---~~~mucluc~~~---

Phần III - BẮT ĐẦU RẠN NỨT
P3.IA.BẮT ĐẦU RẠN NỨT
1.QUÁN TACAXTƠ.

    
hời ấy, Luân Đôn chỉ có một cái cầu là cầu Luân Đôn, với một số nhà nằm trên. Cầu này nối liền Luân Đôn với Xaothuak, vùng ngoại ô lát bằng loại đá cuối sông Tami, gồm toàn phố nhỏ và ngõ hẹp, nhiều chỗ rất hẹp và cũng như trong thành phố, rất nhiều nhà cửa, chỗ ở và chòi gỗ, một thứ tạp nham dễ cháy làm mồi cho thần hỏa hoành hành. Năm 1666 đã chứng minh điều ấy.
Hồi bây giờ Xaothuak đọc là Xuđric; ngày nay người ta đọc thành Xuxuok, gần đúng. Vả lại cách đọc các tên Anh tốt nhất là chẳng đọc gì cả. Như Xaothamton thì cứ nói Stpntn.
Đấy là thời mà Satam được đọc là Giơtem[1].
Xaothuak thời ấy giống như Xaothuak ngày nay, cũng giống như Vôgira giống Macxây. Đó là một thị trấn; một thành phố. Tuy vậy, ở đấy giao thông đường biển cũng rất tấp nập. Trong một bức tường cũ khổng lồ trên sông Tami có gắn những khoanh sắt để buộc các loại tàu thuyền chạy trên sông. Bức tường ấy gọi là tường Epfrôc hay là Epfrôc-Xton. York, hồi còn thuộc Xăcxơ, tên là Epfrôc. Tục truyền có một vị công tước xứ Epfrôc chết đuối dưới chân bức tường ấy. Nước ở đấy quả tình khá sâu đối với một công tước. Lúc triều xuống vẫn còn sáu sải có dư. Cái bến nhỏ này tốt nên nó thu hút tầu thuyền đi biển và chiếc thuyền bầu cổ của Hà Lan, tức là chiếc Vôgrat, đến buộc tại Epfrôc-Xton. Thuyền Vôgrat, chạy thẳng một tuần một chuyến từ Luân Đôn đến Rôtecđam và từ Rôtecđam đến Luân Đôn. Các thuyền khác chạy hai chuyến một ngày, hoặc đi Depfor, hoặc đi Grinuyt, hoặc đi Grevơxen, tùy theo con nước lên xuống. Quãng đường đến Grevơxen, mặc dầu dài đến hai mươi hải lý, đi mất có sáu tiếng.
Thuyền Vôgrat thuộc kiểu ngày nay ta chỉ được thấy trong các viện bảo tàng hàng hải. Thứ thuyền bầu này gần giống chiếc đò. Thời đó, trong khi nước Pháp bắt chước Hylạp thì Hà Lan bắt chước Trung Quốc. Thuyền khoang rất kín, vuông góc, với một buồng sâu ở giữa thuyền và hai sàn tàu, một phía trước, một phía sau, có sàn thấp giống như những tàu sắt có tháp canh nhỏ ngày nay, nhờ vậy có điểm lợi là ít bị sóng đập lên thuyền những lúc gió to, và điểm bất tiện là thủy thủ dễ bị sóng hất xuống biển vì thiếu lan can. Không có gì ngăn giữ lại trên boong người sắp ngã. Vì vậy thường xảy ra tai nạn rơi xuống hiển và mất xác khiến phải bỏ loại thuyền ấy. Thuyền Vôgrat đi thẳng một mạch sang Hà Lan, và đến Grevơxen cũng không đỗ lại.
Một mép gờ bằng đá kiểu cổ, vừa bằng đá tảng vừa xây gạch, chạy dọc bên dưới Epfrôc-Xton, nước lên hay xuống cũng vẫn đi lại được, giúp cho việc lên xuống các tàu thuyền buộc vào tường được dễ dàng. Từng quãng, từng quãng, bức tường cũ lại có cầu thang cắt ngang. Nó đánh dấu mũi nam của Xaothuak. Một chỗ đắp cao cho phép người qua lại tì tay lên Epfrôc-Xton Như tì vào lan can bến tàu. Từ đó nhìn thấy sông Tami. Bên kia dòng nước, là hết Luân Đôn. Chỉ còn có đồng ruộng.
Phần trên Epfrôc - Xton, chỗ khuỷu sông Tami, gần đối diện với lâu đài Xanh Giêm, sau lưng Lambet- Haodơ, không xa con đường dạo chơi lúc ấy gọi là Focxhon[2], giữa một lò gốm làm đồ sứ và một lò thủy tinh làm chai vẽ hoa, có một bãi đất hoang cỏ mọc xanh um, ngày xưa ở Pháp gọi là đất trồng trọt, đường dạo chơi, và ở Anh gọi là bolinh-grin. Từ chữ bolinh-grin - thảm cỏ xanh để lăn một hòn cù, chúng ta có chữ bolinh- grin[3]. Ngày nay, trong nhà người ta vẫn có loại bãi cỏ như thế, có điều người ta đưa nó lên bàn, nó bằng dạ chứ không phải bằng cỏ xanh, và người ta gọi nó là bàn bi-a.
Vả lại không hiểu tại sao đã có từ bulova (hòn cù xanh), cũng vẫn là từ bolinh-grin. Kể cũng kỳ lạ, một nhân vật nghiêm trang như từ điển mà cũng có những khoản xa xỉ vô ích như vậy.
Bãi cỏ xanh của Xaothuak hồi ấy gọi là Tarinhzô-phin, vì trước thuộc các nam tước Haxtinh, vốn là nam tước Tarinhzô và Môsơlin. Từ tay lãnh chúa Haxtinh, Tarinhzô-phin chuyển sang tay lãnh chúa Tacaxtơ, những vị này đã khai thác nó trước mắt công chúng, cũng như về sau một công tước xứ Orlêăng đã khai thác Pale-Royan. Rồi sau đó Tarinhzô-phin trở thành đồng cỏ hoang và tài sản của giáo khu.
Tarinhzô-phin là một thứ bãi chợ phiên, thường xuyên, rộn ràng bọn ảo thuật, đi dây, múa rối, cánh nhạc sĩ sân khấu, và lúc nào cũng đầy dẫy bọn ngốc nghếch đến "nhìn quỉ sứ", như ngài tổng giám mục Sacpơ vẫn nói. Nhìn quỉ sứ tức là đi.
Nhiều quán rượu, lấy khách từ các rạp hát chợ phiên ấy và cũng gửi khách đến đấy, nhìn ra cái bãi quanh năm hội hè kia mà phát đạt. Các quán rượu ấy chỉ là những cửa hàng nhỏ, ban ngày mới có người ở. Tối đến chủ quán đút chìa khóa vào túi quần và ra về. Có độc một quán là nhà hẳn hoi. Khắp cả bãi không có cái nhà nào khác, vì lều lán, chợ phiên luôn luôn có thể biến mất trong chốc lát; tất cả cánh làm trò kia chẳng có gì ràng buộc và lúc nào cũng lang thang. Dân nghề múa rối sống một cuộc đời mất gốc.
Quán rượu ấy có tên là quán Tacaxtơ, lấy tên các lãnh chúa cũ, giống nhà trọ hơn quán rượu, và giống lữ quán hơn nhà trọ, có một cửa cho xe ra vào và một cái sân khá rộng.
