Chúng tôi đang hy vọng rằng chúng tôi có thể thành lập một đại gia đình hữu nghị giữa những người Hoa –Tạng căn cứ trên hơn một nghìn năm của mối liên hệ với nhau. Chúng tôi cũng hy vọng – thậm chí là cầu nguyện – rằng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa phát triển với tất cả những dân tộc trong ấy cùng vui sống bình đẳng trong tinh thần của một đại gia đình tâm linh.
CÂU HỎI 3: Năm vừa qua, một băng tầng truyền hình ở Pháp đã trình chiếu một phim tài liệu mang tên Những Con Quỷ của Đạt Lai Lạt Ma, trong ấy những tu sĩ Tây Tạng tôn thờ Shugden được thấyđã bị tống khứ khỏi những khu định cư Tây Tạng ở Ấn Độ. Tình trạng đến nổi đối với những tu sĩ này là họ không thể đến ngay cả những nơi mua bán và bệnh viện cũng như vào những tu viện. Trong phim tài liệu, ngài cũng được thấy đang đưa ra một mệnh lệnh nghiêm khắc rằng những tu sĩ thực hành phép tu Shugden này phải bị tống xuất ra khỏi những tu viện của họ. Hơn thế nữa, một trong những tu sĩ được phỏng vấn đã nói: ‘Trên một mặt, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về tự do tôn giáo tín ngưỡng và từ bi, nhưng mặt khác trái lại ngài cấm đoán tự do tôn giáo của chúng tôi và đẩy chúng tôi ra khỏi tu viện của chúng tôi.’ Ngài phải nói gì về việc ấy?
TRẢ LỜI: Gyalpo Shugden hiện diện trong thời kỳ của Đức Đạt Lai Lạt Ma vĩ đại thứ năm. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm đã thấy Dorjee Shugden là một linh thức phá vở thệ nguyện quái ác/tai hại sinh ra trong một tình trạng như một kết quả của nguyện vọng/nguyện cầu tiêu cực sai lầm của vị ấy’. Điều này được đề cập trong Lưu Trử Hành Hoạt của Đại Đệ ngũ, Tập K – trong một bản khắc trước đây – in ở Tây Tạng. Vì thế, ‘nguyện vọng sai lầm/cầu nguyện tiêu cực’ là những gì làm cho bản tính tự nhiên của Dorjee Shugden chỉ là một ‘linh thức phá vở thệ nguyện quái ác/tai hại’ và hành vi của vị ấy là để ‘tổn hại Giáo Pháp và nhân loại’. Điều này đã được chính Dolgyal (Shugden) thừa nhận trong tự truyện của ông.
Trước đây, tôi cũng cầu nguyện an dịu Shugden. Sau này khi tôi nghiên cứu những từ ngữ của Đức Đệ ngũ, mà tôi đã xem qua những tài liệu trích dẫn ở trên. Từ phía mình tôi cũng tiến hành một số thẩm tra về điều ấy và thấy rằng không tốt để tôn thờ tâm linh đó. Kết quả, tôi đã từ bỏ sự hiệp thông đó một cách hoàn toàn, nhưng thời gian ấy, tôi không đặt ra bất cứ sự cấm đoán nào trong phạm vi của cộng đồng Tây Tạng, của những ai thực hành điều ấy. Rồi thì vấn đề nổi lên tại Học viện Jangtse của Tu viện Gaden. Qua sự thẩm tra của tôi, điều trở nên rõ ràng đối với tôi rằng rắc rối tại Học viện Jangtse là do bởi việc truyền pháp hiệp thông Gyalpo Shugden. Tôi truyền đạt điều này với những người có liên quan. Khi vấn đề trở nên công cộng hơn sau này, một số người bắt đầu xầm xì rằng tôi đang cố gắng để làm vui lòng với truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng và rằng tôi đã không thật sự đặt ra bất cứ sự cấm đoán nào nhưng chỉ giả vờ làm như thế. Dưới những tình cảnh như thế, tôi đã phải đi đến công khai tuyên bố sự phản đối mạnh mẽ của tôi đối với vấn đề đó, và làm mọi việc rõ ràng về điều đó, sự tôn thờ linh thức quái ác đó.
