Chương 10

    
ù Hoa Kỳ là một siêu cường quốc, quân đội cờ giới của họ dư phương tiện, nhưng vẫn phải tuân theo nguyên tắc thông thường của binh pháp.
Binh pháp tự cổ chí kim đều dậy rằng tiến quân thì dễ, nhưng rút lui lại rất khó, vì địch có thể lợi dụng trong lúc triệt binh để tấn công.
Việc Hoa Kỳ đổ hơn nửa triệu quân vào miền Nam Việt Nam chẳng có gì khó khăn nguy hiểm, nhưng chỉ triệt thoái vài chục ngàn thôi, đã thấy tạo nên một khoảng trống trong công cuộc phòng thủ. Muốn khuất lập khoảng trống này, việc mở các cuộc hành quân sang Kampuchea là điều tối cần thiết.
Trước kia, hồi Thái tử Sihanouk còn là Quốc trưởng Kampuchea, các cuộc hành quân của quân đội Việt Nam Cộng Hòa dọc biên giới gặp phải rất nhiều khó khăn.
Vì Kampuchea không công nhận đường ranh biên giới cũ từ hồi Pháp thuộc, nên thường tố cáo sự vi phạm biên giới của các cuộc hành quân đó
Lợi dụng sự tranh chấp này, bộ đội Cộng sản Bắc Việt thường từ bên kia lãnh thổ Kampuchea tràn qua tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và khi bị phản công thì họ tức tốc rút lui. Những vụ tấn công này có tính cách khiêu khích nhiều hơn, và có ý làm cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa đuổi theo để Kampuchea tố vi phạm biên giới, hầu tạo thêm tình trạng căng thẳng giữa Nam Việt Nam với Kampuchea.
Tình trạng biên hiới thực sự chấm dứt sau khi Quốc trưởng Sihanouk bị lật đổ, và kể từ ngày đó Bắc Việt mở nhiều cuộc tấn công lớn vào quân đội Khmer trên khắp lãnh thổ, khiến tân Chính phủ Kampuchea do Thống chế Lon Nol lãnh đạo phải hốt hoảng yêu cầu Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ kéo quân sang giải vây.
Đầu tháng 5-1970, trước lời yêu cầu khẩn cấp của tân Chính phủ Kampuchea, quân lực Việt Nam Cộng Hòa với sự yểm trợ của lực lượng Hoa Kỳ, đã chính thức vượt biên, tiến vào mật khu Cộng sản Bắc Việt ở Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu, và lên sát thủ đô Nam Vang. Những cuộc hành quân này trước hết đã giúp cho việc triệt thoái binh sĩ Mỹ khỏi Nam Việt Nam được an toàn, không sợ bị vvộ đội Cộng sản Bắc Việt đánh tập hậu.
Ngày 25-5-1970, một phái đoàn Chính phủ Kampuchea do Phó Thủ tướng kiêm ngoại trướng Yem Sambaur cầm đầu, chính thức viếng thăm Sài gòn trong 3 ngày. Phái đoàn này xác nhận với Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa rằng Kampuchea đã cắt hẳn mọi quan hệ chính thức với Bắc Việt và Việt Cộng. Phái đoàn cũng cam kết bảo vệ sinh mạng và tài sản Việt kiều, đông thời hứa giải quyết càng sớm càng tốt những vấn đề còn đang gây cuộc tranh chấp giữa hai nước.
Dầu vậy, sinh mạng và tài sản Việt kiều còn lại ở Kampuchea vẫn bị đe doạ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu trên đất Kampuchea vẫn bị tố cáo và tướng Đỗ Cao Trí bị yêu cầu thay thế, vì lẽ “ông là đã tỏ nhiều thái độ khinh miệt quân đội Miên”.
Trong khi đó, bộ đội Cộng sản Bắc Việt vẫn không ngớt mở các cuộc tấn cong trực tiếp đe dọa cả thủ đô Nam Vang, khiến các quan sát viên quốc tế phải nhận định rằng nếu quân đội Việt Nam Cộng Hòa rút lui thì chỉ 48 giờ sau là Nam Vang thất thủ, và 72 giờ kế tiếp là toàn thế lãnh thổ Kampuchea lọt vào tay Cộng sản Bắc Việt.
Trước tình trạng đó, một mặt Thủ tướng Lon Nol vẫn gởi khẩn điện tới tấp xuống Sài gòn, yêu cầu Việt Nam Cộng Hòa mang quân tiếp viện, giải vây và giải tỏa các trục giao thông chính yếu, nhất là quốc lộ số 4 nơi nối cảng Sihanoukviile với thủ đô Nam Vang.
Ngay những ngày đầu, khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa vượt biên, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã phải giải quyết 6 trong 12 vụ mà kháng thư Kampuchea nhắc tới. Cách giải quyết của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là giam cầm người phạm tội, và quyết định trong tương lai, nếu những chuyện như vậy còn xảy ra thì tiền bồi thường thiệt hại sẽ được thanh toán ngay tại chỗ.
Theo Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa Trần văn Lắm thì giữa Việt Nam Cộng Hòa và Kampuchea vẫn có những khó khăn mới về mặt ngoại giao. Những khó khăn này có lẽ là việc tân Chính phủ Kampuchea lại muốn nêu lên vấn đề biên giới và dự kiến kiện Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ra tòa án quốc tế La Haye về chuyện binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã cướp của họ ba ngàn chiếc xe hơi du lịch cùng nhiều tài sản khác. Tân Chính phủ Lon Nol còn manh nha làm sống lại phong trào chống đối Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong hàng ngũ người Việt gốc Mên đa số cư ngụ tại các tỉnh thuộc Quân kh lV.
Ba ngàn chiếc xe du lịch mà Chính phủ Lon Non đề cập, không hẳn là của dân chúng Kampuchea mà là tài sản riêng của các Việt kiều, khi bị “cáp duồn”, họ phải theo quân đội Việt Nam Cộng Hòa hồi hương về Sài gòn và mang theo những gì của họ.
Còn về phong trào người Việt gốc Mên đòi tự trị thì đã được nuôi dưỡng từ lâu, nhưng chỉ âm thầm, mãi tới 1966-1967 mới thực sự bùng nổ, và sau biến cố 18-3-1970 ở Kampuchea thì tạm yên.
Giữa lúc có những khó khăn mới về ngoại giao như thế thì Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lại lên tiếng yêu cầu Chính phủ Kampuchea phải gánh chịu một phần về những phí tổn do các cuộc hành quân vượt biên gây ra. Phí khoảng này lên tới 6 tỷ bạc Việt Nam trong vòng 4 tháng cho 20 ngàn quân sang đánh nhau bên Kampuchea, chưa kể súng ống đạn dược và nhiên liệu.
Tuy nhiên, lời yêu cầu trên đây của Việt Nam Cộng Hòa đã bị Chính phủ Kampuchea bác bỏ, viện lẽ rằng các cuộc hành quân vượt biên, nếu giúp Kampuchea một phần thì cũng có lợi cho miền Nam Việt Nam một phần, vì nhờ đó mà lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, nhất là những tỉnh dọc biên giới có an ninh.
Các cuộc hành quân vượt biên của binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa trên lãnh thổ Kampuchea cũng như ở Hạ Lào hồi tháng 2.1971, dầu ai lợi, ai hại, nhiều hay ít, thì nó vẫn là một khúc rẽ quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.
Từ lâu rồii, người ta vẫn không muốn tách rời chiến tranh Việt - Mên - Lao ra riêng biệt. Hơn thế, nhiều người còn nghi ngờ rằng chiến tranh Đông Dương hiện nay và chiến tranh khắp vùng Đông Nam Á sau này, thực chất chỉ là một, vì những cuộc chiến tranh tại vùng này, rốt cuộc sẽ chẳng có kẻ thua người thắng, và chính những quốc gia bị chiến tranh tàn phá lại là những quốc gia chẳng bao giờ được toàn quyền giải quyết với nhau theo ý riêng mình.
Từ cuối 1969, người ta đã bấy giờ nghe nói tới chủ thuyết Nixon, nhất là sau khi Trung Cộng được thừa nhận vào Liên Hiệp Quốc thay thế Trung Hoa Quốc Gia, và việc Tổng thống Nixon viếng thăm Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa hồi tháng 2 và tháng 5-1972, lại càng khiến dư luận nghĩ rằng thế nào cũng có một sự đổi chác hay một sự sắp đặt cho số phận những nước nhược tiểu trong vùng Đông Nam Á, dù những nước đó theo phe Cộng sản hay phe Tự do.
Điều dư luận suy đoán trên đây là dựa vào những biến chuyển lớn lao của tình hình thế giới cho rằng chiến tranh theo quan niệm thực dân cũ đã lỗi thời, và trước mắt các siêu cường quốc hiện nay, không còn ai là cộng sản, ai là quốc gia, cũng chẳng có đồng chí, đồng minh, mà chỉ có duy nhất một đối tượng là “thị trường” và “người tiêu thụ”.