Cửa xe ra vào mở từ sân ra bãi chợ phiên là cửa chính thức của quán Tacaxtơ, và bên cạnh là một cái cửa phụ cho người ra vào. Phụ tức là ưa thích. Cái cửa thấp này là cửa ra vào duy nhất. Nó mở thẳng vào tiệm rượu, một cái nhà tồi tàn, thênh thang, ám khói, kê bàn, trần thấp lè tè. Tầng trên có một cửa sổ. Cửa lớn, có chốt có then cố định, lúc nào cũng đóng im ỉm. Phải đi qua tiệm rượu mới vào được sân.
Trong quán Tacaxtơ có một chủ và một tớ. Chủ tên Nicơlex, tớ tên Gôvicâm. Ông Nicơlex - chắc hẳn là Nicôla biến thành Nicơlex do lối phát âm của người Anh - là một lão goá vợ hà tiện, run rẩy, luôn luôn tôn trọng pháp luật. Thêm lông mày chổi sể và bàn tay lông lá.
Còn thằng bé mười bốn, chuyên bưng bê và hễ ai gọi Gôvicâm thì dạ, có một cái đầu to hay toe toét với một chiếc tạp dề. Nó húi trọc, dấu hiệu của phận tôi đòi.
Nó ngủ ngay tầng trệt, trong một buồng xép, nơi trước kia người ta nuôi chó. Buồng xép có một cái lỗ con thay cửa sổ nhìn ra bãi.

2. HÙNG BIỆN GIỮA TRỜI

Một buổi chiều gió to khá lạnh, đầy đủ lý do trên để rảo bước ngoài phố, một người đang đi trên cánh đồng Tarinhzô, men theo bức tường quán Tacaxtơ, bỗng dừng lại. Lúc ấy, vào quãng cuối đông năm 1704 – 1705. Người ấy, ăn mặc như thủy thủ, có dáng vẻ khỏe mạnh, tầm vóc cân đối, điều quy định với triều thần và không cần đối với thường dân. Tại sao y đứng lại? Để nghe. Nghe gì? Một giọng người đang nói. Chắc hẳn ở trong sân, bên kia bức tường, giọng có hơi già yếu, nhưng vẫn sang sảng, đến nỗi người qua lại ngoài đường ai cũng nghe. Đồng thời, trong khu vực có tường bao quanh mà giọng nói kia đang huyên thuyên, có tiếng ồn ào của đám đông. Giọng người kia nói:
- Thưa quí ông và quí bà Luân Đôn, tôi đã tới. Tôi xin thân ái chúc mừng quý vị là những công dân nước Anh. Quí vị là một dân tộc vĩ đại. Hơn thế nữa, quí vị là tầng lớp hạ lưu vĩ đại. Nắm đấm của quí vì còn đẹp hơn đường kiếm của quí vị. Quí vị luôn luôn thèm khát. Quí vị là quốc gia quen ăn các quốc gia khác. Chức năng thật tuyệt vời. Cái lối hấp thụ thế giới đó sắp xếp nước Anh riêng biệt sang một bên. Về mặt chính trị và triết học, và cai quản thuộc địa, dân số, công nghệ, và về mặt quyết tâm gây tai hoạ cho kẻ khác nhưng đối với mình lại là điều có lợi, thì quí vị thật độc đáo và phi thường. Đã gần đến lúc trên trần gian có hai tấm bảng, một cái ghi: phía dành cho người, một cái ghi: phía dành cho công dân Anh. Tôi nhận xét như vậy vì vinh quang của quí vị bởi tôi không phải là công dân Anh cũng không phải là con người, nhưng tôi có các vinh dự là một bác sĩ. Hai mặt ấy đi đôi với nhau. Thưa quí vị hào hoa phong nhã, tôi làm nghề đi dạy. Dạy gì? Hai điều, những gì tôi biết và những gì tôi không biết. Tôi bán thuốc và cho ý kiến. Xin quí vị xích lại gần đây và hãy lắng nghe, khoa học đang mời chào quí vị. Xin quí vị dỏng tai lên. Nếu tai bé, nó sẽ nắm được ít chân lý, nếu tai to, nhiều điều ngu ngốc sẽ lọt vào. Vậy xin chú ý. Tôi dạy Xođôđôxya Epiđêmica. Tôi có một anh bạn chuyên môn gây cười, còn tôi, tôi thích suy nghĩ. Chúng tôi cùng ở chung một cái hộp, cái cười vốn cũng con nhà gia giáo như hiểu biết. Khi người ta hỏi Đêmôcrit: Nhờ đâu mà ông biết? Ông đáp: Tôi cười. Còn tôi, nếu ai hỏi tôi: Tại sao ông cười? Tôi sẽ đáp: Tôi biết. Vả lại tôi không cười. Tôi là người uốn nắn những sai lầm của dân chúng. Tôi định tẩy rửa trí tuệ của quý vị. Nó bẩn quá. Chúa cho phép dân chúng bị lầm lẫn và bị đánh lừa. Không nên xấu hổ một cách ngu ngốc, tôi thành thực thú nhận là tôi tin ở Chúa, kể cả khi Chúa mắc phải sai lầm. Có điều khi nào thấy rác rưởi, sai lầm là rác rưởi, thì tôi quét dọn. Làm sao tôi biết được những điều tôi biết cái đó chỉ liên quan đến tôi. Mỗi người thu lượm khoa học theo lối của mình. Lăctăngxơ hỏi một cái đầu Viêcgin bằng đồng, nó trả lời ông: Xinvextơrơ đệ Nhị nói chuyện với chim không nói? Giáo hoàng có hót không? Đấy là những câu hỏi. Đứa con chết rồi của giáo sĩ Do thái Êlêaza nói chuyện với thánh Ôguxtanh. Nói riêng với nhau ở đây, từ hoài nghi tất cả những chuyện ấy. trừ chuyện cuối cùng. Thằng bé chết rồi còn nói được, cứ cho là thế đi, nhưng ở dưới lưỡi của nó có một chiếc lá bằng vàng trên khắc đủ các chòm sao. Quí vị thấy tính phải chăng của tôi. Tôi phân biệt cái đúng cái sai. Đây nhé, có những sai lầm khác mà chắc các vị, các vị đáng thương của dân chúng, mà tôi muốn tránh cho các vị. Điôxcôrit tưởng có Chúa trong cây giuyxkiam. Crixip tưởng có trong cây xinôpaxt. Giôdep tưởng có trong rễ cây bôrax. Hôme lại tưởng trong cây tỏi. Nhầm tuốt. Nằm trong các loại cây ấy, không phải Chúa, mà là quỉ sứ. Điều đó tôi đã xác minh rồi, bảo rằng con rắn cám dỗ Êva có mặt người như Camuy là không đúng. Garxuya Hortô, Cadamôxtô và Giăng Huygô, tổng giám mục xứ Tơrevơ, không công nhận việc chỉ cần cưa một cái cây ra là có một con voi. Tôi xin bái phục trước ý kiến của họ. Thưa quí vị công dân, những cố gắng của Lute là nguồn gốc của mọi ý đến sai lầm. Dưới triều đại của một vị vua như thế, phải xuất hiện những khí tượng sai lầm và hủy diệt. Thưa với quần chúng nhân dân, Claođiux Punse chết không phải vì gà con không ra khỏi chuồng; sự thật do biết trước cái chết của Claođiux Punse. Luxife đã có ý không cho gà ăn. Benzeebut truyền cho hoàng đế Vexpaziêng phép thuật giúp người què đứng được và trả ánh sáng lại cho người mù, bằng cách chạm vào người, đấy là việc hiển nhiên đáng khen nhưng động cơ thì có tội. Thưa các bậc hào hoa phong nhã, xin hãy cảnh giác với những vị "học giả" thường lợi dụng rễ cây brioan và cây culourơ trắng, họ lấy mật ong và tiết gà làm thuốc đau mắt. Các ngài cần thấy rõ chỗ giả dối. Chòm sao Thần nông sinh ra đâu phải do