Không có con cái nào của những thành viên tôn thờ Dolgyal bị đuổi khỏi trường học. Nếu trong những tu viện, những người tôn thờ hay không tôn thờ Dolgyal hội họp với nhau, điều ấy sẽ không tốt lắm với tính thánh thiện của mối quan hệ tâm linh mà điều ấy rất thiết yếu trong những vấn đề tâm linh. Những ai không tôn thờ Dolgyal tất cả đều tiếp nhận những giáo huấn tâm linh của tôi và những tôn thờ điều ấy là những người có một số vấn đề hay không đồng ý với Lạt Ma là những người họ đã tiếp nhận giáo huấn. Do thế, chúng tôi nói rằng chúng tôi cảm thấy rất không thoãi mái để hội họp những thành viên Dolgyal. Ngoài những điều ấy, chúng tôi không làm gì để tống xuất họ ra khỏi những trại tạm cư Tây Tạng. Tôi khuyến cáo tất cả quý vị hãy đến Ấn Độ và thăm những trại tạm cư Tây Tạng ở Nam Ấn để tự mình thấy những gì thật sự ở đấy. Những thành viên Dlogyal đã thành lập tu viện riêng của họ ở đấy và tiếp tục đời sống của họ như bất cứ người Tây Tạng nào khác. Không có ai tạo nên những rắc rối cho họ.
Tóm lại, những gì tôi đang nói là đấy là tự do cá nhân của mỗi người, trong phổ quát, để thực hành hay không bất cứ một tôn giáo nào. Sự lựa chọn thực hành tôn giáo của một người như thế nào cũng là quyền tự do của người ấy. Do thế, bất cứ một bổn tôn nào hay một ác linh người ta có thể thờ phượng, người ta có thể quyết định như sự toại ý của họ. Để nói rằng sự thực hành tâm linh trong vấn đề bàn đến là tai hại và không thuận lợi hay bất cứ điều gì, đấy là nhiệm vụ của tôi. Do vậy, tôi đã nêu bật những tiêu cực. Bây giờ điều ấy tùy vào những người ấy suy nghĩ hay quyết định cho chính họ cho dù họ muốn lắng nghe hay không. Một người bạn người Hoa đã đưa câu hỏi này. Nếu quý vị thích thú với đề tài, đấy thật sự là tự do của quý vị để thờ phượng hay không thờ phượng linh thức ấy. Nhưng nếu quý vị phải tiến hành một sự thẩm tra chính xác trước khi lao vào trong ấy. Thông thường, những hành giả tôn giáo của chúng tôi nói rằng người ta phải phát triển một nhận thức trong sạch về vị thầy của người ấy và thẩm tra xuyên suốt tôn giáo mà họ thực hành. Do thế, tôn giáo phải được đưa ra để thẩm tra. Thí dụ, Long Thọ và những học giả khác của Đại học cổ xưa Na Lan Đà đã từng đưa những thí dụ của họ rằng ngay cả nếu chúng là những từ ngữ của Đức Thế Tôn, chúng phải được đưa ra để thẩm tra để xác định tính chân thật của nó. Quan niệm Phật giáo về ‘Bốn sự tín nhiệm’[ii] nói, trong những thứ khác nhau, người ta phải ‘tín nhiệm trên giáo thuyết hơn là tín nhiệm nơi những cá nhân’. Vì vậy, rất quan trọng cho tất cả quý vị để thẩm tra.
CÂU HỎI 4: Trong sự kiện năm 2008 ở Tây Tạng, tại sao nhiều tu sĩ và cư sĩ Tây Tạng giương tay chống lại những công dân Trung Hoa bình thường? Chúng tôi phải hiểu rằng quý vị chống lại chính quyền Trung Hoa chứ không phải những công dân Trung Hoa bình thường.