Vì thực chất chiến tranh hiện nay là như vậy nên tất cả những biến cố xảy ra tại ba quốc gia nằm chung trên bán đảo Đông Dương đều ràng buộc và mật thiết liên quan với nhau, chẳng hạn biến cố 18-3-1970 ở Kampuchea và các cuộc hành quân ở Hạ Lào hồi tháng 2-1971 là để giúp cho chương trình Việt hóa thành công, đồng thời bảo đảm an toàn cho công cuộc triệt thoái binh sĩ Mỹ.
Về mục đích chương trình Việt hóa chiến tranh, tuy Tổng thống Nixon đã nói rõ là “Những quốc gia đang hoàn toàn sống nhờ vào viện trợ Mỹ, và đang có sự hiện diện của quân đội Mỹ trong các cuộc hành quân, phải tự đảm nhận lấy những trọng trách lớn lao hơn cho quyền lợi của chính mình, cũng như quyền lợi của Hoa Kỳ”, nhưng chương trình đó vẫn là cốt tránh cho thanh niên Mỹ khỏi mọi sự chết chóc hay bị bắt làm tù binh trong khi cầm súng chiến đấu ở ngoài, và vẫn bảo đảm được thực chất chiến tranh theo đúng chính sách của Mỹ định thi hành ở Đông Nam Á.
Điều này thật rõ ràng vì sau biến cố chính trị 18-3-1970 ở Kampuchea, chiến tranh Việt Nam mở rộng và leo thang đến mức kinh khủng, nhưng nhìn vào con số tổn thất và bị thương của binh sĩ Hoa Kỳ ai cũng nhận thấy xuống thấp tới mức chưa từng thấy.
Chương trình Việt hóa chiến tranh quả là một thành công lớn lao về phía Hoa Kỳ, đặc biệt riêng đối với Tổng thống Nixon, vì với chương trình này, ông vừa tự hào trước Quốc hội là giữ lời hứa khi ra tranh cử hồi 1968 rằng sẽ tìm cávh giải quyết kết thúc chiến tranh Việt Nam, vừa chứng minh cho dư luận quần chúng Mỹ cũng như dư luận chung toàn thế giới thấy rõ thái độ thiện chí hòa bình của Hoa Kỳ, vừa trút phần lớn trách nhiệm gây chiến tranh lên đầu Cộng sản Bắc Việt.
Kết quả là tối 25-1-1972, Tổng thống Nixon công bố trên hệ thống truyền thanh và truyền hình Hoa Kỳ đề nghị mới 8 điểm trong đó có điểm đặc biệt là Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu từ chức giao quyền xử lý lại cho Chủ tịch Thượng nghị viện Nguyễn văn Huyến và thành lập Ủy ban bầu cử với sự tham dự của phe bên kia.
Sáng 26-1-1972, tại Sài gòn, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu cũng tuyên bố sẵn sàng từ chiếc theo như đ!!!13861_12.htm!!! Đã xem 50515 lần.


Chương 11
Liên hệ Nga - Hoa trong chiến tranh Việt Nam

Truyện Chiến Tranh Việt Nam Lời mở đầu Chương 1 Chương 1 (2) Chương 1 (3) Chương 1 (4) Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 ệt Nam”.
Những tố cáo trên đây của bà Ngô Đình Nhu hoàn toàn phù hợp với các tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ mà báo Mỹ Boston Globe đăng tải hồi tháng 6-1971. Tài liệu này nói rằng “Ngay từ ngày 1-5-1961 (nghĩa là Trung Hoa lục địa ông Kennedy làm lễ nhận chức Tổng thống Hoa Kỳ được năm tháng), Tổng thống Kennedy đã chấp thuận bằng công văn số 52 toàn bộ kế hoạch hoạt động quân sự bí mật do một Ủy ban đặc biệt nghiên cứu về vấn đề Việt Nam đệ trình”. Kế hoạch này gồm các điểm sau đây:
- Gửi điệp viên ra Bắc Việt hoạt động và dùng phi cơ dân sự thả dù tiếp tế cho những điệp viên này (phi cơ dân sự này do các phi công mang quốc tịch châu Á điều khiển, hầu hết là công dân Đài Loan thuộc Trung Hoa Quốc Gia).
Lén đưa Lực lượng đặc biệt từ miền Nam Việt Nam sang vùng Đông Nam Ai Lao lùng diệt căn cứ và lộ tuyến tiếp tế của Cộng sản Bắc Việt (Lực lượng đặc biệt này được Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập dưới sự thúc đẩy của Mỹ, do Mỹ huấn luyện, võ trang và đài thọ lương bổng. Lực lượng này đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Lê Quang Tung, và ông này đã bị thủ tiêu hôm đảo chính 1-11-1963).
- Thiết lập những ổ võ trang chống Cộng sản Bắc Việt; những căn cứ bí mật, những toán phá hoại, quấy nhiễu hậu tuyến đối phương.
- Tổ chức các phi vụ thả truyền đơn xuống lãnh thổ Bắc Việt, phát động du lích chiến, và nếu cần, cho cố vấn Hoa Kỳ tham chiến để đối phó với mọi nỗ lực tiếp liệu của Cộng sản Bắc Việt quanh vùng Tchépone (Ai Lao).
Song song với kế hoạch này, Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng Hòa hồi bấy giờ là tướng Maxwell Taylor còn gửi phúc trình mật ngày 2-11-1961, yêu cầu Tổng thống Kennedy cho gửi gấp 8 (tám) ngàn bộ binh Hoa Kỳ sang Nam Việt Nam, bề ngoài lấy cớ là tham dự công tác cứu trợ nạn lụt miền Trung và miền Tây, và nếu với số quân này mà “không làm nổi chuyện gì” thì Hoa Kỳ vẫn có cớ đưa thêm quân sang Nam Việt Nam.
Tất cả những kế hoạch trên Hoa Kỳ không phải nhằm tiêu diệt Cộng sản, mà nhằm mở rộng và leo thang chiến tranh, hầu chính sách của Mỹ ở châu Á được thực hiện, nhưng bị một chướng ngại rất lớn lao ngăn cản là sự không đồng ý của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Muốn san bằng chướng ngại vật này, biện pháp trước tiên được Tổng thống Kennedy đem ra áp dụng là dùng viện trợ Mỹ làm áp lực.
Về viện trợ Mỹ hồi bấy giờ, tập tài liệu bà Ngô Đình Nhu cho biết:
“Cần phải hiểu rằng viện trợ Mỹ được căn cứ trên nguyên tắc là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có quyền chi tiêu cho những dự án cần thiết mà không chịu sự kiểm soát của Chính phủ Hoa Kỳ. Nhưng thực tế cho thấy Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chỉ nhận được một phần rất nhỏ viện trợ Mỹ mà không biết gì đối với số còn lại. Người Mỹ lấy lý do số còn lại được chi tiêu cho những công cuộc không trực tiếp liên hệ đến Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, chẳng hạn những hoạt động tuyên truyền do Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ điều khiển (US lNFORMATION AGENCY), để yểm trợ cho Chính phủ Nam Việt Nam.
Có những ngân khoản trên giấy tờ thì do chính quyền Việt Nam sử dụng, nhưng trên thực tế, chính quyền Việt Nam lại không có quyền dòm ngó tới số tiền đó. Sự kiện này cho phép Chính phủ Hoa Kỳ đem hết khả năng tuyên truyền phá hoại, chống lại Chính phủ Ngô Đình Diệm và lật đổ Chính phủ này do chính số tiền viện trợ mà ông Diệm bị coi như mắc nợ đối với với Hoa Kỳ.
Viện trợ Mỹ cho Việt Nam Cộng Hòa còn bao gồm cả các loại vũ khí cùng sự tài trợ cho những hoạt động quân sự, đài thọ cho Lực lượng đặc biệt.
Mặt khác, Hoa Kỳ cũng trích ra từ ngân khoản viện trợ một số tiền 24 triệu đô-la để yểm trợ cho những phong trào chống lại Chính phủ. Như thế đủ thấy số tiền viện trợ Mỹ mà Chính phủ Ngô Đình Diệm nhận được trên giấy tờ, không ít thì nhiều, đã được dùng để thỏa mãn trước hết các khuynh hướng quân phiệt cũng như khuynh hướng phá hoại trong sự giành giật ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới.
Về chương trình Ấp chiến lược trước khi nhận viện trợ Mỹ, chính chúng tôi đã đưa ra điều kiện là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có thể thực hiện một mình, nhưng Hoa Kỳ lại đòi quyền kiểm soát và duyệt xét chặt chẽ. Hơn thế, họ còn đòi xen vào làm việc ngân sách quốc gia Việt Nam, song chúng tôi đã không chịu để người Mỹ kiểm soát như vậy...”
