HỒI THỨ BỐN MƯƠI CHÍN
Ô Tư Đạo nắm thời cơ, quyết đoán việc lớn
Hoàng đế Khang Hy thọ chung, về chốn suối vàng

    
uốt mùa đông bắt đầu từ ngày mồng 9, đó là những ngày cuối cùng của một năm. Người Bắc Kinh rất chú ý đến ngày Đông chí. Người ta đã nói là: "Tiết Đông chí có tầm cỡ như một năm". Hàng năm vào lúc này con dâu về nhà thăm bố mẹ, cần phải về ngay nhà chồng để đón thần Hỉ, làm cơm tết, gói bánh chẻo, thớt băm thịt kêu ầm cả phố. Bạn bè thân thiết xách làn mang cặp lồng, có người cưỡi lừa, có người ngồi xe, có người ngồi kiệu, có người đi bộ luôn luôn ở trên đường, tặng nhau các đồ ăn điểm tâm, nhất là một cái tết lửa hồng náo nhiệt. Nhưng năm Khang Hy thứ 61 đã gặp phải tuyết nhiều cực kỳ lạnh giá. Hầu như từ lúc tháng Mười giao thời đến nay, trời không được tạnh ráo. Gió tây bắc cuồng bạo cuốn tung tuyết đi, từng hòn từng cục một vón lại, xoáy lại, bay đi, không hết thì rơi xuống, mọi người nếu không cần phải ra ngoài cửa thì không ra ngoài cửa, có thể ở nhà được thì không đi. Chỉ khổ những người buôn bán nhỏ, những người làm đường mạch nha, những người bán gạo đông xuân, những người ủ rượu hoa, những người đưa sữa đặc, những người đánh cá ao; trên đường phố ngay một bóng ma cũng không thấy, thì buôn bán ở đâu? Người già đều nói: "Đây là ông trời đang khóc, Khang Hy lão Phật gia muốn về phía tây rồi, trong khắp thiên hạ cần để tang."
Từ trong nội đình, tin tức truyền ra ngày một tồi tệ hơn. Cũng giống như tin đồn, mắt của Khang Hy đã không nhìn thấy gì, lúc tỉnh lúc mê, đã hoàn toàn không thể quản lý được nhiệm vụ, sự việc. Các nhà khách ở các tự, viện gần Sướng Xuân viên chen chúc đầy những thị lang, thượng thư của sáu bộ; tổng đốc, tuần phủ của các tỉnh và các phủ huyện bị tuyết ngăn cách ở bên ngoài kinh sư, đều ở trong các lều lán chuyên dựng lên cho họ, ngày ngày đi vào vấn an nhưng ngày ngày đều không được gặp hoàng thượng. Tuy nhiên bên trong bên ngoài, lúc nào cũng có thể gặp được Khang Hy, chỉ có một người là Trương Đình Ngọc. Ông ta đã vất vả đến nỗi vừa gầy vừa khô, hai mắt quầng thâm, đã mất đi phong độ ung dung nói năng hàng ngày bình thường, lời nói của ông ta vừa gấp lại vừa nhanh, đi đứng đều như lâng lâng. Ngày 13 tháng Mười một, Trương Đình Ngọc trong thư phòng đã tiếp mấy quan lớn ngoại tỉnh, đứng trao đổi vài câu về nhiệm vụ cấp bách, lại nói rằng:
- Các anh em bận thì nên ít đến tiếp. Các vị lão huynh tạm thời không cần phải về. Hoàng thượng đã hơi ơn, chắc còn chỉ ý gì đấy! - Nói xong lại đến phòng đọc sách.
Bảy hoàng tử là Dận Chỉ, Dận Hữu, Dận Tự, Dận Đường, Dận Ngã, Dận Đào, Dận Ngộ đều ngồi ở bên trong, thấy Trương Đình Ngọc đi vào, vội vàng đều đứng cả lên. Dận Chỉ hỏi rằng:
- Hoành Thần, có chỉ ý gì không?
Trương Đình Ngọc mắt đảo một vòng trong nhà, hỏi:
- Tứ da đâu?
Dận Ngã cười nói rằng:
- Ông bận quá đến mức hồ đồ rồi. Anh ấy không phải là đã đến Thiên đàn cầu phúc cho hoàng thượng rồi sao?
- Ta biết rồi, nhưng cũng phải đến đây.