TRẢ LỜI: Như điều tôi biết, cuộc phản đối đầu tiên của năm 2008 ở Tây Tạng đã xãy ra vào buổi trưa ngày 10 tháng Ba. Điều này sau đó được nối tiếp bởi nhiều cuộc biểu tình phản kháng vào ngày 11,12, và 13 tháng Ba của năm ấy. Những người an ninh Trung Hoa, ngay từ lúc đầu, đã biết chắc những cuộc biểu tình này, như một kết quả của điều mà họ đã chặn con đường của những tu sĩ đến từ Tu viện Drepung. Vào buổi sáng ngảy 14 tháng Ba, sự việc nổi lửa đốt các cửa hàng, ném đá và phá hoại tài sản đã xãy ra. Một phóng viên ngoại quốc, người đã chứng kiến tận mắt về sự kiện này, đã đến gặp tôi tại Dharamsala và nói với tôi: ‘Ngoại trừ việc ghi hình video toàn bộ sự kiện xãy ra, nhân viên an ninh Trung Hoa tại hiện trường đã không làm gì để ngăn chặn họ lại.’ Sự tuyên truyền của chính quyền Trung Hoa về sự kiện 14 tháng Ba không quan tâm đến sự thật rằng cuộc phản đối đầu tiên xãy ra vào ngày 10 tháng Ba. Hơn thế nữa, theo những báo cáo họ chủ tâm mướn một số người xấu vào ngày 14 tháng Ba để theo đuổi việc bạo loạn, là điều mà họ ghi vào video để sau này sử dụng trong việc đẩy trách nhiệm toàn bộ sự kiện cho người Tây Tạng. Những người Tây Tạng đến từ Tây Tạng sau sự kiện tháng Ba tiết lộ cho chúng tôi rằng “Những người Tây Tạng” mà họ chưa hề thấy vào lúc đầu đã được đưa đến Lhasa tại thời điểm ấy. Họ còn nói xa hơn rằng “những người này đã là những tội phạm chính, những kẻ đã tạo nên sự náo loạn.’ Tôi tin rằng điều bất hạnh này phải nên được điều tra một cách độc lập. Đây là một điều mà tôi muốn nói.
Lính giải phóng nhân dân Trung Quốc với pháp phục Tây Tạng
Một điều khác nữa mà tôi muốn nói là trong những tu viện ở vùng Kham và Amdo, có một tập tục cổ xưa về việc giữ gìn những cây gươm, cây giáo, và súng trường cũ trong điện thờ của những bổn tôn hộ pháp. Tôi được cho biết rằng những vũ khí này được đem ra một cách bắt buộc nhằm để tố cáo những tu viện sử dụng vũ khí tạo nên bạo động trong xứ. Chắc chắn trong một cách nào đấy rằng một số ít người trong sự giận dữ của họ có thể vô tình làm nên một số phiền toái đến những người Hoa trong thời gian ấy. Trong môt sự kiện thật sự xãy ra như thế, thế thì tôi sẳn sàng nhân danh cho họ để xin lỗi. Rõ ràng thật tế rằng một số người Tây Tạng hung hãn có thể làm nên tình trạng như vậy bởi vì vào lúc ấy, chính quyền Trung Hoa đã cố gắng tối đa để tạo nên ấn tượng sai lầm về những người Tây Tạng thể hiện sự chống đối người Hoa. Đại đa só người Tây Tạng sẽ không bao giờ làm những việc như thế.
Người Tây Tạng không thể bị đổ trách nhiệm cho việc bộc lộ sự bất bình của họ phản đối chính sách của chính quyền Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa đã giáng những đòn rất khắc nghiệt lên những người Tây Tạng chỉ vì lý do rằng họ đã trung thành với tôn giáo và văn hóa cũng như lãnh tụ tâm linh của họ. Điều này tạo nên một cảm giác tổn thương trong tâm thức của họ. Đấy cũng là lý do tại sao người Tây Tạng chỉ trích mạnh mẽ những chính sách của chính quyền Bắc Kinh. Tuy thế, quý vị không nên xem đây như một hình thức mà người Tây Tạng thù ghét người Hoa. Nếu như những gì tôi đã nghe là sự thực, thì những người Tây Tạng thăm viếng những phố thị Trung Hoa dường như đang đối diện với nhiều rắc rối sau sự kiện tháng Ba, 2008. Đây là bởi vì những chủ nhân người Hoa ở những khách sạn, cửa hàng, và nhà hàng trong những nơi ấy tỏ vẻ lạnh nhạt đến những khách hàng người Tạng. Hơn thế nữa, chúng tôi đã từng nghe rằng một thành viên Tây Tạng đại biểu của chính quyền Trung Hoa bị giữ lại ở phi trường để thẩm vấn. Tất cả những diễn tiến này là một nguyên nhân làm cho người Tây Tạng thất vọng.