Theo bà Ngô Đình Nhu, ngân khoản chính thức mà Chính phủ Ngô Đình Diệm nhận được do Mỹ viện trợ trong suốt 9 năm của Đệ nhất Cộng hoàa, chỉ vào khoảng hai tỷ đô-la mà thôi, không như ngày nay, chỉ trong vòng một năm, ngân khoản đã lên đến 15 tỷ cho riêng nỗ lực chiến tranh.
Những tiết lộ trên đây cho thấy các chính quyền thuộc đảng Dân chủ Mỹ, từ thời Tổng thống Truman qua đời Tổng thống Kennedy, đều có khuynh hướng muốn để Hoa Kỳ trực tiếp liên hệ vào chiến tranh Việt Nam. Vì khuynh hướng đó mà khi thấy không thể thuyết phục Tổng thống Ngô Đình Diệm tiếp tay trong việc mở rộng và leo thang chiến tranh, Tổng thống Kennedy đã hạ lệnh cho Đại sứ Henry Cabot Lodge phải bằng mọi cách, triệt hạ kỳ được chính quyền này, “dù phải làm cỏ cả Phủ tổng thống”.
Việc lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ tiết lộ rằng “Tổng thống Kennedy quyết định cử Phó tổng thống Johnson đi Sài gòn vào tháng 5-1961 với sứ mạng thuyết phục ông Ngô Đình Diệm yêu cầu Hoa Kỳ gửi quân qua Việt Nam, nhưng bị ông Ngô Đình Diệm trả lời là ông không muốn lực lượng ngoại quốc vào lãnh thổ Việt Nam trừ trường hợp Bắc Việt trực tiếp xâm lăng. Tổng thống Diệm nhấn mạnh: “Sự hiện diện của quân đội ngoại quốc sẽ vì phạm thỏa ước quốc tế Geneve 1954”.
Vì không thuyết phục được Tổng thống Ngô Đình Diệm trong việc để quân đội Mỹ qua Việt Nam nên Hoa Kỳ “khuyến khích nhóm đảo chính chống lại cho tới cùng và hủy diệt Phủ tổng thống nếu cần để chiến thắng” và “buộc gia đình ông Ngô Đình Diệm phải đầu hàng vô điều kiện”. Riêng ông Diệm phải được đối xử tùy theo ý muốn của tướng lĩnh Việt Nam Cộng Hòa” (trích bản giác thư của Roger Hilstman, Phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ, phụ trách Viến Đông sự vụ gửi cho Ngoại trưởng Dean Rusk ngày 30-8-1963).
Thực ra trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ tháng 11-1960, anh em ông Ngô Đình Diệm đã đoán biết số phận của mình khi ứng cử viên John F. Kennedy thuộc đảng Dân chủ đắc cử sít sao so với số phiếu bỏ cho ứng cử viên Cộng hòa Richard Nixon, vì đường lối của đảng Dân chủ thường biểu lộ tính cách quân phiệt, cứng rắn, và chỉ muốn Hoa Kỳ trực tiếp liên hệ vào chiến tranh Việt Nam.
Nên nhớ giải pháp Ngô Đình Diệm là sản phẩm của đảng Cộng Hòa dưới thời Tổng thống Eisenhower, và từ tháng 7-1954 là ngày ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh tới tháng Giêng 1961 là ngày ông John F. Kennedy lên lãnh đạo Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, mối bang giao giữa Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ quốc tuy cũng gặp trục trăc khó khăn, nhưng chưa đến nỗi nghiêm trọng lắm.
Bởi thế, khi hay tin ứng cử viên đảng Dân chủ Kennedy trúng cử, anh em ông Diệm đã tỏ vẻ buồn nản vì biết mình sẽ gặp lắm khó khăn, bèn vội vã đề ra chính sách “thật lưng buộc bụng”, và định ban hành Luật hạ lương quân nhân - công chức. Dự luật này do Dân biểu Cao văn Tường soạn thảo, đã một dạo gây hoang mang thắc mắc trong hàng ngũ công chức - quân nhân, nhưng cuối cùng chẳng hiểu vì sao mà không được áp dụng.
Lo sợ trước chính sách mới của tân Tổng thống Hoa Kỳ đã đến với Tổng thống Ngô Đình Diệm sớm hơn ý tưởng, vì 5 tháng sau ngày lễ tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Kennedy đã dồn dập làm áp lực, và cuối cùng đi đến cuộc đảo chính, giết chết anh em ông Diệm ngày 1-11-1963.
Triệt hạ xong Tổng thống Ngô Đình Diệm, chưa ai biết ý định Tổng thống Kennedy sẽ làm gì ở Việt Nam, vì ông bị ám sát chết ngay sau đó ba tuần lễ (Kennedy bị ám sát chết ngày 23-11-1963 tại thành phố Dallas, Tiểu bang Texas), nhưng theo tin AFP đánh đi ngày 25-1-1971 thì “chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi xảy ra vụ ám sát Tổng thống Kennedy, và ngay khi còn đang ở trên phi cơ trở về Hoa Thịnh Đốn để đảm nhiệm chức vụ Tổng thống theo hiến pháp, ông Lyndon Johnson đã quyết định tiếp tục theo đuổi chính sách của vị tiền nhiệm”.
Tiếp tục theo đuổi chính sách của vị tiền nhiệm có nghĩa là Tổng thống Johson thừa hưởng gia tài về đường lối lãnh đạo chiến tranh do cố Tổng thống Kennedy để lại, và chỉ tám tháng sau ngày nhận chức vụ, Tổng thống Johnson đã biến đổi hình thái chiến tranh đó bằng cách tạo ra cái gọi là “biến cố Vịnh Bắc Việt” rồi ra lệnh cho Không lực Hoa Kỳ oanh tạc miền Bắc và ra lệnh cho bộ binh nhảy vào tham chiến tại miền Nam.
Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ được báo Newsweek đăng tải, nói rằng “Tất cả những quyết định quan trọng nhằm leo thang chiến tranh Việt Nam đều được dự trù từ nhiều tháng trứoc khi Tổng thống Johnson đem ra thi hành và Chính phủ Mỹ lừa phỉnh Quốc hội cùng với quần chúng bằng cách bưng bít. Những gì xảy ra trong Biến cố Vịnh Bắc Việt ngày 4-8-1964 không đáng kể, vì Chính phủ đã bí mật thảo hoạch một hành động quân sự quan trọng đánh Bắc Việt trước đó ít nhất là năm tháng, và đã dự thảo sẵn một quyết nghị của Quốc hội nhằm ủng hộ mở rộng chiến tranh”.
Biến cố Vịnh Bắc Việt hồi tháng 8-1964 phải được kể là một điểm then chốt trong chiến tranh Việt Nam hiện nay, vì nó là khởi thủy cho cuộc oanh tạc đầu tiên của Không lực Hoa Kỳ xuống lãnh thổ Bắc Việt ngày 5-8-1964, rồi từ cuộc oanh tạc này đẻ ra nguyên nhân khiến Mỹ đưa nửa triệu quân cơ giới vào miền Nam Việt Nam, với sự tham chiến của nhiều nước Đồng minh Hoa Kỳ như Đài Loan, Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân và Thái Lan, làm cho chiến tranh Việt Nam mở rộng và leo thang.
Thực ra cho đbắt buộc phải nhận các tổ chức nghiệp đoàn Sô Viết, đặt trụ sở tại một tòa nhà đẹp nhất trong thành phố.
Từ đó, công việc được tổ chức rất khoa học: nhân viên người Tàu làm việc tại mỗi cơ quan phải “cấm phòng” nhiều ngày, được ăn ở tử tế nhung phải theo học lớp Mac-xít do người Nga chỉ huy.
Sau đó, các nhân viên phải ghi tên trong “phít” (fiche - thẻ), và mỗi cơ quan thành lập một nghiệp đoàn giao trách nhiệm cho một người Tàu, nhưng quyền kiểm soát lại do một người Nga.
Khi các nghiệp đoàn tổ chức xong thì lại có ngay các cố vấn chuyên môn Nga. Họ biến các nghiệp đoàn thành những sĩ quan xung phong chiến tranh.
Bên cạnh các nhà lãnh đạo quân sự Trung Hoa, Nga Sô đặt những chính trị viên ngang hàng với các vị thiếu tướng.
Dân chúng Tầu không ưa người Nga, họ đặt cho những người này một tên riêng, gọi là “bọn mũi to”.
Người Tàu khó chịu nhất là chế độ mật báo lan tràn khắp dân chúng. Chế độ này do người Nga đưa sang, và được huấn luyện tại Mạc Tư Khoa làm tay sai đắc lực. Đấy là là Công an bản xứ.