Trương Đình Ngọc lấy đồng hồ ra xem, đi ra ngoài cửa chân bước lên bậc đá, vẫy tay gọi một thái giám, bảo rằng:
- Ngươi bảo thượng thư của bộ Hộ qua hai khắc 1 đến gặp ta. - Nói xong mới quay người đi vào, nói rằng: - Hoàng thượng vừa mới có chỉ ý, tuyết to như thế này, bảo bộ Hộ phát lương thực cho phủ Thuận Thiên, chu đáo giúp cho những nhà bần hàn không có cái ăn, cần đến từng hộ mà xem. Ngoài ra còn nói là lấy ba triệu đồng bạc trong số tiền của Hải quan qua nước Xiêm La (Thái Lan) mua gạo, năm nay bên họ gạo rẻ. Bên Thập tứ da thúc quân lương, cũng phải phát gấp... Lúc này, còn có người xin ý kiến tăng phụ cấp cho các quan chức, thật sự thành đàn ong rối loạn đốt vào đầu!
Dận Tự cười nói rằng:
- Đã nhiều ngày nay chúng ta đều ở ngoài Đạm Ninh vái một cái rồi đi về, trong lòng thật là không yên. Nay chỉ ý nhiều như thế này, nghĩ đến tinh thần của a-ma tất phải tốt hơn nhiều...
Dận Ngã cũng nói: .
- Đúng. Đệ cũng muốn gặp hoàng a-ma.
Tiế0px;'>
Dận Chân ngửa mặt lên nghĩ một chút rồi than phiền:
- Đáng tiếc là Âm hòa thượng không cùng ta rời khỏi Kinh; có ông ta ở bên thì cần gì đến các ông phải rồng rồng, rắn rắn bố trí theo ta. Ta nghĩ rằng đã đi vi hành, đem đông người như vậy...
Ông nói chưa hết lời thì Khảm Nhi vội vàng quay người lại, nói:
- Từ đây đến đập Cao Gia phải mất một ngày đường, qua đập Cao Gia là vùng đất bằng phẳng; đó đều là nơi có người ở, và Khảm Nhi xin bảo đảm là lão da sẽ không xảy ra chuyện gì đâu!
Dận Chân cười nói:
- Đúng vậy, ở một nơi đất cằn nghìn dặm, mà lại vừa qua một trận nước lớn, thì làm sao có bọn giặc cỏ cướp đường được? Chúng ta cẩn thận một chút là được thôi!
Đới Đạc, Cao Phúc Nhi thấy thế chưa được ổn lắm, nhưng bẩm tính của Dận Chân là lời đã nói ra thì người dưới không thể không vâng theo, nên họ đều không nói lại nữa. Hai người làm như đi tiểu tiện ra xa bàn mật với nhau một lúc, quyết định Cao Phúc Nhi sẽ đem theo mấy người hộ vệ đi xa xa phía sau để bảo vệ ngầm Dận Chân. Bàn định rồi, hai người mới yên tâm quay về.
Sáng sớm hôm sau, Dận Chân đem theo Cẩu Nhi và Khảm Nhi, dắt theo một con la khỏe thồ hành lý, một con ngựa để Dận Chân cưỡi, đem theo một con cáo đã bắn chết trên đường đi hôm quạ, rồi rời khỏi đội tải lương. Họ ngược Hoàng Hà, theo đường cũ ngoằn ngoèo đi về phía tây. Dận Chân trên ngựa, phóng tầm mắt nhìn ra xa, ông thấy những gò cát liên tiếp không dứt, chạy thẳng mãi tới chân trời; những làn gió hun hút cuốn theo bụi cát mù trời, rồi thì sương mù dày đặc, và những tường xiêu, vách đổ bị lấp trong những cồn cát chỉ còn lộ ra nóc nhà. Đây đó không còn thấy những thôn xóm có người ở, càng đi càng thấy hoang vắng, khiến người ta nảy sinh ra cảm giác rất lạnh lẽo. Dận Chân tuy nói là lên phía thượng lưu để xem đê điều, kỳ thực ông đã hiểu rằng, từ đập Cao Gia đi về phía đông; miền này nhiều năm đã bị nước lũ ngập tràn, các bày tôi giỏi trị thủy như Cận Phụ, Trần Hoàng khi còn sống xây dựng các công trình thủy lợi; tất cả đều sớm đã không còn gì nữa! Ông có một tâm sự: nghe Cao Phúc Nhi nói Tiểu Lộc còn một người con của ông sinh với cô, giờ đây nó vẫn sống ở trấn Hà Lí ở gần phía trái của đập Cao Gia. Hiện nay về đường tử tức, ông rất vất vả, bốn người con ông thì một người đã chết non; Hoằng Thời, Hoằng Trú, Hoằng Lịch thì vẫn còn chưa lên đậu (48). Nếu quả thật đúng như Cao Phúc Nhi đã nghe biết về nói lại, thì đứa bé đó rất bụ bẫm, lại đương lên đậu, nay nếu ông bỏ nó thì quả là một việc đáng tiếc! Cẩu Nhi, Khảm Nhi đang trong thời kỳ thơ ấu, đang độ tuổi vô tư, thơ ngây, phóng khoáng; mặc dầu chúng có thông minh lanh lợi nhưng hành động thì không được như lòng ông mong muốn! Trên đường, chúng nào dắt la, đuổi ngựa; nào đá cầu, đánh trận giả; đuổi nhau vui đùa, không biết mệt là gì, rồi lúc thì chạy nhảy như khỉ, giẫm đạp luôn chân, cứ tưởng chừng với chúng thì không ngọn cỏ nào còn sống nổi; chẳng mấy lúc chúng chịu yên chân, yên tay. Dận Chân có hai đứa tiểu nhi đó, cũng đỡ buồn tẻ trên đoạn đường dài.