CÂU HỎI 5: Có phải việc ‘giải phóng Tây Tạng’ là sự lừa dối ngay từ lúc đầu hay nó đã thay đổi sau này?
TRẢ LỜI: Thật khó để nói. Khi Quân Giải Phóng Nhân Dân (PLA) đến Chamdo, họ chiến đấu với quân đội Tây Tạng và hạ sát khoảng bảy đến tám nghìn chiến binh Tây Tạng. Khenchung Thupten Dhonyoe, là một thành viên của Tư lệnh miền Đông Tây Tạng lúc bấy giờ, nói rằng Wang Qiming, vị tướng PLA (người ‘giải phóng’ Tây Tạng) nói cùng ông với đôi mắt đẩm lệ: ‘Chúng ta, là anh em dân tộc với nhau, đã chém giết nhau.’ Tôi cảm thấy rằng một số người trong họ có thể là chân thật. Giống như thế, khi con đường từ Kham đến Trung tâm Tây Tạng và Amdo đến Trung tâm Tây Tạng được xây dựng, một số người đã dùng thân thể của họ để ngăn dòng nước khi lủ tràn tới. Họ đã làm việc gian khổ. Những điều ấy, tôi nghĩ là chân thành. Đối những vấn đề khác, tôi không thể nói những khuynh hướng của họ là thế nào từ lúc khởi đầu. Việc tốt nhất sẽ là để cho những nhà sử học nghiên cứu phân tích toàn bộ những văn kiện của chính quyền, là điều sẽ làm mọi việc rõ ràng. Đấy là điều quan trọng nhất.
Trong hình thức qua những chính sách, trong năm 1954, tôi đã đến Trung Hoa và ở Bắc Kinh khoảng năm đến sáu tháng. Vào lúc ấy, tôi đã gặp hầu hết những lĩnh tụ Trung Hoa, kể cả Mao Trạch Đông, người mà tôi đã gặp nhiều lần. Tôi đặc biệt đã đến thăm nhiều tỉnh Trung Hoa, trong thời gian ấy tôi đã gặp nhiều lĩnh đạo Trung Hoa, những người là đảng viên Cộng Đảng và có một cái nhìn cách mạng thật sự và đang làm việc một cách chân thành phục vụ giai cấp lao động và quốc gia. Tôi đã thấy nhiều người không có tham vọng vì cho cá nhân và đang lao động cho lợi ích phổ thông. Họ gây ấn tượng đối với tôi. Mao, thí dụ, đã hứa hẹn nhiều điều đối với tôi. Tuy thế, từ 1956-57 về sau, tôi cảm thấy những thứ đó đã chuyển sang hướng cực tả.
CÂU HỎI 6: Nếu trong tương lai, Trung Hoa có một hệ thống dân chủ chân thành, Tây Tạng sẽ có mối quan hệ nào với chính quyền ấy? Ý kiến của ngài là thế nào?