Mỗi cuộc hội họp gia đình đều phải có một thám tử của ban tình báo. Người ta phỏng đoán có 12 triệu thám tử ở Trung Hoa lúc bấy giờ, trong số đó, một nửa là người Nga.
Một bài khác của Jean Monsterllet (cũng do Việt Tấn Xã dịch, đăng tải trong bản tin buổi chiều, thứ Hai 17-12-1954), cho biết trước khi thắng Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông chưa từng qua thăm Mạc Tư Khoa. Không nói chi tới dĩ vãng, chỉ cần khoảng 5 năm đầu từ ngày Mao nắm chính quyền, ảnh hưởng của Nga Sô không ngớt bành trướng trong mọi lĩnh vực. Trong Chính phủ, nhóm thân Nga và nhóm theo chủ nghĩa quốc tế toàn thắng. Các bộ trong Chính phủ trung ương đầy rẫy cố vấn Nga. Ngày 31 tháng 12 năm 1951, Tân Hoa Xã Trung Hoa đã phải nói tới hiện tượng “các chuyên viên Nga làm việc ở khắp các Bộ trong Chính phủ Trung ương”.
Về mặt kinh tế, sự xâm nhập của Nga mỗi ngày một chặt chẽ, nhất là trong các ngành kỹ nghệ nặng do các chuyên viên Nga kiểm soát thì lại chặt chẽ hơn.
Kế hoạch ngũ niên khởi sự năm 1953 do Nga Sô đề xướng và kiểm soát. Tất cả các kỹ nghệ nặng ở Mãn Châu đều nằm trong tay người Nga: hơn 90 phần trăm trong số 85 xưởng máy là do Nga Sô xây dựng.
Về các ngành khác như canh nông, giáo dục v.v... cũng mang ảnh hưởng Nga Sô, các sách giáo khoa đều dịch từ sách giáo khoa Nga, ngay cả bản Hiến pháp Trung Cộng cũng chịu ảnh hưởng Hiến pháp Nga Sô quá nửa.
Còn nhiều tài liệu chính xác khác nói về sự bành trướng ảnh hưởng và thế lực của Nga Sô tại Trung Hoa, nhưng tất cả đều công nhận rằng như thế không có nghĩa là Trung Hoa đã hiển nhiên biến thành một chư hầu của Cộng hòa Liên bang Sô viết. Điều này, chính Stalin là người thất vọng và bực tức trước tiên, vì trong số các lãnh tụ Cộng sản tại những nước trên khắp thế giới, chỉ độc nhất một mình Mao Trạch Đông là chưa hề sang Mạc Tư Khoa yết kiến “lãnh tụ vĩ đại Stalin”.
Giữa người Trung Hoa và người Nga có mối thù truyền kiếp, cũng giống như mối thù giữa người Việt với người Tầu, nên từ ngày Đảng Cộng Sản Trung Hoa được thành lập, Mao Trạch Đông vì chiến thuật và chiến lược, phải chịu lép vế nhờ sự viện trợ của Nga, song thâm tâm ông ta bao giờ cũng vẫn chủ trương muốn tách rời cả về mặt lý thuyết lẫn lãnh đạo.
Nga-Tàu đều theo chủ nghĩa Cộng sản, nhưng nếu Nga áp dụng một cách cứng ngắt lý thuyết Các Mác-Lenin thì trái lại, Mao phỏng theo Các Mác-Lenin để tạo nên một hệ thống lý tưởng riêng, mênh danh là “Chủ nghĩa Mao Trạch Đông” (Maoisme).
Điều này chứng minh câu nói: Đông là Đông - Tây là Tây: Đông và Tây không bao giờ gặp nhau. Chính vì chỗ “không gặp nhau” đó mà sự xung đột Nga - Hoa bắt nguồn từ những quyền lợi kinh tế đã bước sang đại hạt lý thuyết - chủ nghĩa.
Sự xung đột Nga - Hoa càng ngày càng trở nên trầm trọng thì trong việc viện trợ cho Bắc Việt, chắc chắn hai nước có hai chủ đích riêng. Phía Nga Sô qua kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, không dễ gì chịu rơi vào cậm bẫy Trung Cộng lần thứ hai, họ nhất quyết phải níu lấy Bắc Việt, dồn Bắc Việt vào tình thế nếu không hoàn toàn ngả hẳn theo Nga thì cũng không thể bỏ Nga đi theo Tàu, bởi vì một sự đi theo như vậy. vừa làm thiệt hại Nga Sô về mặt kinh tế, vừa làm uy tín lãnh đạo Nga Sô giảm sút trong khối Xã hội chủ nghĩa.
Vì chủ đích viện trợ là như vậy nên trong việc Nga Sô gửi vũ khí qua giúp Bắc Việt đã gặp phải lắm khó khăn do Trung Cộng gây ra.
Trước kia, đa số chiến cụ, cơ giới và máy móc, vật dụng nặng được chuyển từ Nga qua Bắc Việt bằng đường bộ xuyên qua lãnh thổ Trung Cộng, nhưng về sau, Trung Cộng đóng cửa biên giới và đòi đánh thuế những món hàng của Nga viện trợ cho Bắc Việt, nên Nga Sô bắt buộc phải chuyên chở bằng đường biển, vừa xa xôi, vừa tốn kém, số lượng chuyên chở lại bị hạn chế.
Sau 8-5-1972 là ngày Hoa Kỳ phong tỏa các hải cảng Bắc Việt thì việc chuyên chở vật dụng, chiến cụ từ Nga qua Bắc Việt lại càng khó khăn hơn, vì có những điều kiện riêng ràng buộc nên Nga không dám trái lệnh phong tỏa của Hoa Kỳ, còn nhờ lãnh thổ Trung Cộng thì vấn đề biên giới tại không cho phép.
Chính thời gian Tổng thống Nixon ra lệnh phong tỏa các hải cảng Bắc Việt, và cả trước đó rất lâu, có nhiều tin nói rằng Nga Sô đã tập trung dọc biên giới Trung Cộng 41 Sư đoàn quân tinh nhuệ, trong khi Nga chỉ để lại ở châu Âu khoảng trên 30 Sư đoàn mà thôi.
Tin UPI đánh đi từ Huho Haote (Nội Mông) ngày 14-9-1972 cho biết Nga đã khoảng 300 ngàn quân và các đơn vị hỏa tiễn dọc biên giới Nga Sô - Mong Cổ và tung ra các cuộc thao dượt gần biêng giới Trung Hoa. Căn cứ vào những tin này, các quan sát viên quốc tế, có một dạo, đã sny luận rằng sở dĩ Mao Trạch Đông chịu hạ mình mời Tổng thống Nixon qua thăm Bắc Kinh chính vì việc Nga Sô tập trung đông đảo quân đội dọc biên giới.
Chở bằng đường biển thì bị Mỹ phong tỏa chở bằng đường bộ thì Trung Cộng không cho phép, Nga Sô i chỉ còn cách duy nhất để chuyển vũ khí tới tay Bắc Việt là dùng đường hàng không.
Việc chở chiến cụ của Nga qua Bắc Việt bằng đường hàng không chẳng phải là một việc dễ dàng.
Vì tuy ngành hàng không Nga cũng đã tiến triển khá nhiều, song so với Hoa Kỳ hãy còn thua xa, nên số lượng rất bị hạn chế.
Theo tin tức các hãng thông tấn quốc tế đánh đi từ thủ đô Vạn Tượng ngày 30, 31-8-1972 và 4-9-1972 thì Nga Sô phải dùng loại phi cơ vận tải khổng lồ Antonov-12, tương tự như loại C-130 của Hoa Kỳ, bay từ Mạc Tư Khoa đến Hà Nội qua ngả Calcutta và qua không phận Ai Lao.
Tin AFP đánh đi từ Vạn Tượng ngày 30-8-1972 nói rằng các đơn xin phép cho phi cơ Nga bay qua không phận Lào ngày càng gia tăng. Từ giữa tháng 7 đến cuối tháng 8-1972, Tòa đại sứ Nga ở Vạn Tượng đã gửi đến Chính phủ Hoàng gia Ai Lao 30 đơn như vậy, và tất cả đều được nhà cầm quyền Vương quốc Ai Lao chấp thuận. Ngoài những chiếc Antonov-12 Nga Sô cũng xin phép cho các loại máy bay Ilyushine-18 bay qua không phận Lào, những không hề đáp xuống một phi trường nào của Vương quốc này.
Việc Nga Sô quân viện cho Bắc Việt không phải chỉ mới có trong những tháng gần đây, mà đã xảy ra từ lâu.