yêu cầu tự nhiên của Giuypite; sự thực là vì Mecquya tạo nên chòm sao ấy như vậy. Việc Ađam có rốn là không đúng. Lúc thánh Giorgiơ giết một con rồng, bên cạnh ông ta không có con gái một vị thánh nào cả. Ở trong phòng thánh Gierôm không có đồng hồ trên lò sưởi, thứ nhất vì đang sống trong động, ông ta không có phòng riêng, thứ hai vì ông không có lò sưởi, thứ ba vì lúc ấy đã làm gì có đồng hồ. Chúng ta phải cải chính lại. Hỡi các vị đang yêu quí đang lắng nghe tôi nói, nếu người ta bảo quí vị rằng: ai ngửi cỏ nữ lang hoa sẽ có thằn lằn sinh ra trong óc, rằng thịt bò thối nở ra trong mật ong, rằng thịt ngựa thối thành ong bò vẽ, rằng người chết nặng hơn người sống; rằng máu dê hoà tan ngọc bích, rằng khi gặp một con sâu, một con ruồi và một con nhện trên cùng một cái cây là điềm đói kém, chiến tranh và dịch hạch, rằng có thể chữa bệnh lão suy bằng một con sâu tìm thấy trong đầu một con hoẵng, thì xin quí vị chớ có tin, đấy chỉ là những điều sai lầm. Nhưng sau đây là một số chân lý: da bê biển chống được sét, cóc ăn đất nên trong đầu nó có hòn sỏi, hoa hồng Giêriczcô nở đêm trước lễ Giáng sinh; rắn không chịu được bóng cây tần bì; voi không có khớp xương buộc phải ngủ đứng, tựa vào cây; các vị cứ cho cóc ấp trứng gà, các vị sẽ được bọ cạp, con này sau đẻ ra kỳ nhông, một người mù sẽ sáng mắt khi đặt một bàn tay lên phía trái bàn thờ, bàn tay kia bịt mắt; tiết trinh không loại trừ sinh đẻ. Hỡi các vị hiền lành, xin hãy nhớ kỹ những điều hiển nhiên ấy, sau đó các vị có thể tin vào Chúa theo hai cách, hoặc như người khát nước tin ở quả cam, hoặc con lừa tin ở cái roi. Bây giờ tôi xin giới thiệu với quí vị con người của tôi.
Đúng lúc ấy một ngọn gió khá mạnh rung chuyển các khung các cửa và ván che quán rượu, vì nó là nột ngôi nhà đứng chơ vơ. Nghe y hệt một liếng rì rầm trên trời. Diễn giả chờ một lúc rồi lại nói át đi:
- Gián đoạn. Được. Gió bắc, mày cứ nói, thưa các vị hào hoa phong nhã, tôi không có giận đâu. Gió vốn ít lời như tất cả những kẻ cô đơn, trên ấy chẳng có ai làm bạn với gió. Cho nên nó phải ăn nói lăng nhăng. Bây giờ tôi lại xin tiếp tục. Các vị được thưởng thức ở đây những nghệ sĩ cùng chung tài hợp sức. Chúng tôi có tất cả 4 người. A lupo principium[4]. Trước tiên tôi bắt đầu bằng anh bạn thân của tôi là một con sói. Nó không hề che giấu đâu đó. Mời quí vị nhìn xem, nó có học, nghiêm trang và minh mẫn. Chắc hẳn Thượng đế đã có lúc định cho làm tiến sĩ trường đại học; nhưng muốn thế phải hơi đần độn một tí, mà nó thì không như vậy. Tôi xin nói thêm, nó không có thành kiến và không quí tộc tí nào. Gặp cơ hội nó cũng chuyện trò với chó cái, mặc dầu nó được quyền lấy một con sói cái. Các thái tử của nó, nếu có hẳn phải hoà tiếng ăng ẳng của mẹ chúng với tiếng rống của bố chúng một cách dễ thương. Vì nó hay rống. Phải rống với người chứ. Nó cũng sủa vì hạ cố văn minh. Một thái độ hoà nhã cao thượng. Ômô là một con chó hoàn hảo. Chúng ta hãy tôn trọng chó. Chó là một loại thú vật rất chi kỳ dị, nó đổ mồ hôi đằng lưỡi và mỉm cười đằng đuôi. Thưa quí vị hào hoa, về mặt khôn ngoan, Ômô sánh ngang, còn về mặt thân ái nó hơn hẳn loại sói không lông ở Mêhicô, giống xôlôitiênixki đáng khen. Tôi xin thêm là nó rất nhún nhường. Nó có cái nét khiêm tốn của một con sói có ích cho người đời. Nó biết giúp đỡ và rất từ thiện, một cách trầm lặng. Chân trái của nó không cần biết chân phải đã có hành động gì tốt. Đấy là những ưu điểm của nó. Còn một người nữa, người hạn thứ hai của tôi, chỉ nói một câu: nó là một con quái vật. Rồi quí vị sẽ được ngắm nhìn nó, trước đây nó bị bọn cướp biển bỏ rơi trên bờ đại dương hoang vắng. Cô này là một cô gái mù. Có phải một biệt lệ không? Không. Tất cả chúng ta đều là những người mù. Anh hà tiện là một thằng mù, thấy vàng mà không thấy cảnh giầu sang. Anh xa xỉ là một thằng mù thấy đoạn mở đầu mà không thấy chỗ kết thúc. Cô ả làm dáng là một con mù, ả không thấy những nếp nhăn của ả. Nhà bác học là một thằng mù, ông không thấy cái dốt của mình. Người quân tử là một thằng mù vì không thấy thằng vô lại. Tên vô lại là một thằng mù nó không thấy Chúa. Chúa là một thằng mù, lúc tạo nên trời đất, Chúa đã không thấy quỉ sứ sẽ len lỏi vào trần gian. Tôi, tôi là một thằng mù, tôi nói mà không thấy quí vị điếc. Con bé mù này, cùng đi với chúng tôi, là một nữ tu sĩ bí mật. Giá ở địa vị mình, Vexta[5] đã trao cho nó que củi cháy dở. Trong tính nết, nó có những chỗ tối tăm hiền lành như những chỗ thiếu sót trên tấm da cừu. Tôi tin rằng nó là con gái vua mà không dám khẳng định. Tính hoài nghi đáng khen vốn là tính chất của người hiền lành. Còn tôi, tôi vẫn quen vật lý và chuyên hành dược[6]. Tôi suy tư và tôi băng bó[7] Chrurgus sum[8]. Tôi chữa các bệnh sốt, chướng khí và ôn dịch. Hầu hết các bệnh phớt tỉnh và đau khổ của chúng ta đều là những thứ mụn nhọt tự gây để rút bớt độc và một khi chữa chạy tốt, chúng tránh cho ta những bệnh khác tệ hại hơn một cách nhẹ nhàng. Tuy thế, tôi không dám khuyên quí vị chuốc lấy một cái nhọt, nói cách khác, một cái đinh râu. Nó là một thứ bệnh chết tiệt vô tích sự. Người ta chết vì nó, nhưng chỉ thế thôi. Tôi không phải dốt nát, cũng chẳng phải quê mùa gì. Tôi tôn trọng khoa hùng biện và thi ca, tôi sống trong một tình thân trong trắng với các nữ thần ấy. Bây giờ tôi xin kết thúc hằng một ý kiến. Thưa quí ông hào hoa, quí bà phong nhã, trong lòng quí vị, từ nơi ánh sáng đến đây, xin quí vị hãy trau dồi đức hạnh, tính khiêm nhường, lòng ngay thẳng, công lý và tình yêu. Dưới trần gian này, mỗi người có thể bằng cách ấy có được một chậu hoa nho nhỏ trên cửa nhà mình. Thưa quí ngài quí tộc và quí ông, tôi đã nói xong. Trò vui sắp bắt đầu.