TRẢ LỜI: Hiện tại, nhiều vấn đề không ai muốn cả, cho dù nó là những quan hệ đối ngoại hay là những vấn đề nội tình của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, tôi nghĩ rằng, chúng được tạo nên bởi sự nghi ngờ và thiếu sự tin cậy hổ tương. Trong 51 năm qua, tôi đã sống bên ngoài Tây Tạng. Từ nhiều người bạn của tôi ở Hoa Kỳ, Âu châu, Nhật Bản và Ấn Độ, tôi biết rằng Trung Hoa có lòng khao khát đến việc xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp. Nhưng sự thất bại của họ trong việc kiến tạo những mối quan hệ chân thành là qua việc thiếu lòng tin cậy hổ tương. Điều này trái lại là kết quả của việc thiếu một sự chuyển hóa trong Trung Hoa mà mặc dù bên ngoài họ có kỳ vọng để có như thế. Vì lý do đó nhiều vấn đề đã sinh khởi. Cho dù đấy là vấn đề Tây Tạng hay Tân Cương, có một sự khác biệt khổng lồ một cách rõ ràng giữa ấn tượng bên ngoài mà Trung Hoa đem đến và những cảm nhận thật sự mà những người trong những vùng này che đậy. Do thế, khi thời gian đã điểm, khi Trung Hoa có những chính sách rõ ràng, chân thật, và chính đáng, nhiều vấn đề tự nhiên sẽ được giải quyết.
Về vấn đề Tây Tạng, nếu có một chuyển biến và sự chân thành về phái chính quyền Trung Hoa, về phần chúng tôi là không tìm kiếm một sự ly khai. Chúng tôi có một lịch sử dài, nhưng tôi không đang nghĩ về điều ấy. Nếu chúng tôi nghĩ về tương lai, một cách cụ thể Tây Tạng ở đằng sau những xứ khác và vì thế nếu chúng tôi ở trong CHND Trung Hoa, sẽ lợi ích cho sự phát triển của Tây Tạng. Do bởi điều này chúng tôi không tìm kiếm một sự ly khai. Điều quan trọng nhất là Tây Tạng có một nền văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo đặc thù. Trong những truyền thống Phật giáo, nhiều học trên thế giới hiện nay nói rằng Phật giáo Tây Tạng là bao la và sâu sắc nhất. Ngôn ngữ Tây Tạng phương tiện tốt nhất để phát biểu/tuyên bố cho triết lý thậm thâm và bao la này. Sự chuyển dịch – cả trong những dạng thức của diễn dịch văn tự (nguyên văn) và diễn dịch giảng nghĩa (ngữ cảnh) – của những tài liệu từ Phạn ngữ là bảo đảm nhất hạng. Do thế, nếu chúng ta có thẻ duy trì tôn giáo và văn hóa này, nó cũng sẽ lợi ích cho toàn thể nền văn hóa của CHND Trung Hoa. Nói một cách tổng quát, Trung Hoa cũng là một nước Phật giáo. Như con số Phật tử Trung Hoa ngày càng tăng lên hiện nay, chúng tôi chắc chắn rằng có thể cống hiến trong lĩnh vực này. Tôi nghĩ đây là một lợi ích hổ tương.
CÂU HỎI 7: Nếu Tây Tạng đạt được một sự tự trị đầy đủ ý nghĩa như yêu cầu của chính phủ lưu vong hay giành được độc lập, ngài có dự định để chuyển tiếp chính quyền sang cơ chế dân chủ không? Tôn giáo và chính trị được tách riêng rẻ như thế nào?
TRẢ LỜI: Tôi không nghĩ đây là một câu hỏi cần một câu trả lời đặc biệt. Nếu quý vị thích quan tâm đến, quý vị có thể đến Ấn Độ. Rồi thì quý vị sẽ thật sự thấy chúng tôi thực hiện dân chủ như thế nào trong thời gian chúng tôi lưu vong, chúng tôi đã thiết lập một hệ thống chính trị như thế nào trong 51 năm qua và những chương trình tương lai của chúng tôi. Đối với cá nhân tôi, từ năm 1969, tôi đã từng nói rằng người dân phải quyết định thể chế Đạt Lai Lạt Ma nên tiếp tục hay không. Tôi không có gì quan ngại. Điều quan trọng nhất là chúng tôi cần bảo tồn và duy trì tôn giáo và văn hóa đặc thù của Tây Tạng. Trong những dạng thức phát triển của Tây Tạng, điều quan trọng nhất là không làm nguy hại đến môi trường thiên nhiên. Môi trường Tây Tạng là mõng manh và dễ bị tổn thương. Do bởi độ cao và gió khô, nên có thể nói rằng một khi thiệt hại xãy ra, sẽ cần một thời gian dài để khôi phục sự cân bằng sinh thái. Đây là một vấn đề đặc biệt mà quý vị phải phải quan tâm đến thật nhiều. Những dòng sông băng trên Cao nguyên Tây Tạng là nguồn cung cấp chính cho nhiều dòng sông lớn ở Á châu. Đấy là tại sao chúng ta phải chăm sóc đặc biệt đến chúng.
