Chương 4
Sự liên hệ của các ngoại cường trong chiến tranh Việt Nam

    
guyên nhân sâu xa đưa tới cuộc chiến tranh Việt Nam hiện nay là sự cấu kết, tranh giành ảnh hưởng của các ngoại cường trên mảnh đất nhỏ bé này. Chính sự cấu kết, sự tranh giành ảnh hưởng đó một chiến tranh Việt Nam kéo dài đã hơn một phần tư thế kỷ, và chưa biết đến ngày nào mới thực sự chấm dứt.
Thật vậy, sau chiến tranh thế giới II, nhiều quốc gia Đông Âu, Trung Đông, Tiểu Á, Đông Nam Á vẫn tiếp tục có chiến tranh trong phạm vi nhỏ hẹp, nhưng những cuộc chiến tranh đó sớm chấm dứt, chỉ riêng Việt Nam là triền miên.
Sở dĩ Việt Nam chịu số phận hẩm hiu đó, như trên vừa trình bày, tại Việt Nam nằm vào một vị trí chiến lược quan trọng trong vùng Đông Nam Á; Là nơi mà Hoa Kỳ gọi là tiền đồn bảo vệ Thế giới Tự do; là nơi mà Trung Cộng - Nga Sô coi như đất dụng võ thuận lợi để vừa thử sức Hoa Kỳ, vừa vật lộn nhau vì tranh chấp quyền lợi và ngôi thứ giữa hai nước đàn anh cùng chung một chủ nghĩa.
Ngoài Hoa Kỳ, Trung Cộng, Nga Sô; còn một quốc gia khác đáng kể là nước Pháp. Chính Pháp là kể châm ngòi Chiến tranh Việt Nam trước tiên để ngọn lửa tai ác cứ bùng lên mãi.
Pháp quốc, như chúng ta biết, là một nước theo chủ nghĩa tư bản châu Âu, và khi chủ nghĩa này phát triển mạnh thì tiến đến quá trình một nước thực dân đế quốc, cất quân xâm chiếm nước ngoài để giành thị trường và sau đó, biến thành thuộc địa.
Không phải mãi tới cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, tư bản Pháp mới chú ý tới thị trường Việt Nam. Trên đường đi tìm thuộc địa, ngay từ 1680, thực dân Pháp đã dòm ngó đến Việt Nam, và qua năm 1696, họ đã lăm le xâm chiếm đảo Côn Sơn, vì đảo này năm trên đường giao thông từ châu Âu qua lục địa rộng lớnTrung Hoa.
Lý do cấp bách khiến Pháp phải đưa tầu chiến sang gây hấn rồi chiếm lấy Việt Nam là vì giữa thế kỷ thứ 18, nhiều nước tư bản châu Âu khác cũng trên đường sang châu Á tìm thuộc địa như Pháp, trong số đó có tư bản Anh là nguy hiểm nhất.
Năm 1749, tên tư bản Pháp Pierre Poivre đã tới Việt Nam xin yết kiến Chúa Nguyễn Võ Vương, và khi về Pháp, trình lên vua Pháp Louis thứ 15 là nên mau mau đưa quân sang chiếm giữ lấy mảnh đất mầu mỡ nhưng còn lạc hậu này, nếu chậm trễ, e sợ người Anh phỗng tay trên.
Năm 1784, Pháp có cơ hội bằng vàng, ngàn năm một thuở khi Chúa Nguyễn Ánh đánh nhau với quân Tây Sơn rồi nhờ Đức Cha Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp ký hiệp ước Versaille, rồi được vua Louis 16 của nước Pháp giúp 4 chiếc tầu chiến cùng 1.750 lính.
Với hiệp ước Versaille năm 1784, Chúa Nguyễn Ánh phải hứa nhượng cho Pháp hai cảng Đà Nẵng và đảo Côn Sơn; ngoài ra, Pháp còn được độc quyền buôn bán trên đất Việt Nam, và khi nào Pháp lâm chiên tranh, cần lương thực, lính tráng thì Chúa Nguyễn Ánh phải giúp sức.
Vì hiệp ước này mà sau khi Chúa Nguyễn Ánh dẹp Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên ngôi lấy tên là Gia Long, vua Louis 18 đòi thi hành các điều khoản đã được ký kết.