Xem ra thì chỉ còn khoảng mười dặm nữa là đến Hà Lí trang. Lúc đó đã quá giờ Thân, xa xa trên một gò cao, có nhiều lùm cây tạp, nhà cửa xen lẫn nhau, bầu trời dần tối đen, mặt trời lặn khi đó giống như một cái nồi úp ngược trên bãi cát. Vì chỗ này là ngã ba của Hoàng Hàổi dòng về phía bắc, đâu đó còn có thể nghe thấy tiếng réo ầm ĩ của nó.
- Lão da...? - Khảm Nhi thấy Dận Chân nhìn chằm chằm về phía trước không động đậy gì, nét mặt buồn không ra buồn, vui không ra vui, thì không hiểu ra sao.
- Các ngươi chẳng phải là muốn biết câu chuyện ta kể, về sau như thế nào sao? - Giọng của Dận Chân nặng nề, làm cho người nghe thấy trong lòng buồn rũ rượi.
- Ở đây không có ai, ta nói thật điều này, Tiểu Lộc đã chết ở phía trước, dưới cây hồng già...
Hai đứa trẻ trợn mắt, hình như chúng không nhận ra Dận Chân vì sắc mặt ông bỗng nhiên trắng bệch. Một lát sau, Khảm Nhi mới nói:
- Trời ơi! Thì ra vị hoàng tử trong chuyện kể đó là lão da ư?
Cẩu Nhi ngập ngừng hỏi:
- Bà ấy... bà ấy vì sao mà chết... chết ạ?
Dận Chân không đáp, đưa mắt nhìn kỹ chạc cây hồng già, rồi ông bước lên vuốt ve, ở đó còn sót lại một mảng vỏ cây bị cháy đen.
- Thiêu! Bị thiêu chết!
Cẩu Nhi và Khảm Nhi rõ ngay, hai đứa thấy lạnh người, khắp người thấy sởn da gà.
- Đúng, cô ấy bị chết thiêu!...
Bỗng nhiên trên mắt Dận Chân tràn đầy nước mắt; để kiềm chế một nỗi bi phẫn tràn lên từ toàn thân, ông đã cố gắng để bình tĩnh lại, rồi ông nói:
- Khi đó ta đứng ở chỗ này, trong một cái lều vải mắt mở to nhìn...
Hai đứa bé kinh hãi đờ người ra, hai đôi mắt chòng chọc nhìn vào mảng vỏ cây cháy sém, đôi tay Khảm Nhi nắm chặt lấy sợi dây cương ngựa, trên mặt Cẩu Nhi không còn có chút ngái ngủ nào nữa; hai bàn tay em bóp vào nhau, đổ mồ hôi lạnh.
- Dưới này nguyên là nơi đập lúa, bên kia là một cái hồ, phía nam hồ là những thửa ruộng cao lương chạy tít ra xa. Toàn thân Dận Chân co quắp, khi ông hồi tưởng lại cái đêm kinh khủng ấy:
- Khi ấy một mình ta đến Hà Lí trang để tìm Tiểu Lộc, đúng vào lúc dòng họ đang xử cô ấy. Người ta đắp tạm một cái bệ đất ngay dưới cây hồng già này, trên bệ để một cái đèn lồng, và xếp một đống củi, mấy người trong họ tay cầm đuốc đứng ở hai bên. Tiểu Lộc đầu tóc rũ rượi, bị trói cả tay chân đứng ở nơi Khảm Nhi đứng, đầu gục xuống, ta nhìn không rõ sắc mặt. Dưới bệ có hàng nghìn người ngồi đen đặc. Họ đều im lặng không nói gì, tất cả đều nhìn chằm chằm vào nàng, ngay cả một tiếng ho cũng không có! Ta hình như gặp phải cơn ác mộng chỉ biết trừng trừng mắt nhìn nàng. Trước mắt mờ mịt cả, ta chỉ còn nghe thấy tiếng lá cao lương buồn bã lay động, rì rào...
Trong mắt Dận Chân chợt lóe lên một ánh lửa ma quái, hai đứa bé chưa hề bao giờ thấy mặt ông lại ghê sợ như vậy, bất giác chúng đều run cả lên. Ngừng một chút, Dận Chân lại nói, tiếng ông sang sng như tiếng kim khí va nhau:
- Qua một lúc, một người trông dáng điệu như người quản gia tay cầm quyển tộc phả bước lên trên bệ, ông ta lớn tiếng nói:
- Tộc trưởng Ngũ da huấn cáo!