Anh chàng có lẽ là thủy thủ, từ nãy vẫn đứng nghe phía ngoài, liền bước vào căn phòng thấp của quán rượu đi ngang qua phòng, trả mấy xu vào cửa, đi tuốt vào một cái sân chật ních công chúng, nhận thấy ở cuối sân có một cái lán có bánh xe, cửa mở toang, và thấy trên sân khấu một ông già mình khoác tấm da gấu, một chàng trai có vẻ như đeo mặt nạ, một cô gái mù và một con sói.
- Lậy Chúa tôi! - y kêu lên - đúng là những con người tuyệt diệu.

3. NƠI NGƯỜI KHÁCH QUA ĐƯỜNG XUẤT HIỆN LẠI

Hộp Xanh, người ta vừa nhận ra nó, đã đến Luân Đôn. Nó dừng lại ở Xaothuak. Uyêcxuyt bị cái bãi cỏ lôi cuốn, bãi có điểm đặc biệt là ở chợ phiên không bao giờ vắng người, kể cả mùa đông.
Được nhìn cái mái tròn của nhà thờ Thánh Pôn, Uyêcxuyt đã thấy thú vị rồi.
Luân Đôn nói chung là một thành phố có mặt hay.
Việc hiến dâng một ngôi nhà thờ lớn cho Thánh Pôn biểu thị một hành vi dũng cảm. Ngôi nhà thờ lớn thật sự thiêng liêng là nhà thờ Thánh Pie. Người ta ngờ Thánh Pôn có tính chất tưởng tượng, mà về mặt tôn giáo, tưởng tượng tức là tà giáo. Thánh Pôn chỉ là thánh trong trường hợp giảm khinh thôi, ông chỉ bước vào cõi đời qua cái cửa của các hoạ sĩ.
Một toà nhà thờ lớn là một biểu tượng. Nhà thờ Thánh Pie tượng trưng cho La Mã, thành phố giáo lý; nhà thờ Thánh Pôn mang dấu hiệu Luân Đôn, thành phố của ly giáo. Triết lý của Uyêcxuyt có những cánh tay dài đến nỗi nó chứa đựng tất cả mọi thứ, ông là người biết đánh giá những điểm khác biệt ấy, vả Luân Đôn quyến rũ ông có lẽ phần nào cũng do ông thích thánh Pôn.
Cái sân lớn của Tacaxtơ đã khiến Uyêcxuyt quyết định việc lựa chọn. Hình như cái sân này đã được dự kiến dành cho Hộp Xanh; quả là một rạp hát hoàn chỉnh. Sân hình vuông, ba mặt có nhà xây, với một bức tường đối diện có các tầng lầu, lấy chỗ cho Hộp Xanh dựa lưng, lại thêm cái cổng xe rộng thênh thang làm cửa ra vào. Một dãy ban-công to hằng gỗ, có mái che do một hàng cột đỡ, dùng làm chỗ đi lại cho những phòng tầng một, áp vào ba bức vách của mặt tiền bên trong sân, với hai góc thước thợ. Các cửa sổ tầng trệt dùng làm hạng lô[9], dưới nhà, nền sân là hạng trước mặt sân khấu, và dãy bao lơn là ban-công.
Hộp xanh, xếp sát vào bức tường, có cả cái phòng xem hát ấy trước mặt. Giống hệt rạp Quả Cầu, nơi đã diễn Ôtenlô, Vua Lia và Bão táp.
Trong một góc, phía sau Hộp Xanh, có một chuồng ngựa.
Uyêcxuyt đã đàn xếp với ông chủ quán rượu là ông Nicơlex.
Vì tôn trọng luật pháp, ông này đồng ý nhận con sói nhưng phải trả đắt hơn. Cái bảng "Guynplên, Thằng Cười", tháo ở Hộp Xanh ra, được treo cạnh tấm bảng quán rượu. Phòng bán rượu, như ta đã biết, có một cửa trong mở ra sân. Bên cạnh cái cửa ấy, người ta đã dùng một thùng rượu rỗng ứng tạo thành một chỗ ngồi cho "cô thu tiền " lúc là Fipi, lúc là Vinơx. Giống như ngày nay. Vào cửa phải trả tiền. Dưới cái bảng "Thằng Cười", một tấm ván sơn trắng, treo vào hai cái đinh, có dòng chữ to viết bằng than, nhan đề vở kịch lớn của Uyêcxuyt: Hồng hoang chiến bại.
Chính giữa ban-công, ngay trước mặt Hộp Xanh, một phòng có vách chắn hai bên, ra vào bằng một cửa sổ sát đất dành riêng cho "giới quý tộc".
Phòng này cũng khá rộng nên có thể chứa được mười khán giả, ngồi thành hai hàng.
- Chúng ta đang ở Luôn Đôn - Uyêcxuyt nói. - Phải phòng khi có khách quí.
Ông cho trang hoàng khoang "lô" này với những ghế tốt nhất của quán rượu, và đặt ở giữa, một chiếc ghế bành to bọc nhung, núm vàng hoa mận, phòng khi có một pháp quan phu nhân nào đó đến.
Buổi trình diễn đã bắt đầu.
Lập tức quần chúng kéo tới.
Nhưng khoang dành cho quí tộc vẫn bỏ trống.
Trừ điểm ấy ra, kết quả thật mỹ mãn, đến nỗi trong nghề xiếc rong chưa bao giờ thấy được như vậy. Toàn thể Xoathuak đổ tới để ngưỡng mộ Thằng Cười.
Dân hề và múa rối ở cánh đồng Tarinhzô hốt hoảng vì Guynplên. Ấn tượng như lúc một con diều hâu sà xuống một lồng vàng anh và mổ vào cong thức ăn của chúng, Guynplên ngốn hết công chúng của họ.
Ngoài lớp linh tinh: nuốt gươm, nhăn mặt, trên bãi cỏ còn có trò vui thật sự. Có một rạp xiếc toàn đàn bà ầm ĩ suốt từ sáng đến tối vang rộn đủ loại khí cụ, nào trống, nào chuông, nào sáo, nào kèn mục tử, nào tù và Đức, tù và Anh, sáo ngang, sáo dọc. Trong một mái lều rộng, có những người nhảy nhót mà những tay chạy giỏi của chúng ta hiện nay ở Pirênê, Duynma, Bordonavô và Mêlôga cũng không theo kịp, những người này nhảy từ đỉnh Picrơphit xuống đồi Limaxông, nghĩa là gần như rơi xuống. Có một chuồng thú rong. Ở đây khán giả được thấy hổ ăn: con hổ bị người luyện thú quất, cố táp lấy cái roi và nuốt cái dây. Tên hề có mõm và móng vuốt ấy cũng bị át nết.
Lòng hiếu kỳ, tiếng vỗ tay, tiến vào cửa, quần chúng. Thằng Cười thu hút hết. Trong nháy mắt là xong. Chỉ có Hộp Xanh.