Theo sự tiết lộ của các giới chức cao cấp Hoa Kỳ thì ngay sau khi hiệp định Geneve về Đông Dương được ký kết chưa ráo mực, cộng sản Bắc Việt đã được các nước Cộng sản tới tấp cung cấp nhiều loại vũ khí để chuẩn bị xâm lăng Nam Việt Nam, và ngay sau khi cuộc xâm lăng mở màn hồi đầu tháng Tư 1972 thì sự cung cấp này trở thành ồ ạt.
Vẫn theo các giới chức này thì giữa năm 1954 đến 1959, tàu chở hàng Lidice của Tiệp Khắc đã chở năm chuyên hàng tới Hải Phòng. Ngày 7-4-1959, một tầu Pháp đã ngăn chiếc Lidice đang trên đường tới Bắc Việt, trên tàu chở 500 tấn dụng cụ, 12 ngàn súng trường và một ngàn súng máy đủ loại, nhưng tất cả đều được ghi là “hàng hóa thông thường”.
Tính từ giữa năm 1954 đến 1972, Tiệp Khắc đã chở một số vũ khí tới Bắc Việt trị giá hơn 67 triệu Mỹ-kim. Nhưng con số này không thấm vào đâu so với số lượng chiến cụ do Nga Sô cung cấp. Thật vậy, từ 1958, Nga Sô đã quân viện cho Bắc Việt các loại xe Jeep, xe vận tải Molotova, xe thiết giáp, súng máy đủ loại, súng chống xe tăng, súng phòng không, súng cối 102 ly cùng một số tiểu đỉnh cho hải quân Bắc Việt.
Suốt năm 1959 và 1960, Nga Sô lại cung cấp cho Bắc Việt phi cơ MiG-15, trực thăng và những loại phi cơ khác, rồi san đó dần dần được thay thế bằng những loại tối tân hơn như MiG-17, MiG-21.
Trong năm 1971, có 340 chuyến tầu Nga cập bến Bắc Việt, chuyển giao một triệu tấn dụng cụ. Tháng Giêng 1972, chỉ một mình hải cảng Odessa của Nga đã chở 60 ngàn tấn dụng cụ giúp Bắc Việt, tức tăng khoảng 20 phần trăm so với cũng khoảng thời gian tương tự trong năm 1971.
Theo sự phỏng định thì số viện trợ Nga cho Bắc Việt từ 1965 đến 1971, tổng cộng chừng 3.200 triệu Mỹ kim, so với Trung Cộng chỉ khoảng 1.200 triệu.
Hiện thời, có thể nói phần lớn số vũ khí cơ giới mà quân Bắc Việt dùng vào việc xâm lăng Nam Việt Nam đều do Nga Sô cung viện. Không kể những thứ súng ống lặt vặt, riêng các loại chiến xa như PT-76, T-54 v.v... theo xác định của phân tích gia Hoa Kỳ thì quân Bắc Việt đã nhờ Nga giúp và tung vào chiến trương Nam Việt Nam trên 600 chiếc.
Sự quân viện ồ ạt của Nga Sô cho Bắc Việt đã làm tình hình thế giới trở nên căng thẳng hồi trung tuần tháng 5-1972, khi dư luận đồn đại rằng Tổng thống Nixon có thể hủy bỏ cuộc công du Nga Sô, vì hồi đó Chính phủ Hoa Kỳ đã chính thức lên án Nga tiếp tục trao vũ khí sang cho Hà Nội mở cuộc xâm lăng Nam Việt Nam.
Sự cung viện của Nga Sô cho Bắc Việt càng nhiều chừng nào thì chẳng những tình hình Đông Dương càng rắc rối chừng ấy, mà tình hình toàn khu vực Đông Nam Á cũng bị ảnh hưởng lây, vì nó khuyến khích những phần tử Cộng sản vùng này dấy loạn, khiến nguy cơ một cuộc chiến tranh toàn diện ở châu Á khó tránh.
Bằng chứng là hiện nay, ngoài bước nước Việt - Mên - Lào mà Cộng sản Bắc Việt đang dốc toàn lực củng cố - huấn luyện cán bộ Cộng sản địa phương, mầm mống chiến tranh đã bắt đầu tràn qua Thái Lan, và nếu một khi chiến tranh nùng nổ dữ dội trên đất Thái thì chắc chắn Cộng sản Bắc Việt cũng vẫn đóng giữ một vai trò quan trọng.
“Chiến tranh sẽ bùng nổ tại những quốc gia không Cộng sản” câu nói này của Lenin đang được Nga Sô thực hiện, nhưng không phải nhằm mình xích hóa thế giới hoàn toàn, mà nhắgm giành giật những quyền lợi kinh tế - trước hết đối với Hoa Kỳ, và sau đó với nước “anh em thù địch” Trung Cộng.
Việc Nga Sô ngày càng tăng cường tiềm lực chiến tranh ở châu Á mà hầu như sao nhãng những vấn đề châu Âu, cho mấy mục đích tranh giành nói trên, và trong việc tranh giành đó, Cộng sản Bắc Việt đã được chọn làm kẻ châm ngòi, đốt cho ngọn lửa chiến tranh bùng lên khắp vùng Đông Nam Á.
Việc Nga Sô quân viện cho Bắc Việt nằm trong âm muu nguy hiểm đó, âm mưu này đã làm cho chiến tranh Việt Nam trở nên rắc rối, và càng rắc rối hơn khi người ta muốn đi tìm một giải pháp để chấm dứt.
Một sự kiện không thể bỏ qua được là Nga Sô -Trung Cộng càng liên hệ đến chiến tranh Việt Nam nhiều chừng nào thì những xích mích giữa Nga - Hoa càng sâu sắc chừng ấy, và trong vấn đề này, người ta đồ chừng rằng rồi đây, Hoa Kỳ sẽ đương nhiên đóng vai “ngư ông đắc lợi”.
Chưa lúc nào tin tức quốc tế nói tới những xích mích Nga-Hoa nhiều bằng lúc này. Không kể vấn đề biên giới mà một số quan sát viên Tây phương ở Mạc Tư Khoa nhận định rằng có thể đi đến chiến tranh giữa hai nước đàn anh Cộng sản, chỉ nói chuyện Tổng thống Nixon vừa công du Bắc Kinh, vừa viếng thăm Mạc Tư Khoa đã đủ gây sự nghi vực lớn giữa đôi bên.
Ngày 28 tháng 3, 1972, thông tín viên hãng UPI từ Mạc Tư Khoa đã đánh đi nguyên văn bài xã thuyết đăng trên tờ nhật báo Pravda, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng Sản Nga, do bình luận gia trứ danh Victor Mayevsky viết.
Dưới đề mục “Hòa bình và an ninh ở châu Á”, bài báo quả quyết rằng Hoa Kỳ và Trung Cộng đã cấu kết với nhau trong âm mưu phái hoại hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng các dân tộc nhược tiểu.
Bài báo xác nhận Nga Sô phải đóng giữ một vai trò quan trọng ở châu Á, vì hai phần ba lãnh thổ Nga Sô nằm trên lục địa nà, đồng thời tố cáo Nixon - Mao Trạch Đông ký thông cáo chung nói rằng không có tham vọng làm bá chủ châu Á và Thái Bình Dương, những về phía Mỹ vẫn dội bom ác liệt Bắc Việt vẫn đóng quân ở Nhật Bản - Thái Lan và các quốc gia châu Á khác Hạm đội 7 và Hạm đội 6 của Mỹ vẫn hoạt động tại các vùng chỉ định. Còn Trung Cộng cố tình thổ phồng và làm ầm ĩ về cái gọi là “sự đe dọa từ phía Bắc” và tiếp tục đả kích mạt sát Liên Xô.
Bài báo kêu gọi các nước châu Á hãy đòi Trung Cộng chấm dứt hành động thô bạo, đe doạ, làm áp p lực và can thiệp vào nội bộ các nước này, làm cho tình hình châu Á trở nên căng thẳng.
Song song với bài báo này, một tin khác của hãng AP đánh đi từ New York ngày 29-3-1972, cho biết tại phiên họp của Hiệp hội Nghiên cứu châu Á, ông Daniel Tretiak, một khoa học chính trị gia Canada thuộc Đại học York đã tuyên bố rằng chiến tranh VN giúp cái thiện mối bang giao Mỹ- Trung Cộng.
Căn cứ vào thực tế thì sự nhận định trên đây đúng một phần nào, vì từ ngày cộng sản thôn tính lục địa Trung Hoa, giữa Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã trở thành hai quốc gia thù nghịch.
Từ 1950, mặc dầu Chính phủ Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch chỉ cai trị một dân số khoảng 13 triệu người ở Đài Loan, những lại được Mỹ và các nước Đồng minh của Mỹ nhìn nhận là Chính phủ hợp pháp duy nhất, đại diện cho toàn thế nhân dân Trung Quốc - kể cả 800 triệu ở Hoa Lục và vẫn tiếp tục ngồi lại tại tòa nhà Liên Hiệp Quốc với đầy đủ quyền phủ quyết của một cường quốc sáng lập viên tổ chức c này.