Bầu không khí chợt căng thẳng hẳn lên, mọi người cùng ngẩng cả đầu dậy, mấy đứa bé sợ quá phát khóc, nhưng đều bị mẹ chúng ôm chặt vào lòng.
Tim ta như muốn nhẩy ra khỏi lồng ngực. Ta nhìn thẳng thấy một ông cụ tay cầm một túi thuốc bằng đồng, rảo bước đi lại trên bệ. Ta đã ở trang trại đó hai tháng, thường ngày ta thấy ông cụ này cử chỉ nho nhã, nét mặt hiền từ, rất được mọi người trong họ kính trọng. Nhưng tối đó, trông cụ lại khác hẳn thường ngày, mặt tái xanh, nét mặt tối sầm nhìn khắp lượt mọi người, hồi lâu ông cụ mới nói:
- Thưa các bậc huynh trưởng; cùng các cụ, các bác, và tất cả mọi người trong họ! Vừa rồi tôi đã tuyên cáo với tổ tông, với các vị quản lĩnh các mặt trong họ rất rõ ràng về vụ việc này ở từ đường. Xẩy ra sự việc của Tiểu Lộc tôi cũng rất buồn! Thật ra thì đó là tình cốt nhục mà! Ông cố nội nó là ông anh họ của tôi, chúng tôi đã qua lại thân mật với nhau từ nhỏ. Nói thật lòng, thà rằng tôi chết, chứ tôi không muốn làm hại con cháu ông! Nhưng cổ nhân đã dạy: con đê nghìn dặm cũng vỡ vì tổ kiến! Vì toàn thể dòng họ chúng ta, tôi thấy chỉ còn cách là hạ sát nó!... Lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn đầu mối của nước. Thế nào gọi là "liêm"? Tức là làm người sao cho thanh bạch; thế nào gọi là "sỉ"? Tức là phải thiết thực tự trách mình! Nó phạm phải hai điều này, làm cho mọi người phải đau đầu, nhức óc
Thế là từ Ban Sái hiền thục đến Tào Nga hiếu nữ, ông cụ nói đến một canh giờ rồi mới lụ khụ xuống bệ trở về chỗ ngồi; sau đó, một tay cụ che mặt, một tay cụ vẫy vẫy: "Lôi con tiện nhân đã làm bại hoại dòng tộc quì lên cột thiêu; để cho nó chuộc tội với tổ tông, thần linh!"
Đám đông náo động, những người phụ nữ nức nở, những đứa bé bíu lấy vai mẹ nó khóc náo loạn.
- Mẹ, sợ, về nhà đi!...
Có những người đàn ông chửi rủa; có người không nói gì hết, chỉ ôm lấy mặt; những bà già thì lầm rầm chắp tay niệm Phật... Mắt trừng trừng nhìn nàng bị trói ném vào đống củi, tim ta như bị rứt ra từng miếng, hai tay ta chống lên định đứng dậy thì có một bàn tay nào đó níu lại; quay đầu lại nhìn, thì ra đó là Cao Phúc Nhi đã ngầm theo ta không biết từ lúc nào. Dưới ánh lửa, mặt cậu ta xanh tái, sụt sịt khẽ nói:
- Chủ nhân, đừng, đừng... hoàng thượng biết là không được đâu!... còn lại người (49)...
Trong khi Cao nói, ngọn lửa đã bốc cao và đã trùm một mầu đỏ sẫm lên toàn thân Tiểu Lộc...
Nàng ngửa mặt lên đờ đẫn nhìn về phía xa, khi đó ta mới nhìn rõ nét mặt của nàng: trắng như bức tượng cung nữ khắc bằng ngọc trong cung nhà Hán..., đầu tóc tả tơi, tán loạn như cánh của quạ đen... Cho mãi đến khi bị thiêu chết hẳn, nàng vẫn chỉ quằn quại một cách đau khổ vô vọng, mà không hề rên rỉ lấy một tiếng, một lời cp đó Dận Đào, Dận Ngộ, mấy hoàng tử cũng xin Trương Đình Ngọc chuyển lời giúp, muốn xin gặp hoàng đế.
- Nay để cho các ông như ý muốn. - Trương Đình Ngọc miễn cưỡng cười nói: - Hoàng thượng có chỉ, xin các ông vào đi!