- Hồng hoang chiến bại và hồng hoang chiến thắng - Uyêcxuyt nói, tự xem mình có nửa phần trong thành công của Guynplên và kéo khăn bàn về mình, nói theo ngôn ngữ kép hát. Thành công của Guynplên thật là kỳ diệu, tuy nhiên nó vẫn mang tính chất địa phương. Lội qua nước là điều khó khăn đối với một danh tiếng. Tên tuổi của Secxpia phải một trăm ba mươi năm mới từ đất Anh vượt đến đất Pháp; nước là một bức tường thành và nếu Vonte không làm thang cho Secxpia trèo, điều mà về sau ông ta rất tiếc, Secxpia vẫn còn ở bên kia bức tường, bên Anh, giam hãm là một vòng vinh quang trên đảo.
Vinh quang của Guynplên không vượt qua khỏi cầu Luân Đôn. Nó không có tầm cỡ một tiếng vang của đô thành lớn, ít ra là trong buổi đầu. Nhưng Xaothuak có thể cũng đủ thoả mãn tham vọng của một anh hề.
Uyêcxuyt thường nói: "Túi tiền thu nhập cũng như một cô gái sai lầm, cứ phình mãi lên trông thấy".
Họ trình diễn Uyêcxuyt Ruyêxuyt rồi Hồng hoang chiến bại.
Trong giờ nghỉ Uyêcxuyt chứng minh tài nói bằng bụng và thực hành tài nói tiếng bụng cao siêu của mình; ông bắt chước mọi thứ tiếng trong đám khán giả, tiếng hát, tiếng kêu, giống đến mức chính người hát và người kêu cũng phải kinh ngạc; đôi khi ông bắt chước tiếng ồn ào của công chúng và thở phì phò y như một mình ông là đám đông. Tài nghệ thật phi thường.
Ngoài ra, ta vừa thấy xong, ông có tài diễn thuyết như Xixêrông[10] và còn bán các thứ thuốc, chăm sóc các loại bệnh, chữa chạy bệnh nhân nữa.
Xaothuak say sưa mê mẩn.
Uyêcxuyt thoả mãn được Xaothuak hoan nghênh, nhưng ông không vì thế mà ngạc nhiên.
Họ là những tơrinôbăng ngày xưa - Ông nói và tiếp thêm:
- Ta không hề lẫn lộn họ, về mặt tế nhị của thị hiếu, với những atơrôbat cư trú ở Becxơ, với người Bỉ sống ở Xômôcxet và người Pari đã thành lập York. Buổi diễn nào, sân quán rượu, biến thành hạng dưới nhà, cũng chật ních khán giả rách rưới và nhiệt tình.
Họ là những dân chèo thuyền, phu kiệu, thợ đóng tàu, xà ích trên sông, thủy thủ mới lên bờ đem tiền lương nướng vào chè chén và gái đĩ. Có bọn đầy tớ đeo kiếm, bọn ăn chơi phóng đãng và bọn thị vệ đen tức là bọn lính bị phạt về tội kỷ luật, phải mặc áo đỏ lộn lót đen ra ngoài và vì thế mà có tên blekgac từ đó chúng ta biến thành blagơ[11]. Tất cả đám người ấy, từ ngoài đường và vào rạp hát lại đổ xô vào phòng giải khát. Những vại bia không làm hại đến thành công. Trong số quần chúng mà người ta quen gọi là "cặn bã" ấy, có một anh chàng cao hơn cả, to hơn, khoẻ hơn, ít nghèo hèn hơn, vai vuông hơn, ăn mặc như thường dân, nhưng không rách rưới; anh ta hoan hô hết sức ồn ào, chen chỗ bằng quả đấm, đầu đội bộ tóc giả bù xù như quỉ sứ luôn mồm chửi rủa, gào hét, giễu cợt, không chút bẩn thỉu, và cần thì đấm người ta sưng mắt và bỏ tiền ra thết rượu.
Anh chàng quen thuộc ấy là khách qua đường mà ban nãy ta vừa nghe thốt lên câu nói đầy nhiệt tình.
Con người sành sỏi ấy bị mê hoặc ngay từ phút đầu đã tức khắc tán thưởng Thằng Cười. Không phải buổi biểu diễn nào anh ta cũng đến xem. Nhưng lần nào đến là anh ta trở thành nhân vật lôi cuốn công chúng[12]: hoan nghênh biến thành hò hét: thành công lên đến không phải đình màn sân khấu vì không có đình màn mà tận chín tầng mây. Mà cả đến mây xanh, vì không có trần, đôi khi cũng còn đổ mưa xuống kiệt tác của Uyêcxuyt.
Đến nỗi Uyêcxuyt phải để ý tới con người kia và Guynplên phải nhìn y.
Thật là một người bạn không quen biết đáng hãnh diện!
Uyêcxuyt và Guynplên muốn tìm hiểu anh ta, hay ít nhất biết anh ta là ai. Một tối nọ, đứng ở hậu trường, tức là chỗ cửa bếp của Hộp Xanh. Uyêcxuyt tình cờ gặp ông chủ quán Nicơlex bên cạnh, liền chỉ cho ông ta con người đứng lẫn trong đám đông và hỏi:
- Ông quen người kia chứ
- Tất nhiên.
- Ai thế
- Một tay thủy thu
- Y tên gì? - Guynplên xen vào.
- Tom-Jim-Jack - người chủ quán đáp.
Rồi vừa bước xuống bậc thang phía sau Hộp Xanh để trở vào quán rượu, ông Nicơlex vừa buông ra ý nghĩ vô cùng sắc sau đây:
- Tiếc rằng hắn ta không phải huân tước! Hắn có thể là một tên vô lại trứ danh.
Vả lại, tuy đóng trong một lữ quán, nhóm Hộp Xanh vẫn không thay đổi tập quán và vẫn duy trì tính chất biệt lập của mình. Ngoài dăm ba lời trao đổi đây đó với ông chủ quán, họ không hề quan hệ với những người thường xuyên hoặc vãng lai. Ở trong quán trọ, và họ tiếp tục chỉ sống riêng với nhau.
Từ ngày đến Xaothuak, sau buổi biểu diễn, sau bữa ăn của ngựa, trong khi Uyêcxuyt và Đêa ngủ mỗi người một nơi, Guynplên có thói quen hít thở khí trời một tí ngoài bãi cỏ giữa quãng mười một giờ và nửa đêm. Một làn sóng nào đó trong đầu óc thúc đẩy con người dạo chơi đêm và thơ thẩn dưới trời cao; tuổi thanh xuân là một giai đoạn đợi chờ bí mật, vì vậy người ta thích đi bách bộ ban đêm, không mục đích. Vào giờ ấy, không còn người nào trên bãi chợ phiên nữa, cùng lắm chỉ có một vài ba anh say rượu loạng choạng, thấp thoáng lảo đảo trong các xó tối; các tiệm rượu rỗng đóng cửa, căn phòng thấp của quán Tacaxtơ tắt đèn, chỉ để lại trong góc nào đó một ngọn nến cuối cùng, soi sáng cho con sâu rượu cuối cùng, một ánh sáng tù mù lọt qua khung cửa quán rượu mở hé. Guynplên tư lự, thoả mãn, nghĩ vẩn vơ, sung sướng trước một niềm hạnh phúc thần tiên còn mờ mịt, đi đi lại lại trước cánh cửa mở hé đó. Nó đang nghĩ gì? Đến Đêa, chẳng đến gì hết, đến tất cả, đến những nơi sau thẳm. ít khi nó đi xa quán rượu, nó thấy đi vài bước ra ngoài thế là đủ.
Rồi nó lại quay về, thấy toàn thể Hộp Xanh ngủ say và nó cũng đi ngủ.