CÂU HỎI 8: Ngài nghĩ điều gì sẽ xãy ra đến sự thống nhất của Tây Tạng một khi ngài không còn trên thế gian này nữa? Uy đức của người kế nhiệm sẽ có thể điều khiển dân tộc Tây Tạng tiếp tục duy trì tính chất bất bạo động và hòa bình trong sự đấu tranh của ngài không?
TRẢ LỜI: Sẽ không có điều gì khác biệt. Trong hơn 30 năm qua tôi đã và đang nói rằng những lãnh đạo tôn giáo và chính trị Tây Tạng phải lãnh trách nhiệm giống như tôi không còn với họ nữa. Họ đã và đang làm điều ấy và như thế họ thu được kinh nghiệm như thế nào. Có một đội ngũ lãnh đạo sau mỗi năm năm. Sẽ có một lãnh đạo mới trong năm tới qua một cuộc bầu cử trực tiếp của người dân. Trong lĩnh vực tôn giáo, có những thượng thủ của mỗi trường phái tiếp lãnh trách nhiệm. Không có điều gì khác biệt cho dù tôi vẫn còn với họ hay không.
CÂU HỎI 9: Ngài nói rằng nên có một hệ thống dân chủ cho Tây Tạng. Tuy nhiên, khi ngài và những vị tiền nhiệm của ngài trị vì Tây Tạng có phải tất cả các vị đã cầm quyền một cách dân chủ? Nếu không, điều gì chắc rằng ngài phải cai trị Tây Tạng dân chủ hơn những người Cộng sản Trung Hoa?
TRẢ LỜI: Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất đến thứ tư không tham dự vào chính trị. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm đã trở thành một vị lãnh đạo thế quyền lẫn tôn giáo của Tây Tạng. Vào lúc ấy không có điều gì gọi là hệ thống dân chủ trong những lân bang của Tây Tạng như Trung Hoa, Ấn Độ, và Nga. Tất cả là những quốc gia chính yếu là những xã hội phong kiến. Tuy thế, Tây Tạng có một truyền thống Phật giáo mạnh mẽ và nguyên tắc từ bi phát triển cho tất cả mọi chúng sinh. Đấy là tại sao, trong năm 1959, khi những ‘địa chủ’ bị đặt dưới những buổi đấu tố tiếp theo những ‘Cải cách Dân chủ’, có nhiều ‘nông nô’ đã tiến lên để cứu mạng cho những ‘địa chủ’ của họ. Nhiều ‘địa chủ’ cũng có thể trốn thoát lưu vong ở Ấn Độ với sự giúp đở của ‘những nông nô’ của họ. Do vậy, ‘những nông nô’ có thể là một hiện tượng thông thường trong tất cả những quốc gia phong kiến, nhưng sự cư sử của những nông nô Tây Tạng là khác.
Vào cuối năm 1955, ‘Cải cách Dân chủ’ đã được tiến hành ở Tây Tạng bắt đầu từ Tứ Xuyên. Như những nơi khác thuộc Trung Hoa, ‘Cải cách Dân chủ’ đã được triển khai ở Tây Tạng, mà nó không hợp với tình cảnh của Tây Tạng. Những thứ như vậy đã xãy ra. Điều quan trọng là phải điều tra những việc này. Quý vị không phải tin tường những điều này bởi vì tôi nói chúng. Nếu quý vị có tự do sau này để thẩm tra điều quan trọng là làm như thế một cách thấu đáo trọn vẹn.