Dận Tự trong lòng phấn khởi, đứng dậy, nhưng lại do dự. Bên ngoài tất cả đều ngừng làm, Thành Văn Vận đã tập trung tất cả các tướng, các viên quan võ đóng quân ở Phong Đài lại, chỉ đợi ắt thở là có thể bắt tay ngay vào việc bao vây Sướng Xuân viên, hai vạn binh mã của Long Khoa Đa khống chế Tử Cám Thành không có khó khăn gì. Lúc đó thấy được Khang Hy, biết được thực tình của nhà vua là việc rất tốt. Nhưng Dận Đường, Dận Ngã đều có mặt ở đây. Vạn nhất xẩy ra việc gì thì bên trong không đưa tin ra được, bên ngoài không có người chỉ huy, như vậy thì biết xoay sở thế nào? Đang nghĩ thì thấy Hình Niên đi tới, thúc giục nói rằng:
- Chúa thượng gọi các ông đi rồi.
Dận Tự bèn nói:
- Ở đây chỉ có bảy người, chúng mình đợi đã, chờ các hoàng tử đến đủ hãy đi vào. Trời lạnh như thế này, người đi kẻ đến, hoàng thượng bị cảm gió thì không phải là việc nhỏ.
- Đi thôi. - Trương Đình Ngọc tựa như cười mà lại không cười, nhìn Dận Chỉ nói: - Tam da, ông đi đầu các ông khác thứ tự đi theo.
Ông ta xưa nay vẫn ôn hòa chấp trung, nay khẩu khí lại quay sang chuyên quyền ngang ngược đến mức không còn có chỗ nào thương lượng nữa.
Dận Tự đành phải đi theo phía sau, trong một khoảnh khắc, lòng ông trào dâng một cảm giác bất thường trước sự việc lớn sắp đến. Sắc mặt biến đổi đến mức trắng bệch lạ thường, lúc đang hoảng hốt thì thấy bố vợ và con rể là Kim Ngọc Trạch và Đảng Phùng Ân hai người đang nói chuyện ở dưới Bình Yên đình, vội gọi Đảng Phùng Ân đến nói rằng:
- Anh bảo Hà Trụ Nhi trong phủ của tôi một tiếng là chúng tôi cần gặp hoàng thượng, nên cơm trưa cần mang đến đây.
Trương Đình Ngọc ở phía trước quay đầu lại nói:
- Không cần, nhà bếp của vua hầu hạ hết!
Dận Tự nhìn một cái rồi gật gật đầu, tự mình đi.
Từ qua tiết tháng Mười đến nay, Long Khoa Đa thay đổi lính đồn trú canh phòng. Ô Tư Đạo và tất cả hộ vệ mộ liêu (bộ hạ) của phủ Tứ bối lặc, bèn lặng lẽ chuyển đến phủ của Thập thất a-ca Dận Lễ. Chu Dụng Thành và người của thư phòng cùng đi với Dận Chân đến Thiên đàn làm lễ tế. Thập thất a-ca đi đến doanh trại. Nhuệ Kiến cũng không có ở nhà, Văn Giác, Tính Âm và Ô Tư Đạo đang ở nhà Tây Hoa của Dận Lễ vây lấy cái lò sưởi tụ tập nói chuyện. Mấy người đều mất ngủ liền mấy đêm, nhìn lên thấy rất tiều tụy, nhưng vẫn không có ý buồn ngủ chút nào. Mấy ngày nay từ nội đình truyền đến đều là những lời đồn đại, nói đi nói lại toàn những vấn đề đã phân tích không biết bao nhiêu lần, đề tài nói chuyện đều là nói chuyện phiếm. Ô Tư Đạo tuy nắm vững, nhưng chỉ ngồi ở bên bếp lò, dùng cái đũa khêu bếp luôn luôn cời tro than, thấy rõ ông ta trong lòng cũng rất căng thẳng không yên. Đang ngồi buồn, Dận Chân và Chu Dụng Thành dắt ngựa chạy như bay trên đất tuyết đến, đi thẳng đến trước cửa nhà Tây Hoa, chủ và tớ mới thở ra hơi nóng, mặt đầy những tuyết. Tính Âm, Văn Giác bỗng "ồ" lên một tiếng đứng dậy, nói rằng:
- Thưa Tứ da, có tin gì
- Có - Dận Chân cởi cái áo choàng đi vào, thở một hơi rồi ngồi xuống, quầng mắt của ông ta cũng đỏ lên, nhưng thần sắc lại không có chút gì là mệt mỏi. - Hôm nay Vạn tuế da muốn truyền gặp tất cả các hoàng tử. Bọn lão Bát họ đã vào rồi. Vừa mới truyền chỉ, ta nói đến chừng 17 hoàng tử, nay muốn cùng bàn với các ngươi một tí. Dận Lễ vẫn chưa về sao? Thời tiết này thật là xúi quẩy!
Ô Tư Đạo ánh mắt bỗng sáng lên, ngay lập tức lại rủ mi mắt xuống, lẩm bẩm nói:
- Tất cả? Tất cả a-ca... hà tất phải gặp đủ cả? Tứ da, không nên trách thời tiết, trận tuyết này có lẽ trời ban cho ông đấy!