4. TRONG THÙ GHÉT, ĐỐI LẬP LẠI HÓA ĐỒNG TÂM

Thành công không bao giờ được yêu quý, nhất là bởi những người vì thành công ấy mà thất bại. Mấy khi kẻ bị ăn lại tôn thờ những kẻ ăn mình. Chắc chắn là Thằng Cười được đặc biệt chú ý. Cánh múa rối xung quanh đều bất bình. Thành công của sân khấu như một cái ống xi-phông, nó hút quần chúng và làm rỗng xung quanh nó.
Cửa hiệu trước mặt hoảng hốt. Việc tăng thu của Hộp Xanh - chúng tôi đã nói - lập tức kéo theo mọi giảm thu xung quanh... Đột nhiên các trò vui từ trước đến nay vẫn đông khách bỗng thất nghiệp. Cứ như một mực nước đánh dấu ngước triều, nhưng với độ phù hợp rất chính xác; ở đây tăng ở kia giảm. Tất cả các gánh hát đều từng biết những hiệu quả thủy triều như vậy: triều chỉ lên ở gánh này trong điều kiện triều xuống ở gánh kia.
Toàn bộ chợ phiên đông như kiến vẫn trình diễn các loại tài năng và đội kèn trên những sân khấu ở quanh đấy thấy mình sạt nghiệp vì Thằng Cười, thất vọng nhưng cũng choáng váng. Tất cả bọn già lố lăng, bọn hề, bọn múa rối, đều ganh tị với Guynplên. Quả là một thằng sung sướng có được cái mõm thú dữ! Những bà mẹ làm trò hề và nhảy múa trên dây, có con xinh xẻo, hằm hằm nhìn con mình và chỉ vào Guynplên nói: "Hoài của, sao mày không có được bộ mặt như thế kia". Một số bà còn giận dữ đánh con vì con xinh quá. Nhiều bà, giá biết được điều bí mật, đã thu xếp cho con trai mình "theo kiểu Guynplên". Một cái đầu thiên thần mà không đem lại tí gì thì chẳng bằng bộ mặt quỉ có lợi. Có hôm người ta còn nghe bà mẹ một em bé đẹp như tranh vẽ và thường đóng vai điển trai, gào thật to: "con cái chúng ta đều bị nặn hỏng cả. Chỉ có một thằng Guynplên là đạt thôi". Và vừa nắm tay doạ con, bà vừa nói tiếp: "bà mà biết bố mày là thằng nào thì bà cả xé xác nó ra!". Guynplên là một con gà đẻ trứng vàng. Một hiện tượng thật kỳ diệu! Trong tất cả các lều lán đều thốt lên như vậy. Cánh leo dây múa rối, thích thú và uất ức, vừa thán phục Guynplên, vừa nghiến răng kèn kẹt. Điên cuồng ngưỡng mộ: đó là đố kỵ. Thế là hò hét. Họ tìm cách phá rối vở Hồng hoang chiến bại, họ âm mưu, họ thổi còi, họ lằm bằm, họ la lối. Như vậy càng giúp Uyêcxuyt có cớ để diễn thuyết một cách hùng hồn với dân chúng, anh bạn Tom-Jim-Jack có cơ hội tống mấy quả đấm để lập lại trật tự. Những quả đấm của Tom-Jim-Jack cuối cùng đã khiến cho Guynplên phải lưu ý, Uyêcxuyt phải quí mến. Từ xa thôi, vì Hộp Xanh quen sống một mình và cách biệt với mọi người; còn Tom-Jim-Jack, đàn anh của cánh vô lại, đóng vai một kiếm khách bậc thầy, không có quan hệ, không thân mật, chuyên phá phách, chuyên cầm đầu, lúc hiện lúc ẩn, chơi với hết thảy mọi người, nhưng lại chẳng đồng hành. Cuộc đố kỵ điên cuồng chống Guynplên không chịu thua vì mấy cái tát của Tom-Jim-Jack. La ó, thất bại, bọn leo dân múa rối trên cánh đồng Tarinhzô liền thảo một lá đơn khiếu nại. Họ đệ trình lên nhà chức trách.
Đấy là đường lối thông thường. Chống lại một sự thành công gây trở ngại cho mình, người ta tụ tập quần chúng, rồi người ta kêu lên quan. Các cố đạo hợp sức với cánh múa rối. Thằng Cười đã làm hại dần các buổi thuyết giáo. Không chỉ các lều trại, mà các nhà thờ cũng vắng hẳn người. Các tiểu giáo đường của năm giáo khu Xaothuak không còn ai đến nghe giảng. Người ta bỏ bài giảng để đến xem Guynplên. Hồng hoang chiến bại, Hộp Xanh, Thằng Cười, tất cả là những trò khả ố đó của Baal[13] đều hơn hẳn tài hùng biện của lầu giảng. Tiếng kêu gào trong sa mạc, vox clamans in deserto, không bằng lòng và sẵn sàng kêu chính phủ. Các linh mục của năm giáo khu than phiền với giám mục Luân Đôn, giám mục lại kiện lên vua.
Đơn kiện của dân múa rối dựa trên tôn giáo. Họ tuyên bố tôn giáo đã bị xúc phạm. Họ tố cáo Guynplên là phù thủ và Uyêcxuyt vô đạo.
Còn các cha cố lại nêu lên vấn đề trật tự xã hội. Họ đứng về phía các văn kiện của nghị viện bị vi phạm, bỏ chuyện chính thống sang một bên. Như vậy khôn ngoan hơn. Vì người ta đang ở thời đại của ông Lôck mới chết chưa đầy sáu tháng, ngày 28 tháng mười 1704 và thuyết hoài nghi mà Bolinhbrôc sắp hà hơi cho Vonte đang bắt đầu. Sau này Oetxlây phải đứng ra khôi phục Kinh Thánh cũng như Lôyôla đã khôi phục chế độ Giáo hoàng.
Bằng lối ấy Hộp Xanh bị đánh tới tấp từ hai phía, bởi cánh múa rối nhân danh các bộ Ngũ tập ở đầu Cựu ước và bởi vì các ngài trong giáo sắc nhân danh các qui tắc cảnh sát. Một bên là trời, một bên là sở lục lộ, các cha cố thì vì sở lục lộ mà cánh leo dây vì đạo trời. Hộp Xanh bị các cha tố cáo về tội choán chỗ và bị cánh làm trò tố cáo về tội phạm Thánh.
Có cớ gì không? Có nắm được gì không? Có. Tội trạng của họ là gì? Đây: nó có một con sói. Ở nước Anh sói bị cấm chỉ. Chó nhà; được, sói, dứt khoát không. Nước Anh chấp nhận chó biết sủa chứ không chấp nhận chó biết rống, điểm khác biệt giữa sân gia súc và rừng rú, các ngài viện trưởng và trợ tế của năm giáo khu Xaothuak trong đơn khiếu tố dẫn ra nhiều điều lệ của vua và đặt chó sói ngoài vòng pháp luật. Họ kết luận đại loại như phải bỏ tù Guynplên và nhốt con sói lại, hoặc ít nhất phải trục xuất. Vấn đề lợi ích công cộng, nguy hiểm đối với khách vãng lai...vân vân. Thế rồi họ kêu lên viện Đại học. Họ dẫn chứng phán quyết của nhóm Bát thập lương y của Luân Đôn, một tổ chức uyên bác thời Hăngri VIII cũng có dấu ấn như nhà nước, nuôi bệnh nhân với tư cách toà án, có quen bỏ tù những ai vi phạm luật pháp của nó hay làm sai đơn thuốc của nó, và trong các nhận xét có ích cho sức khoẻ công dân không để cho ai nghi ngờ điều sau đây đã thành của khoa học: người nào bị một con sói nhìn thấy trước tiên, người ấy bị khản tiếng suốt đời. Hơn nữa người ta có thể bị cắn.