Việc nước Pháp bắt vua Việt Nam thi hành hiệp ước Versaille là một trong những nguyên nhân khiến Pháp cất quân sang đánh chiếm luôn xứ này, rồi đặt nền đô hô lâu dài, ngót 100 năm.
Đời Gia Long, tình hình giao thương giữa Pháp và Việt Nam chưa căng thẳng lắm; nhưng qua triều Minh Mạng - Tự Đức thì mọi chuyện đều bế tắc, vì hai ông vua này cứng đầu, chẳng những không thi hành hiệp ước mà còn bắt bớ các giáo sĩ người Pháp và cấm cách đạo Gia-Tô.
Lịch sử Việt Nam ghi lại rằng năm 1821, vua Louis 18 của nước Pháp đòi vua Minh Mạng Việt Nam phải mở cửa biển cho tầu Pháp vào buôn bán. Qua đến năm 1847, Pháp lấy cớ vua Thiệu Trị cấm đạo, sát hại các giáo sĩ người Pháp, nên họ cho tầu chiến bắn phá cửa Đà Nẵng lần thứ nhất, rồi tới năm 1856, bắn phá lần thứ hai.
Năm 1858, quân Pháp đổ bộ Đà Nẵng; năm 1859, quân Pháp đặt chân lên đất Sài gòn, và năm 1861 thì chiếm Côn Sơn.
Năm 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ; năm 1867 chiếm nốt 3 tỉnh còn lại ở miền Tây, và từ năm 1873 thì hạ thành Hà Nội. Ngày 25-8-1883, triều đình Huế đầu hàng, ký hòa ước nhận quyền bảo hộ của Pháp.
Chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp trên đất Việt Nam như thế nào tưởng khỏi cần nhắc lại, vì ai ai cũng đã thừa hiểu, chỉ cần ghi lại đây vài con số để thấy nước Việt Nam nói riêng, và toàn cõi Đông Dương nói chung, đã làm giàu cho nước Pháp như thế nào:
Đầu tư của Pháp từ 1888 đến 1918
Công nghiệp và khai thác mỏ: 249 triệu Francs
- Giao thông vận tải: 128 triệu Francs
- Thương nghiệp: 75 triệu Francs
- Nông nghiệp: 40 triệu Francs
Từ năm 1924 đến 1930, con số này cao gấp 30 lần, chia ra như sau
- Nông nghiệp: 1.272,6 triệu Francs
- Khai thác mỏ: 653,7 triệu Francs
- Công nghiệp: 606,2 triệu Francs
- Giao thông vận tải: 174,2 triệu Francs
- Thương nghiệp: 363,6 triệu Francs
- Ngân hàng: 739,1 triệu Francs
Mấy con số trên đây tuy sơ lược nhưng cũng thấy mỗi năm tư bản Pháp càng bỏ thêm vốn vào công cuộc đầu tư ở Việt Nam, và thu về cho mẫu quốc những món lợi kếch xù không kể xiết.
Trong trận chiến tranh thế giới II, mức thu lợi của Pháp ở Đông Dương bị tụt xuống, nhưng vẫn dư tiền cung phụng cho mẫu quốc đầy đủ, và những số tiền cung phụng đó, dân Việt Nam phải nai lưng ra gánh chịu.
Trong các ngành đầu tư của Pháp ở Việt Nam, chỉ có ngành nông nghiệp, khai thác hầm mỏ và trồng cao su là thu lợi lớn nhất. Nhờ 3 ngành này mà số xuất cảng hàng năm lên cao.
Về nông nghiệp, chẳng hạn năm 1913, tổng số ruộng đất mà Pháp khai khẩn ở Việt Nam chỉ mới 470 ngàn mẫu, vậy mà tới 1930, con số này đã tăng lên 760 ngàn mẫu, tức chiếm khoảng một phần sáu (1/6) tổng số ruộng đất toàn cõi Đông Dương.
Về cao su, năm 1917, diện tich trồng là 17 ngàn mẫu; nhưng tới năm 1931 thì tăng lên 100 ngàn mẫu với số vốn đầu tư 400,7 triệu Francs.