- Hử?
- Không xuống tuyết, Vạn tuế da nhất định phải trở về Tử Cấm Thành! - Ô Tư Đạo ngửa mặt lên trời thở một hơi. - Người về thế giới cực lạc, làm sao có thể ở trong hành cung ấy nhỉ? Long Khoa Đa ở trong thành nhiều binh mã như thế, vạn nhất ông ta là cái đảng chết của Bát da thì Tứ da ông phải tìm đường mà trốn đi đó!
Văn Giác gật gật đầu, nói rằng:
- Hơn nữa nói bây giờ, Vạn tuế da bảo các ông đến, không biết là ý tứ gì? Tứ da không ngại hãy trả lời cho họ một tiếng, Thập thất da chưa về, đợi về rồi cùng đi đến, kéo dài thời gian xem! Ừ... đã đến cái nước này, thời gian cần nắm chắc từng giây từng phút> Ô Tư Đạo cười nhạt nói rhủ Mã ra tiếp khách!
Lập tức có hai người ra ngay; một cao, một thấp, họ đều vào khoảng tứ tuần, nét mặt tươi cười; họ ra dắt hai con vật và mang hành lý vào. Ông chủ Mã đi đầu, tay cầm thìa khóa dẫn đường, nói luôn
- A di đà Phật! Cái cửa hàng nhỏ này đã hơn nửa tháng nay không có khách trọ, hôm nay lại đến những năm vị. Các vị đến làm nhà hàng thật phấn khởi!
Năm người? Cẩu Nhi vừa đi, vừa nghiêng ngó nhìn ngắm, hỏi:
- Nhà ngang phía trước đã có người ở rồi ư? Này ông chủ, chúng tôi ở phòng trên có được không?
Chủ quán Mã vội nói:
- Phòng trên không được sáng sủa lắm, nhưng bố trí ba vị ở đấy thì tốt, phục vụ cũng tiện...
Vừa lúc đó, ông ta thấy Khảm Nhi cúi đầu không nói, còn Cẩu Nhi lúc đó thì như con khỉ được tháo xích, chú ta đi lại, nhòm ngó khắp nơi, người đàn ông họ Mã lại nói:
- Nhà ngang phía đông có hai ông hiếu liêm trọ, họ cũng mới đến lúc trưa. Xin các vị cứ yên tâm nghỉ ngơi đi đã, đợi một chút sẽ đưa rượu lên, coi như một chút thành tâm của chúng tôi! Vì hôm nay chúng tôi bận việc mua bán nên không mua được thịt, chỉ có mấy món ăn thường thôi, xin các vị vui lòng cho.
Vừa dứt lời thì hai vị khách ở nhà phía đông cũng cùng đi ra, một người mặc áo dài kép lót lụa, dáng mặt dài; một người mặc áo kẻ vải trúc lâm đã bợt mầu nhưng mày thanh, mắt sáng; trông rất nho nhã, tuấn tú. Hai người có vẻ như vừa qua Hoàng Hà, đến nhà trọ này lần đầu; hai người nhìn Dận Chân thấy có dáng vẻ thư sinh bất giác đều mỉm cười. Dận Chân vái chào, hỏi
- Hai vị có phải trên đường đến Bắc Vi (52) không?
- Thưa vâng, bác kia tên là Lý Phất, tôi là Điền Văn Kính...
Người mặt dài cười nói tiếp:
- Trên đường nghìn dặm toàn là bãi cát, ở nhà trọ thì lại nhàn hạ không có việc gì, nơi đất khách gặp nhau, bạn văn hữu quá ít, nay chúng ta gặp nhau ở đây, cũng coi là duyên phận. Xin hỏi tôn tính, quý hiệu? Các vị cũng đến ứng thí tại phủ Thuận Thiên chăng?
Lý Phất tỏ ra hơi dè dặt, Lý nhìn Dận Chân cười, coi như đó là lời chào. Dận Chân do buồn tẻ đã nhiều ngày, nay đến nơi dân cư đông đúc, nên cũng muốn chuyện trò vui vẻ, thấy Điền Văn Kính hỏi cũng chỉ trả lời qua loa:
- Tôi cũng chuẩn bị đi Bắc Bình. Qua câu bác vừa nói, gặp nhau ở đây là duyên phận; vậy chút nữa, chúng ta sẽ uống rượu nói chuyện chơi, có được không?
Cẩu Nhi vui vẻ nói:
- Chúng tôi có một con cáo, có thịt ăn; chúng tôi xin mời các vị!