Vậy Ômô là cái cớ.
Nhờ chủ quán, Uyêcxuyt đánh hơi được những âm mưu ấy, ông lo lắng. Sợ hai loại móng vuốt ấy, cảnh sát và công lý. Đối với giới tư pháp chỉ sợ là đủ; không cần phải phạm pháp. Uyêcxuyt ít muốn va chạm với cánh quận trưởng, hiến binh, pháp quan và thám tử, ông không hề khao khát muốn ngắm gần hết những bộ mặt quan trên ấy. Đối với các ngài tư pháp, ông muốn tò mò nhìn thì cũng như chuột đồng tò mò muốn nhìn bầy chó săn thôi.
Ông bắt đầu việc hối tiếc mình đã đến Luân Đôn.
- Cái tốt nhất là kẻ thù của cái tốt vừa, - Ông lẩm bẩm một mình. Ta cứ tưởng câu tục ngữ này đã lạc hậu, thế là sai lầm. Những chân lý ngu si lại là những chân lý thật.
Chống lại bằng ấy các thế lực liên minh với nhau, cánh leo dây múa rối thì lấy cớ vì lợi ích tôn giáo, các ngài tư tế bất bình nhân danh y học. Hộp Xanh đáng thương, bị nghi có yêu thuật ở Guynplên và bệnh sợ nước ở Ômô, chỉ trông mong vào mỗi một điều cứu được nó, nhưng là một sức mạnh lớn ở nước Anh, tính bất động của thành phố. Chính chủ nghĩa dửng dưng của địa phương đã đẻ ra nền tự do của nước Anh. Tự do ở nước Anh có thể ví như biển xung quanh nước Anh. Nó là một thứ thủy triều. Phong tục cổ dần dần dâng lên trên luật pháp. Một nền pháp chế quái gở bị chôn vùi, tập quán ở trần, một bộ luật độc ác vẫn còn thấy được qua sự trong suốt của nền tự do bao la, đấy là nước Anh. Thằng Cười, Hồng hoang chiến bại, Ômô, có thể là đối tượng chống đối của bọn múa rối, cánh mục sư, lớp giám mục, nghị viện công xã, nghị viện nguyên lão, nhà vua và Luân Đôn và cả nước Anh và vẫn được sống yên ổn, chừng nào Xaothuak còn ủng hộ chúng. Hộp Xanh là nơi mua vui ưa thích của ngoại ô và chính quyền địa phương dường như dửng dưng. Ở nước Anh, dửng dưng tức là che chở. Chừng nào quận trưởng của lãnh địa bá tước Xơre, mà Xaothuak trực thuộc. vẫn không động đậy, thì Uyêcxuyt còn ăn ngon và Ômô có thể ngủ yên trên hai tai sói của nó.
Với điều kiện không đi đến chỗ bóp chết, những chuyện thù ghét đó vẫn phục vụ cho thành công. Trước mắt, Hộp Xanh cũng không vì thế kém sút. Ngược lại. Công chúng biết có chuyện âm mưu. Thằng Cười vì thế càng nổi tiếng. Quần chúng đánh hơi được những sư việc bị tố cáo và hoan nghênh chúng. Bị nghi ngờ tức là được tiến dẫn. Dân chúng theo bản năng, nâng đỡ những gì bị đe doạ. Vật bị tố cáo, đấy là dấu hiệu của quả cấm; người ta phải vội vã ăn ngay. Vả lại, vỗ tay trêu ghẹo một người nào đó, đặc biệt người đó lại là nhà chức trách, thì thật là thích thú. Để cho hết một buổi tối thú vị, tỏ ra tán thành kẻ bị áp bức và chống đối kẻ áp bức, điều ấy thật là dễ chịu, vui đùa mà đồng thời lại che chở. Chúng ta hãy nói thêm là các rạp hát của bãi cỏ vẫn tiếp tục la ó và âm mưu chống Thằng Cười. Không gì tốt hơn, như thế càng giúp cho sự thành công. Kẻ thù càng làm ầm ỹ, càng thúc đẩy thắng lợi thêm rực rỡ. Một người bạn khen còn mệt hơn một kẻ thù chửi. Chửi rủa không có hại. Đó là điều mà kẻ thù không ngờ đến. Chúng không chửi, và đấy là một ích lợi của kẻ thù. Chúng không thể nào im tiếng, do đấy luôn thức tỉnh công chúng. Quần chúng càng kéo đến đông xem vở Hồng hoang chiến bại.
Uyêcxuyt giữ kín, nhưng ông Nicơlex cho biết về các âm mưu và những đơn từ khiếu nại lên trên; ông không nói cho Guynplên biết, để khỏi làm vẩn đục tính trong sáng của các buổi diễn vì lo nghĩ, nếu có gì không hay xảy đến, bao giờ ông cũng được biết khá sớm.

5. QUAN THIẾT TRƯỢNG[14]

Tuy vậy có lần ông thấy cần phải vi phạm điều khôn ngoan ấy chính vì khôn ngoan thôi, và ông xét ra cố gắng làm cho Guynplên lo lắng cũng có ích. Trong đầu óc Uyêcxuyt, đúng đây là một việc quan trọng hơn các âm mưu của dân chợ phiên và cánh nhà thờ nhiều. Lúc đếm tiền vào cửa, Guynplên nhặt được một đồng xu rơi ở đất; nó nhìn kỹ rồi, trước mắt ông chủ quán, từ chỗ tương phản giữa đồng tiền xu tượng trưng cho sự nghèo khổ của dân chúng và hình nữ hoàng Anh, tượng trưng cho cảnh xa hoa ăn bám của ngai vàng, nó đã thốt lên một câu nói không hay. Câu nói này được ông Nicơlex nhắc lại: đã đi xa đến nỗi lại trở về với Uyêcxuyt qua mồm Fibi và Vinox. Nghe xong, Uyêcxuyt run bắn cả người. Lời nói phản nghịch. Tội phạm thượng, ông mắng Guynplên kịch liệt :
- Mày phải giữ gìn cái mõm khả ố của mày đấy. Có một qui tắc đối với người trên là đừng làm gì hết và một quí tộc đối với người dưới là không nói gì cả. Kẻ nghèo chỉ có một người bạn là im lặng. Nó chỉ được phát âm mỗi một tiếng: Vâng. Thú nhận và đồng ý, đấy là toàn bộ quyền hạn của nó. Vâng, trước mặt quan toà. Vâng, trước mặt vua. Các bậc quyền quí, nếu họ thích thì họ cứ vác gậy nện vào lưng chúng ta, tao đã từng được nếm nhiều, đấy là đặc quyền của họ và có đánh dập xương chúng ta ra họ cũng chẳng mất gì về mặt cao quí của họ cả. Hải yến vùng Nam Hải là một giống chim ưng. Chúng ta hãy kính trọng cây vương trượng, nó vốn đứng đầu các loại gậy. Kính trọng là khôn ngoan, và hèn hạ là ích kỷ. Kẻ nào xúc phạm nhà vua thì cũng như cô bé cả gan cắt bờm sư tử. Người ta cho biết mày đã nói bậy bạ về đồng tiền xu, nó cũng như đồng Lya, mà mày đã miệt thị cái huy chương cao cả ấy, nhờ nó mà ở chợ người ta cấp cho chúng ta một nửa góc cá mồi muối. Mày cứ liệu hồn. Phải đứng đắn lên. Mày nên hiểu là có nhiều loại hình phạt. Mà phải thấm nhuần những chân lý của luật pháp. Mày ở trong một đất nước mà kẻ nào cưa một cái cây con là bị lặng lẽ dẫn đến giá treo cổ. Những kẻ hay thề bồi đều bị còng chân. Người say rượu bị nhốt vào một cái thùng gỗ thủng đáy để cho nó đi, mặt trên thùng có một lỗ cho đầu ló lên và ở thành thùng có hai lỗ cho tay thò ra, thành thử nó không thể nằm, kẻ nào đánh người trong điện Oetminxtơ[15] thì bị tù chung thân và tịch thu tài sản. Kẻ nào đánh người trong cung vua thì bị chặt bàn tay phải. Búng mũi ai chảy máu là mày cụt tay ngay. Kẻ nào bị pháp viện giám mục xác nhận theo tà giáo đều bị thiêu sống. Chính vì một tội không đáng kể mà Cơtơbe Ximxơn đã bị xé xác bằng bàn quay[16], cách đây ba năm, năm 1702, không lâu lắm như mày thấy đấy, người ta đã quay trên đài bêu tội nhân một tên gian ác tên là Đanien Đi Fô, tên này dám cả gan in tên các thành viên công xã đã phát biểu hôm trước tại nghị viên. Kẻ nào bất trung với vua đều bị mổ sống, moi tim, và người ta cầm quả tim đó quật vào hai má nó. Mày cần phải nhớ kỹ khái niệm ấy về quyền hạn và công lý. Không bao giờ được tự cho phép mình nói một lời, và hễ có thoáng điều gì e ngại là phải vù ngay, đấy là kiểu dũng cảm mà tao vẫn thực hành và tao khuyên nên theo. Về mặt táo bạo, mày cứ bắt chước giống chim, còn về mặt chuyện trò tào lao thì cứ làm như loài cá. Vả lại, nước Anh có điểm đáng ca ngợi là pháp chế rất chi ôn hòa.