Về than đá, năm 1935, Pháp khai thác được khoảng 1.775.000 tấn, nhưng tới năm 1939 thì tăng lên 2.615.000 tấn v.v.
Nhờ mức khai thác bất cứ ngành gì cũng tăng lên nên số hàng hóa xuất cảng cũng tăng rất nhanh, chẳng hạn năm 1934 toàn cõi Đông Dương xuất cảng 3.437.000 tấn hàng trị giá 106 triệu đồng tin năm 1939, nó đã tăng lên 4.702.000 tấn, trị giá 350 triệu đồng.
Những con số của tài liệu Cách mạng Việt Nam ghi trên đây cho thấy Pháp càng đầu tư, càng khai thác sức mạnh ở Việt Nam nhiều chừng nào thì người dân Việt Nam càng bị bóc lột tận cùng chừng ấy, và cho thấy quyền lợi của tư bản Pháp ở Việt Nam lớn lao như thế nào!
Đi cai trị xứ người là bóc lột, đấy là một nguyên tắc bất di bất dịch của thực dân, dù là thực dân mới gay cũ. Chính viên Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraut trong “Grandeur et Servitude Coloniales” cũng đã từng nhận định rằng việc khai thác thuộc địa là một hình thức bóc lột, vụ lợi bằng bạo lực. Khi những dân tộc đi tìm thuộc địa ở những lục địa xa xôi và chiếm đoạt những xứ đó thì trước hết họ chỉ nghĩ đến quyền lợi của bản thân họ, chỉ hoạt động cho sự thịnh vượng hùng cường của nước họ. Họ thèm khát những thị trường buôn bán và những chỗ dựa chính trị. Như vậy, việc khai thác thuộc địa chỉ là một hình thức kinh doanh, phục vụ một chiều cho lợi ích cá nhân của kẻ mạnh đối với kẻ yếu.
Đoạn báo cáo sau đây của viên Chánh thanh tra các sở mỏ Desrousscaux trình lên Toàn quyền Đông Dương càng chứng minh hơn những nhận định vừa nêu của Albert Sarraut: “Một tâm lý bất di bất dịch là dân nhà quê Việt Nam chỉ khi nào bị đói rã người, họ mới chịu rời quê hương để đi xa kiếm ăn. Vậy muốn tránh tình trạng khan hiếm nhân công ở các hầm mỏ và các đồn điên cao su thì phải bần cùng hóa nông thôn, ha giá các loại sản phẩm nông nghiệp”.
Bần cùng hóa Việt Nam và hạ giá các loại sản phẩm nông nghiệp, chủ đích là dồn người dân nghèo đói Việt Nam vào bước đường cùng, để rồi không biết lấy gì ăn qua ngày, rốt cuộc phải đi làm phu cho thực dân Pháp.
Nhưng đời sống phu phen trong các hầm mỏ, và nhất là trong các đồn điền cao su có được bảo đảm không? Vậy, chúng ta hãy nghe Henri de Montpezat trong một bài đăng trên trên tờ Volonté Indochinoises ngày 10-8-1927. Bài này, Henri de Montpezat tả cảnh thực dân Pháp mộ phu ở Bắc Việt giống như cảnh buôn bán người nô lệ thời xưa - mà còn bị còn bì ổi hơn thế nữa - vì mỗi người phu chỉ được mua với giá 5 đồng (5 đồng hồi 1927 trị giá bằng 5 ngàn bây giờ), và sau đó bị bóc lọt cùng cực đến còn da bọc xương, đa số bị chết thảm thương.
Về số tử của các công nhân người Việt tại những đồn điền cao su do Pháp khai thác, theo báo cáo của một Nghị sĩ trong phiên họp ngày 3-12-1928 tại Hạ viện Pháp thì riêng ở công ty đồn điền cao su Terra Ronger (đồn điền đất đỏ), trong khoảng 11 tháng, thấy khai tử 123 người với tổng số 659 công nhân. Tại công ty Cây Nhiệt đới năm 1927, trong số một nghìn công nhân th&igrav!!!13861_7.htm!!! Đã xem 50525 lần.

Đánh máy: casau, MHN
Hiệu đính: casau
Nguồn: Nhà xuát bản : Trí Dũng
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 14 tháng 7 năm 2012