Chẳng mấy chốc đã chuẩn bị xong, Cẩu Nhi đem con cáo ra sân làm thịt, chú cho thịt cáo vào trong cặp sắt nướng, tiếng thịt nướng kêu "lép bép", rồi chú chuẩn bị muối, gừng, tỏi ướp thịt, khiến mùi thơm ngào ngạt tỏa khắp sân! Khảm Nhi đem con Lư Lư lên phòng trên rồi chú sắp đặt hành lý, đặt một chiếc bàn ở giữa nhà; xuốưới bếp nhìn ngắm, thấy có hai hồ rượu đang hâm trên bếp. Sau đó chú lại đi khắp nhà một vòng, rồi đến cạnh Cẩu Nhi nói:
- Không biết nhà xí bên đông ở chỗ nào? Trời tối, bây giờ tớ với cậu, ta cùng đi tìm xem cái nhà ấy nó ở đâu?
Thấy Mã chủ quán đi tới, Khảm Nhi nói:
- Thịt nướng chín rồi, xin mời các vị ăn trước đi; chút nữa rượu hâm nóng, hai chúng tôi sẽ mang chén lên.
Chủ quán cười rồi đi.
Khảm Nhi theo Cẩu Nhi lướt qua một đoạn chỗ góc tường, thấy nhà xí ở góc tây tường phía nam, bên kia tường là Hoàng Hà gầm réo suốt ngày. Gió từ sông thổi tới, Khảm Nhi bỗng nhiên rùng mình.
Cẩu Nhi cười nói:
- Sắp đến tháng ba rồi mà cậu vẫn rét à?
Khảm Nhi vừa đi tiểu vừa gọi khẽ:
- Cẩu Nhi; xì dầu và muối còn lại, một lát nữa thì cậu đưa xuống nhà bếp. Cậu nghĩ cách tráo hai hồ rượu với nhau.
Cẩu Nhi cười hỏi:
- Làm thế để làm gì?
Khảm Nhi vừa buộc dây quần vừa nói
- Bảo cậu tráo thì cậu cứ tráo! Xem mặt cậu kìa. Mẹ nó chứ. Tối nay chúng ta trọ phải hắc điếm rồi!
--------------
(47) Đồ ăn mặn: ở đây chỉ các thức ăn không có tính kích thích như: tỏi, gừng, hành và các loại thịt.
(48) Lên đậu: xưa kia người ta quan niệm rằng một đứa bé có lên đậu thì mới sống và trưởng thành được.an toàn
(49) còn lại người: ý nói Tiểu Lục còn để lại đứa con. (dịch từ cụm từ "thanh sơn". Thanh sơn có nghĩa là núi xanh. Nhưng có thành ngữ "lưu đắc thanh sơn tại, bất phạ một sài thiêu". Có nghĩa bóng là: còn người còn của!
(50) Năng thần: vị quan có năng lực
(51) Ỷ hà lâm phong: nơi dựa vào sông mà có gió mát
(52) Bắc vi: chữ "vi" ở đây có nghĩa là cửa "vi"; cửa trường thi.
 

Truyện UNG CHÍNH HOÀNG ĐẾ GIỚI THIỆU NỘI DUNG HỒI THỨ NHẤT HỒI THỨ HAI HỒI THỨ BA HỒI THỨ BỐN HỒI THỨ NĂM HỒI THỨ SÁU HỒI THỨ BẨY HỒI THỨ TÁM HỒI THỨ CHÍN HỒI THỨ MƯỜI HỒI THỨ MƯỜI MỘT HỒI THỨ MƯỜI HAI HỒI THỨ MƯỜI BA HỒI THỨ MƯỜI BỐN HỒI THỨ MƯỜI LĂM HỒI THỨ MƯỜI SÁU HỒI THỨ MƯỜI BẢY HỒI THỨ MƯỜI TÁM HỒI THỨ MUỜI CHÍN HỒI THỨ HAI MƯƠI HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI HỒI THỨ HAI MƯƠI BA HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN HỒI THỨ HAI MƯƠI NHĂM HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU HỒI THỨ HAI MƯƠI BẨY HỒI THỨ HAI MƯƠI TÁM HỒI THỨ HAI MƯƠI CHÍN HỒI THỨ BA MƯƠI HỒI THỨ BA MƯƠI MỐT HỒI THỨ BA MƯƠI HAI HỒI THỨ BA MƯƠI BA HỒI THỨ BA MƯƠI TƯ HỒI THỨ BA MƯƠI NĂM HỒI THỨ BA MƯƠI SÁU HỒI THỨ BA MƯƠI BẢY HỒI THỨ BA MƯƠI TÁM HỒI THỨ BA MƯƠI CHÍN HỒI THỨ BỐN MƯƠI HỒI THỨ BỐN MƯƠI MỐT HỒI THỨ BỐN MƯƠI HAI HỒI THỨ BỐN MƯƠI BA HỒI THỨ BỐN MƯƠI BỐN HỒI THỨ BỐN MƯƠI NĂM HỒI THỨ BỐN MƯƠI SÁU HỒI THỨ BỐN MƯƠI BẢY HỒI THỨ BỐN MƯƠI TÁM HỒI THỨ BỐN MƯƠI CHÍN HỒI THỨ NĂM MƯƠI HỒI THỨ NĂM MƯƠI MỐT HỒI THỨ NĂM MƯƠI HAI HỒI THỨ NĂM MƯƠI BA rc;n người Ngạc Luân Đại, đâm vào sườn Giả Bình. Giả Bình kêu lên một tiếng thảm hại, ngã lăn xuống cầu thang, một c cũng không nói được, chân thượt ra, máu chảy thành một vũng to. Dận Chân và Chu Dụng Thành sợ phát hoảng, hồi lâu vẫn không bình tĩnh lại được. Ngạc Luân Đại kinh ngạc hỏi:
- Thập tam da, xẩy ra chuyện gì vậy?