Vì nhìn nhận Chính phủ Đài Loan là Chính phủ hợp pháp duy nhất nên chính sách Hoa Kỳ lúc bấy giờ là cương quyết bảo vệ hòn đảo này để làm chưởng ngại vật không cho Cộng sản bành trướng khắp Thái Bình Dương.
Thái độ cương quyết của Mỹ được bày tỏ hết sức rõ rệ, trong bản quyết nghị được Quốc hội chấp thuận; cho phép Tổng thống Hoa Kỳ hành động trong trường hợp Đài Loan và các đảo lân cận bị Cộng sản tấn công.
Sở dĩ Mỹ có thái độ cương quyết như vậy vì hồi đầu tháng 9-1954, Trung Cộng đã có những hành động để lộ ý muốn xâm chiếm Đài Loan, trước hết là việc Trung Cộng pháo kích ồ ạt đảo Quế Môn chỉ nằm cách bờ biển Hoa Lục chừng 10 cây số. Tiếp đến, đảo Đại Trần bị chừng hai chục máy bay Trung Cộng oanh kích, và sau cùng, Hồng quân Trung Cộng định đổ bộ lên đảo Wuchin gần duyên hải tỉnh Phúc Kiến, cách Đông bắc đảo Quế Môn 160 cây số, và cách phía tây Đài Loan 200 cây số.
Trước thái độ khiêu khích của Trung Cộng, đầu tháng Chạp 1954, Hoa Kỳ và Trung Hoa Quốc Gia chính thức ký kết hiệp ước phòng thủ chung gồm 10 khoản.
Theo hiệp ước này thì Chính phủ Đài Loan cho phép Hoa Kỳ duy trì một lực lượng Hải - Lục - Không quân trên và chung quanh đảo Đài Loan cùng quần đạo Bành Hồ, cần thiết cho sự phòng thủ, chống lại các cuộc tấn công võ trang và những hoạt động phá hoại của công sản được điều khiển từ bên ngoài.
Điều khoản 10 của hiệp ước nói rằng “Hiệp ước này sẽ có hiệu lực mãi mãi. Một bên đương sự có thể chấm dứt hiệp uớc này sau khi cho bên kia biết ý muốn của mình trước một năm”.
Căn cứ vào những điều khoản ghi trong Hiệp ước, Hoa Kỳ phái hạm đội ngày đâm canh phòng Đài Loan cùng quần đảo Bành Hồ, đồng thời đổ bộ một số binh sĩ tượng trưng chừng hai ngàn người lên đảo.
Việc Mỹ nhìn nhận chế độ Đài Loan và ký hiệp ước phòng thủ quần đảo này là một điều sỉ nhục to tát đối với Trung Cộng, vì dầu cai trị khoảng 800 triệu dân, nhưng Trung Cộng vẫn không có một tiếng nói chính thức nào trên trường quốc tế.
Đằng khác, Trung Cộng luôn luôn luôn coi đảo Đài Loan là một vị trí chiến lược quan trọng ở Thái Bình Dương. Đảo này vẫn tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Hoa Kỳ thì có nghĩa là Trung Cộng cứ bị bao vây, và tình trạng “hai nước Trung Hoa” không thể xóa bỏ được.
Tưởng nên nhắc lại rằng từ trước, đảo Đài Loan đã bị người Tây Ban Nha đo hộ. Khoảng đầu thế ký 20, đảo bị Nhật chiếm đóng, cho mãi tới khi chiến tranh thế giới II kết thúc, Nhật đầu hàng Đồng minh giao trả cho Trung Hoa Quốc Gia.
Ngày 10 tháng 12 năm 1949, Quốc Dân đảng bị cái gì đó Trung Hoa đánh bại, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, và năm 1950, khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Hoa Kỳ bèn phái Hạm đội 7 tới canh chừng quần đảo này.
Trong chiến tranh Triều Tiên, vì thấy Trung Cộng phái 200 ngàn chí nguyện quân qua giúp Bắc Triều Tiên nên tháng Giêng 1953, Tổng thống Eisenhower chính thức tuyên bố hủy bỏ chính sách trung lập hóa Đài Loan và ra lệnh cho Hạm đội 7 sẵn sàng hành động nếu Trung Cộng lại có một âm mưu mới như ở Triều Tiên.
Lệnh này của Tổng thống Eisenhower phù hợp với tin tức tình báo hồi đó nói rằng Trung Cộng đã tập trung khoảng 400 ngàn quân đóng ở vùng Hạ Môn với 1.600 thuyền buồm, 360 thuyền máy và 30 pháo thuyền, trong lúc quân Quốc Dân đảng chỉ có khoảng 350 ngàn binh sĩ với chiến xa, đại bác đủ loại và độ 50 phi cơ cùng 80 chiếc tàu thuỷ.
Cơn sốt ở biển Đài Loan đã lên cao tới tột độ hồi năm 1954 với những sự kiện như trên. Hồi đó, ai cũng tưởng sau chiến tranh Triều Tiên thế nào Trung Cộng cũng dốc toàn lực giải phóng Đài Loan, nhưng mộng lớn của Trung Cộng không thành, vì có sự bảo vệ chính thức của Hoa Kỳ đối với quần đảo này.
Tình trạng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Cộng cứ kéo dài như vậy cho tới đầu năm 1971 thì đột nhiên có biến chuyển trọng đại, mặc dầu trong quãng thời gian dài đó, chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp tục leo thang và Trung Cộng không ngớt kết án Hoa Kỳ là “đế quốc hiếu chiến xâm lăng”.
Biến chuyển trọng đại ở đây là việc Trung Cộng đột nhiên mời đội bóng bàn Hoa Kỳ qua chơi, và các cầu thủ trong đội bóng này được Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón hết sức niềm nở. Để đáp lễ, đầu tháng 4-1971, một đội bóng bàn Trung Cộng cũng được mời qua đấu giao hữu tại nhiều Tiểu bang bên Hoa Kỳ.
Việc hai nước thù nghịch trao đổi phái đoàn thế thao là một sự kiện gây chú ý cho toàn thế thế giới, nhất là khi hãng thông tấn TASS của Nga Sô ngày 16-4-1971 đăng ý kiến rằng “Mối liên lạc Mỹ - Trung Cộng có liên hệ tới việc Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn thỏa hiệp về với Đông Dương”.
Tiếp theo màn “ngoại giao thể thao”, tin AP đánh đi ngày 19-4-1971 cho biết Thượng nghị sĩ Henry Bellmon thuộc đảng Cộng hòa Tiểu bang Oklahoma, từng được xem như một nhân vật bảo thủ, tuyên bố “Chế độ Bắc Kinh phải được nhìn nhận về mặt ngoại giao... Dân chúng Mỹ có thể trông thấy tính cách vô ích trong việc tiếp tục không cần biết đến sự hiện diện của một dân tộc chiếm một phần tư dân số thế giới mà cách đây 25 năm đã là thân hữu và khách hàng có giá trị của Hoa Kỳ”.
Mặt khác, cũng trong khoảng thời gian trên, các nhà kinh doanh Hoa Kỳ ở San Francisco rằng việc mở lại giao thương với Hoa Lực không cần phải chờ đợi đến khi Hoa Kỳ chính thức nhìn nhận Bắc Kinh. Các nhà kinh doanh này nhấn mạnh rằng “Thương mại trực tiếp với Hoa Lục không những là một cuộc kinh doanh hấp dẫn mà còn có thể là đường lối hữu hiệu nhất chấm dứt căng thẳng chính trị giữa hai nước”.
Cũng lúc với những lời tuyên bố trên đây, Ủy ban thương mại của thành phố Chicago ngày 19-4-1971 đã đốc thúc tất cả các nông gia hãy ghi số nông sản không có giá trị chiến lược vào danh sách những hàng hóa xuất cảng sang Trung Cộng và nhiều tổ chức khác lên yiếng yêu cầu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hủy bỏ lệnh cấm công dân Mỹ du lịch qua Hoa Lục.
Tiến xa hơn việc trao đổi phái đoàn thể thao và thương mại, ông W. Rostov, cố vấn cao cấp của cựu Tổng thống Johnson, giống như ông Henry Kissinger hiện tại đối với Tổng thống Nixon, tuyên bố rằng sắp đến lúc chín mùi để đưa Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc.
Trong lúc đó nhiều tin tức được loan truyền về ý định của Tổng thống Nixon muốn qua thăm Bắc Kinh. Tổng thống nói rằng “Nếu có một việc tôi muốn làm trước khi chết thì đó là việc sang thăm Hoa Lục. Nếu tôi không được làm như thế thì tôi mong các con tôi sẽ làm được”.