Quở mắng xong, Uyêcxuyt vẫn lo lắng mất một thời gian nữa, Guynplên hoàn toàn không thế. Tính to gan của thanh niên cũng do thiếu kinh nghiệm. Tuy nhiên hình như Guynplên cũng có lý do để bình tĩnh, vì mấy tuần trôi qua yên ổn, và chẳng có dấu hiệu gì về hậu quả câu nói ám chỉ hoàng hậu.
Như ta biết. Uyêcxuyt vốn cả lo, nên cứ như con hoẵng nghe ngóng, luôn luôn để ý đến mọi người. Một hôm, ít lâu sau lần ông giáo huấn Guynplên, nhân nhìn qua cái lỗ con ở bức tường trông ra ngoài, Uyêcxuyt tái mặt.
- Guynplên đâu?
- Cái gì ạ?
- Mày nhìn xem.
- Dạ nhìn đâu?
- Ngoài bãi kia kìa.
- Dạ, rồi sao?
- Mày thấy mấy người đang đi qua kia không?
- Người mặc bộ đồ đen ấy ư?
- Đúng.
- Dạ, người cầm cái gì như cái chùy phải không?
- Đúng.
- Thế rồi sao?
- Này. Guynplên, người ấy là quan thiết trượng đấy.
- Quan thiết trượng là thế nào?
- Đó là vị pháp quan của Đoàn một trăm.
- Pháp quan của Đoàn một trăm là thế nào?
- Đó là vị proepositus hundredi[17].
- Dạ procpositus hundredi là cái gì?
- Đó là vị quan chức đáng sợ.
- Ông ta cầm cái gì ở tay thế?
- Đó là cái thiết trượng.
- Thiết trượng là cái gì?
- Đó là một vật bằng sắt.
- Ông ta dùng của ấy để làm gì?
- Trước tiên ông ta tuyên thệ trên nó. Vì vậy người ta gọi ông là quan thiết trượng.
- Thế rồi sao?
- Sau đó với cái ấy ông ta chạm vào các người.
- Dạ, với cái gì cơ?
- Với cái thiết trượng
- Dạ, quan thiết trượng chạm vào người ta bằng cái thiết trượng?
- Đúng.
- Thế nghĩa là thế nào?
- Thế nghĩa là: đi theo ta.
- Và thế là phải đi theo lão?
- Đúng.
- Đi đâu?
 - Đi đâu tao biết được
- Thế lão có nói dân mình đi đâu không?
- Không.
- Nhưng mình có thể hỏi lão điều ấy chứ?
- Không.
- Sao lại thế?
- Ông ta chẳng bảo gì mình mà mình cũng chẳng nói gì với ông ta cả.
- Nhưng...
- Ông ta chạm vào mình bằng cái thiết trượng, thế là đủ. Mình phải bước đi.
- Nhưng đi đâu?
- Theo ông ta. Đi đâu tuỳ ý ông ta. Guynplên ạ.
- Thế người ta cưỡng lại ?
- Thì bị treo cổ.
Uyêcxuyt lại thò đầu qua cái lỗ con, thở một hơi dài và nói:
- Ơn chúa, lão đi qua rồi. Không phải lão đến nhà ta.
Uyêcxuyt hoảng hốt có lẽ vì những chuyện thóc mách và những lời tố cáo có thể có được về câu nói vô ý thức của Guynplên, hơn là vì lý trí.
Ông Nicơlex được nghe hai bên nói chuyện, thấy chẳng ăn gì mà làm hại đến những người đáng thương của Hộp Xanh. Chính nhờ Thằng Cười mà ông kiếm được một món lợi khá to. Vở Hồng hoang chiến bại có hai mặt thành công: nó làm cho nghệ thuật thắng lợi trong Hộp Xanh, đồng thời làm cho thói rượu chè phát triển trong quán rượu.
-----------
[1] Giotem (Je t’s Aime): Anh yêu em hoặc Em yêu anh.
[2] Nguyên văn: Vauxhali: Cầu bê (ý nói cầu quán bán bê) vì focxhon (fox-hall) tiếng Anh là cầu chồn.
[3] Balling green. Bãi cỏ, bãi sân.
[4] Chúng ta hãy bắt đầu từ con sói.
[5] Vexta(vesta): táo thần cổ La mã.
[6] Tức là quen lý luận và chuyên bán thuốc. Hai từ trên do chúng tôi đặt ra, vì nguyên văn: Jeratiocine et je médicamente. Hai động từ này do Vichto Hugo bịa ra, dựa vào hai từ raion (lý trí) và médicament (thuốc).
[7] Nguyên văn: Je pense et je panse. Hai động từ này hay ở chỗ đồng âm, chỉ dịch theo nghĩa.
[8] Chirurgus sum: tiếng La tinh: Tôi là nhà phẫu thuật.
[9] Tức là hng có vách ngăn có độ bốn, năm chỗ ngồi.
[10] Xixêrông (Cicéron 106-43 trước công nguyên- nhà hùng bên cổ La mã.
[11] Blekgac (Blackguard) - tiếng Anh nghĩa tà th vệ đen, bia gơ (blagueur) - tiếng Pháp nghĩa là cánh ba hoa.
[12] Nguyên văn trailler - tiếng Anh.
[13] Baal: thần của khu vực.
[14] Nguyên văn Tiếng Anh: Wapentahe.
[15] Oetminxtơ (Westminster ): Hạ nghị viện Anh.
[16] Một hình phạt thời xưa, tội nhân bị trói chất trên bàn quay, tứ chi buộc nào bốn con ngựa...
[17] Bách trưởng, trong đoàn Một trăm người.