Trong những thời gian sau này trong cuộc đời của ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba đã nghĩ về việc giới thiệu một hệ thống dân chủ cho Tây Tạng, nhưng ngài đã không thể tiến hành. Năm 1952, khi tôi ở Lhasa, chúng tôi đã hình thành một Hội đồng Cải cách để làm một số thay dổi đến hệ thống thuế vụ và cho vay của chúng tôi. Nhưng chúng tôi chỉ có thể hành động một số điều. Vì tôi đã nghĩ về việc tiến hành cải cách từ lúc tôi ở Tây Tạng, nên chúng tôi đã thiết lập một hệ thống dân chủ ngay sau khi chúng tôi phải lưu vong ở Ấn Độ. Tôi không có khuynh hướng muốn nắm giữ quyền hành khi những người Tây Tạng ở bên trong và bên ngoài được thống nhất lại. Tôi đã làm rõ điều này trong năm 1992, khi sẽ có một sự tự trị hay một mức độ xem như tự do nào đấy cho Tây Tạng, chúng tôi sẽ trở về. Tuy thế, tôi đã nói, từ lúc ấy về sau tôi sẽ không đảm trách bất cứ một trách nhiệm nào và sẽ trao tất cả những nhiệm vụ lịch sử của tôi cho chính quyền địa phương. Ngay cả bây giờ, đấy là suy nghĩ của tôi và tôi sẽ không bao giờ lãnh lấy bất cứ một vai trò chính trị nào.
CÂU HỎI 10: Quan điềm cùa ngài về những người Hoa định cư ở Tây Tạng và thế hệ thứ hai của những người Hoa sống ở đấy là thế nào? Có thể rằng ‘Mức độ tự trị cao hơn’ có thể chấm dứt sự quan trọng của họ, mà đấy là sự quan tâm của những người Hoa bên trong Tây Tạng, những người chống lại ngài và chính quyền lưu vong Tây Tạng.
TRẢ LỜI: Tây Tạng là một khu tự trị. Trong khu vực ấy, người Tây Tạng không thể trở thành một nhóm thiểu số. Tuy nhiên, nói cách khác, chúng tôi sẽ hoan nghênh nhiều anh chị em người Hoa muốn ở lại đấy. Một cách đặc biệt, chúng tôi sẽ cảm kích những anh chị em người Hoa nào thích thú với tôn giáo và văn hóa Tây Tạng. Thông thường tôi nói rằng anh chị em người Hoa có thể nấu cho chúng tôi những món ăn ngon và những người Tây Tạng chúng tôi có thể cung ứng thức ăn tinh thần cho họ qua Phật giáo. Đấy là tại sao một cách chắc chắn không có lý do gì để lo lắng. Rồi thì có những người Hoa nào đấy khinh thường những người Tây Tạng bằng việc xem Phật giáo Tây Tạng như xấu xa và người Tây Tạng là nhớp nhúa. Đối với những người ấy, không có lý do gì để sống trong một nơi ô trược như vậy; tốt hơn là để họ trở lại những nơi sạch sẽ hơn. Những sự thực tập của người Tây Tạng chủ yếu là Phật giáo và trong Đạo Phật hoàn toàn không liên hệ đến một sự phân biệt chủng tộc nào cả. Trong những thời kỳ trước đây, nhiều vị viện chủ - trụ trì trong những tụ viện là người Mongolia và cũng có những người Hoa nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Chúng ta khác chủng tộc nhưng không có sự phân biệt nào cả. Giống như thế, nếu có những học giả tôn giáo trong những người Hoa, họ cũng có thể trở thành viện chủ- trụ trì và Lạt ma ở Tây Tạng. Không có điều gì khác biệt cả.
Phụ giải: Đây là những gì được chuyển dịch từ Tạng ngữ. Nếu có bất cứ sự sai biệt nào giữa bản này và Tạng bản, xin hãy vui lòng xem lại bản chính bằng tiếng Tây Tạng như đáng tin cậy và cuối cùng.
Tuệ Uyển chuyển ngữ -10/08/2010
http://www.dalailama.com/news/post/568-his-holiness-the-dalai-lama-tweets-with-the-chinese-people

Xem Tiếp: ----