Khi những tin này được ban ra thì tại Bắc Kinh, trong một cuộc tiếp kiện nhà văn Hoa Kỳ Edgar Snowm Chủ tịch Mao Trạch Đông nói ông rất hoàn nghênh việc Tổng thống Nixon qua thăm Trung Hoa, và được hân hạnh hội đàm với Tổng thống với tư cách là khách du lịch hay tư cách vị lãnh đạo Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Tháng 7 1971, ý muốn của Tổng thống Nixon sang thăm Trung Hoa đã tiến gần tới sự thật qua việc cố vấn an ninh riêng của Tổng thống là ông Henry Kissinger chuẩn bị qua Bắc Kinh. Tất cả những bối tối của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Chu Ân Lai - Kissinger làm cho ngưới ta tin rằng quả thật đã có một cuộc thương thuyết, vì nếu không thì làm sao các nhà lãnh đạo Bắc Kinh lại đột ngột mời Tổng thống Nixon qua thăm.
Việc Tổng thống Nixon chuẩn bị công du Bắc Kinh làm cho hình ảnh chiến tranh Việt Nam nổi bật lên hồi bấy giờ. Hầu hết dư luận chính giới quốc tế đều nghĩ rằng Tổng thống Nixon muốn chấm dứt cuộc chiến tại VN vì ông phải làm như thế mới hy vọng tái đắc cử trong cuộc bầu cử ngày 4.11-1972, và muốn chấm dứt như thế, tất nhiên phải nhờ tới ảnh hưởng cùng thế lực của Bắc Kinh.
Tuy nhiên. tại phiên họp hòa đàm Ba Lê ngày 16-4-1971, Xuân Thủy vẫn khẳng định rằng Bắc Việt sẽ không chấp nhận bất cứ một giải pháp nào trừ phi giải pháp đó bao gồm sự triệt thoái đơn phương toàn thể binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Nam Việt Nam, và ngừng hoàn toàn các vụ không tập Bắc Việt cùng những hoạt động xâm phạm chủ quyền an ninh Bắc Việt, tuyệt đối Xuân Thủy không đả động gì tới việc các nhà lãnh đạo Bắc Kinh mời Tổng thống Nixon qua chơi. Sự kiện này khiến dư luận nghi ngờ đến thế lực thật sự của Trung Cộng đối với Hà Nội, nhất là khi người ta nghe Đài phát thanh Bắc Việt và Việt Cộng nói rằng “mọi mưu mô của Tổng thống Nixon muốn có áp lực Trung Cộng buộc Cộng sản Việt Nam thỏa hiệp ngừng chiến sẽ bị bác bỏ”.
Dầu Thế giới Tự do lo ngại, dầu cộng sản Bắc Việt khẳng định, và dầu các nhà lãnh đạo Trung Cộng trấn an, nhưng mọi việc vẫn được tuần tự tiến hành để mở đầu cho kỷ nguyên bang giao giữa Mỹ và Trung Cộng.
Kỷ nguyên này được đánh dấu trước tiên qua lời tuyên bố của Ngoại trưởng Hoa Kỳ William Rogers ngày 3-8-1971, Rogers loan báo rằng Hoa Kỳ sẽ biểu quyết cho Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc, còn vấn đề chiếc ghế Trung Hoa Quốc Gia thì do các hội viên cơ quan này quyết định.
Lời tuyên bố trên đây của Ngoại trưởng Rogers tuy có gặp vài phản ứng, nhưng Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trong phiên họp ngày 27-9-1971, với một đa số tuyệt đối (76 thuận, 35 chống và 17 phiếu trắng), đã quyết định thâu nhận Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc và loại Trung Hoa Quốc Gia ra ngoài.
Quyết định của Liên Hiệp Quốc đã gây một xúc động mạnh mẽ trong hàng ngũ những quốc gia chống Cộng tại Thái Bình Dương, làm cho nhiều nước lo ngại Đài Loan sẽ bị cô lập về cả quân sự, chính trị lẫn kinh tế, vì tiếp theo đó, một số quốc gia từ trước đến nay vẫn thừa nhận Trung Hoa Quốc Gia, liền vội vã công nhận chế độ Bắc Kinh và tuyên bố coi Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Cộng. Trong số các quốc gia này có Nhật, Anh, Ý, Canada v.v...
Sau khi Trung Cộng bước chân vào Liên Hiệp Quốc từ ngày 16-10-1971, Tiến sĩ Kirssinger bay qua Bắc Kinh, và tiếp theo, nhiều phái đoàn khác của Hoa Kỳ cũng lần lượt lên đường sang Hoa Lục, sửa soạn cho chuyến công du của Tổng thống Nixon vào đầu năm 1972.
Cuộc công du lịch sử mà thế giới chờ đợi thực sự diến ra vào sáng thứ Hai ngày 21-2-1972, khi chiếc phi cơ đặc biệt Spirit-76 chở Tổng thống Nixon cùng phu nhân và phải đoàn tháp tùng hạ cánh xuống phi trường Bắc Kinh hồi 11 giờ 28 phút.
Hôm ấy, chiếc phi cơ chở Tổng thống Mỹ, từ sáng sớm tinh sương, đã rời đảo Guam bay lửng lờ trên không trung qua Thái Bình Dương và khi bắt đầu vào không phận Hoa Lục thì không còn được hộ tống.
Đừng nói các đoàn máy bay khu trục phản lực hộ tổng. ngay cả phi hành đoàn điều khiển chiếc Spirit-76 của Tổng thống Nixon cùng phái đoàn tùy tùng cũng được lệnh thay đổi thường phục, vì nhà cầm quyền Bắc Kinh đã có lời yêu cầu, tuyệt đối không một cái gì mang mầu sắc quân sự lọt vào lãnh thổ Trung Cộng, nếu không nghe lời thì sẽ bị coi là “hành động khiêu khich”.
Trước khi tới Bắc Kinh, Tổng thống Nixon và đoàn tùy tùng tạm ghé Thượng Hải, và cái nhìn đầu tiên của vị lãnh đạo Hiệp Chủng Quốc trên đất Hoa Lục là cái nhìn ngỡ ngàng, bởi vì nghi lễ đón tiếp dành cho ông không giống với bất cứ xứ nào mà ông ông từng thăm viếng.
Kiều Quán Hoa, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Cộng, trong bề ngoài bảnh bao lịch sự, giống như một nhân vật thượng lưu tại các nước tư bản châu Âu, hướng dẫn phái đoàn Trung Cộng tới tận cầu thang đón chào Tổng thống Hoa Kỳ, rồi hướng dẫn vào phòng khách phi trường.
Các thông tín viên quốc tế tháp tùng Tổng thống Nixon tường thuật rằng mặc dầu phi trường Thượng Hải đã được sửa sang và trang hoàng lịch sự nhưng nó vẫn mang màu sắc cằn cỗi khô khan.
Trong phong đợi, ngoảnh nhìn phía nào cũng bắt gặp hình ảnh các lãnh tụ Cộng sản như Các Mác, Lenin, Mao Trạch Đông v.v... Tổng thống Nixon không để ý mấy đến những bức ảnh này, ông chỉ nhìn thoáng qua rồi nói văn tắt một câu với những nhân vật cao cấp Trung Cộng đứng chung quanh: “Đây là hình các triết gia”.
Tổng thống và phu nhân cũng lướt qua mấy quầy hàng nơi phi trường, nhưng không mua sắm gì, vì những món hàng này toàn là đồ tiểu công nghệ, lạ thì có lạ, nhưng không thể nói là đặc biệt.
Sau khi tậm ghé Thượng Hải một giờ để tiếp nhiên liệum chiếc Spirit-76 lại cất cánh bay đi Bắc Kinh.
Trên đường tói thủ đô nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Tổng thống Nixon đã tuyên bố với báo chí rằng Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai là những người có đầu óc thiên về triết lý, có những quan điểm cùng krh về lâu về dài, vì thế, Chính phủ Hoa Kỳ cũng phải có những kế hoạch tương tự. Tổng thống cũng để mặc phái đoàn Trung Cộng ngồi một mình ở phòng ngoài trên phi cơ, bước vào phòng riêng làm việc với cố vấn Kissinger.
Tại Bắc Kinh, hình ảnh đầu tiên đập vào măt Tổng thống Nixon là bức chân dung Mao Trạch Đông cao bằng tòa nhà 6 taàng đứng sừng sững ngay trước phi cảng. Ngoài bức chân dung là một khẩu hiệu kẻ bằng Hoa ngữ mầu đỏ máu, mỗi chữ cao chừng 6 thước, nói rằng “Vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới thế giới liên hiệp lại”.
Trước ngày lên đường sang Bắc Kinh, Tổng thống Nixon có học một ít chữ nho, nhưng ông vẫn không đủ vốn liếng để đọc nổi nguyên vẫn tấm khẩu hiệu. Thoạt đầu, ông tưởng đó là những lời chào mừng mình, sau ông mới vỡ lẽ khi được một nhân viên tháp tùng giải thích.
Mặc dầu giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh đã có thảo luận trước về lễ nghi đón tiếp, nhưng khi thấy quang cảnh phi trường Bắc Kinh quá buồn tẻ và không khi buổi lễ quá đơn giản, Tổng thống Nixon đã để lộ trên nét mặt một thoáng thất vọng, song rồi ông lại vội tươi cười ngay.
Qua. thật lễ nghi đón tiếp Tổng thống Nixon tại phi trường Bắc Kinh không xứng đáng với vị nguyên thủ của một siêu cường quốc, vì nó bị đơn giản hóa đến mức tối đa.
Phía Trung Quốc, có 360 binh sĩ thuộc các binh chủng Hải - Lục - Không quân dàn chào. Những binh sĩ này từng thăm gia “chiến tranh chống đế quốc Hoa Kỳ” tại Triều Tiên hồi 1950-1953, và khi Tổng thống Nixon bước xuống cầu thang phi cơ thì họ đồng thanh hát bài “Ba điều kỷ luật, tám điểm lưu tâm”. Đây là một bài hát hoàn toàn có tính cách tuyên truyền nội bộ chứ chẳng ăn nhập gì với nghi lễ ngoại giao.
Ngoài số binh sĩ trên này, có rất ít viên chức Trung Quốc hiện diện trong cuộc đón tiếp, chỉ thấy Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Cơ Bằng Phi và bảy nhân vật trung câp khác. Chủ tịch Mao Trạch Đông vắng mặt, viện lẽ rằng hiện thời ông không giữ chức vụ gì trong chính quyền. Số ký giả ngoại quốc đón Tổng thống Nixon tại phi trường Bắc Kinh đông gấp 10 lần các nhân vật Trung Cộng.
Trên đường từ phi trường về thủ đô Bắc Kinh, quang cảnh cũng tẻ nhạt không kém, tuyệt đối chẳng thấy bóng một người dân Trung Hoa nào đón chào vị thượng khách, đến nỗi Tổng thống Nixon và phái đoàn tùy tùng có cảm tưởng rằng họ là “những người Mỹ cuối cùng còn sót lại giữa trần gian”. Qua khung cửa kính xe hơi, Tổng thống Hoa Kỳ chỉ thấy cây cối tiêu điều và những cửa kính nước đông thành đá.
Việc các nhà không được Trung Cộng tiếp đón Tổng thống Nixon một cách tẻ nhạt khiến người ta nhớ lại hồi tháng 3-1970, khi Sihanouk từ Mạc Tư Khoa qua Bắc Kinh, mặc dầu lúc bấy giờ đã bị Lon Nol truất phế, song ông vẫn được đón tiếp một cách vô cùng trọng thế, đúng theo cương vị một vị Quốc trưởng. Sự kiện này đã làm dư luận thế giới xầm xì, và Chính phủ Trung Cộng phải lên tiếng giải thích rằng họ đón tiếp Tổng thống Nixon với tư cách “vừa là bạn, vừa là thù”.
Dẫu là bạn hay là thù thì quốc gia đầu tiên lên tiếng công kích cuộc công du Bắc Kinh của Tổng thống Nixon lại là Nga Sô.
Những ngày chuẩn bị cũng như suốt thời gian Tổng thống Nixon hiện diện ở Bắc Kinh, và cả về sau, không ngày nào đài Mạc Tư Khoa không đưa đầu đề này ra để mạt sát công kích Trung Cộng. Đài Mạc Tư Khoa nói rằng “chính Mao đã lậy Nixon chứ không phải Nixon lậy Mao”, và tố cáo Mao cấu kết với kẻ thù tư bản đế quốc, phản bội các nước theo chủ nghĩa xã hội i, nhất là phản bội nhân dân Đông Dương.
Những lời tố cáo này được Đài phát thanh Bắc Kinh bắt chước lập lại, vì hơn hai tháng sau, ngày 22-5-1972, Tổng thống Nixon lại mở cuộc công du Mạc Tư Khoa, và bị Trung Cộng coi đó là một âm mưu câu kết, gây chia rẽ.
Hai cuộc công du lịch sử của Tổng thống Nixon qua hai quốc gia đàn anh Cộng sản, được dư luận coi là có liên quan tới chiến tranh Việt Nam, vì nhiều người tiên đoán rằng sau hai cuộc công du này thế nào một giải pháp cho vấn đề Việt Nam cũng đạt được.
Một thỏa hiệp cho vấn đề Việt Nam có đạt được trong tương lai hay không thì chưa rõ, chỉ biết rằng sau hai chuyến công du, Trung Cộng và Nga Sô đã ký kết với Hoa Kỳ nhiều hiệp định thương mại quan trọng, lên đến hàng chục tỷ Mỹ kim, và một số quốc gia châu Á, câu Âu đã cử phái đoàn sang Hoa Lục nghiên cứu thể thức giao thương, bỏ vốn đầu tư, mở ra kỷ nguyên bang giao mới với Trung Cộng.
Trong khi đó, chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp tục mở rộng và leo thang tới mức độ kinh khủng, mỗi ngày có hàng trăm phi vụ do Không lực Hoa Kỳ thực hiện dội hàng trăm ngàn tấn bom xuống cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, đặc biệt từ 18-12-1972, ngày nào cũng có trên một trăm phi vụ B-52 tham gia các cuộc oanh tạc.
Sự kiện này giải thích tại sao Nga Sô, Trung Cộng lại không có một biện pháp nào hữu hiệu và tích sực đối với Mỹ trong việc phong tỏa Bắc Việt, và tại sao một cường quốc như Hoa Kỳ mà lịch sử chứng minh chỉ có thắng chứ không hề thua lại không thể đánh gục tiểu nhược quốc Bắc Việt, khiến chiến tranh cứ tiếp tục bằng đủ loại vũ khí tối tân, mà khiến hòa đàm - mật đàm cứ dây dưa mà một thỏa hiệp ngừng bắn vẫn chưa đạt được.
Nhìn vào các cuộc mật đàm Ba Lê giữa Kissinger - Lê Đức Thọ, điều mà nhiều người e ngại không hẳn là việc sợ Mỹ ký kết riêng rẽ với Bắc Việt một thỏa hiệp bât lợi cho Nam Việt Nam, mà ở chỗ trong khi vừa mật đàm thì đôi bên vẫn đưa ra những điều kiện gài bẫy nhau, và đều tăng cường nỗ lực chiến tranh. Như vậy, một thỏa hiệp, nếu đạt được, dù lợi hay hại về bên nào thì mầm mống chiến tranh vẫn còn, hòa bình vẫn chưa thể tới với dân tộc Việt Nam một cách trường cửu.
Mầm mống chiến tranh Việt Nam vẫn còn thì điều này có nghĩa là ngọn lửa chiến tranh đó sẽ bén dần tới các quốc gia Đông Nam Á, trước hết là Thái Lan.
Việc mở rộng chiến tranh tại vùng Đông Nam Á là điều không thể tránh khỏi, vấn đề chỉ chờ thời gian và cơ hội chín muồi mà thôi, vì thực chất chiến tranh ở vùng này là nằm trong âm mưu do siêu cường, muốn làm cho các dân tộc nhược tiểu kiệt quệ đi, để họ dễ áp lực và bành trướng ảnh hưởng.
Với âm mưu đó, chiến tranh chỉ có thể mở rộng và leo thang, chứ không gặp những điều kiện thuận lợi để đi đến chỗ dập tắt.
Riêng trong chiến tranh Việt Nam, cho tới nay, người ta vẫn chưa hội đủ điều kiện để chấm dứt. Thì làm dập tắt vĩnh viễn ngọn lửa chiến tranh đó khi mà nó liên hệ tới toàn bộ tình hình vùng Đông Nam Á, và khi mà những vấn đề chính tri cục bộ tại Nam Việt Nam - Lào - Kampuchea chưa có căn bản giải quyết?
Chiến tranh Việt Nam chỉ có thể giải quyết chiến dịch một lúc với vấn đề Lào và Cao Miên, nếu giải quyết riêng rẽ, hòa bình chẳng những không bảo đảm mà ngọn lửa chiến tranh có khi nổ bùng còn ác liệt hơn.
Giải quyết cùng một lúc, xem ra chẳng dễ dàng gì vĩ mỗi nước trên bán đảo Đông Dương có một hoàn cảnh riêng, một vị trí riêng, và nhất là cả Mỹ lẫn Bắc Việt đều có những lý do riêng để từ chối một sự giải quyết như vậy.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: casau, MHN
Hiệu đính: casau
Nguồn: Nhà xuát bản : Trí Dũng
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 14 tháng 7 năm 2012

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--