Dận Tường chùi máu dính trên gươm vào đế ủng, nói rằng:
- Đây gọi là mở cửa gặp điều lành. Trước tiên lấy nội gian để tế đao, mang được sự tốt lành. Đi, giết hai con cáo yêu tinh kia!
Dận Chân đi theo đằng sau Dận Tường, vẫn như váng đầu hoa mắt, chân tay bủn rủn, tim bỗng đập loạn nhịp, ông cố nén sự hoảng loạn, cười nói rằng:
- Em ta thật là đại anh hùng, đại trượng phu!
Dận Tường nhấc gươm lên, giẫm trên tuyết nghe lạo xạo, đầu cũng không ngoảnh lại nói rằng:
- Anh hùng trượng phu thì không phải, đệ chỉ là "liều mạng Thập tam lang" thôi! Lúc này nghìn cân treo sợi tóc, trong khoảnh khắc của đời mình đâu dung được tình riêng với con gái! Cho chúng nó sống để chúng nó đến Triêu Dương môn báo tin sao?
Nhưng A Lan và Kiều Thư đã không để cho Dận Tường phải ra tay. Bốn người một hàng vội đi đến trước nhà, xa xa nhìn họ đã biết ngay là có chuyện, rượu tàn vẫn còn đó, lửa lò sưởi vẫn còn để, nhưng lại không thấy một bóng người. Dận Tường xông lên bậc thềm, liền nhìn thấdưới nền gạch, A Lan và Kiều Thư, một ở phía đông, một ở phía tây co rúm trên nền gạch, sờ vào mạch thì A Lan đã tắt thở, còn Kiều Thư thì vẫn cử động, nàng thấy Dận Tường đến thì mở mắt ra, thều thào nói rằng:
- Hai chúng em rất... bạc mệnh.
Mặt ngoẹo sang một bên, thế là chết. Cái gươm trong tay Dận Tường rơi xuống đất kêu đến "choang" một tiếng.
Dận Chân một khắc cũng không nghỉ, cùng Dận Tường đi ra, cùng gặp Thập thất a-ca ở trước cửa, lập tức ông phi ngựa chạy về Sướng Xuân viên. Lúc đi vào ngôi nhà "Cùng Lư" thì thấy Lưu Thiết Thành ra đón, nói rằng:
- Trương trung đường đang tuyên đọc di chiếu, mời các ông vào nhanh đi!
Dận Chân thấy Vũ Đan ngồi trên cái ghế ở ngõ cổng, lặng lẽ nhìn vào điện chính của ngôi nhà "Cùng Lư", trong lòng tự nghĩ: "Thật là một trung thần, té ra là ông ta đích thân gác cổng!". Chân bước đi vội vàng tiến vào, cởi áo mưa quỳ xuống lắng nghe Trương Đình Ngọc sang sảng tuyên đọc:
...Nước ta bắt đầu từ cực bắc, nương nhờ vào công trạng to lớn của tổ tông, được nuôi dưỡng bởi đất Hoa Hạ, đó là chúa thượng chung của thiên hạ. Không thích hợp với chủng tộc Di Địch, muốn quên đi trọng trách phó thác của trời cao. Các bộ tộc Mãn, Hán, đều được coi là một khối...
Dận Chân cho rằng di chiếu đã tuyên đọc xong từ lâu, vậy mà nay mắt nhìn Trương Đình Ngọc đọc đến nỗi se cả môi khô cả lưỡi, vẫn còn chưa đọc xong, nhìn trộm thấy Khang Hy nằm bất động trên giường, ông chịu không nổi liền hỏi Dận Chỉ ở sát bên người:
- Tam ca, di chiếu vẫn chưa tuyên đọc xong?
- Đây là bản thảo chép tay của Phương Bao. - Dận Chỉ động đậy một tí, vì quỳ hai chân đã phát tê ra, nhẹ giọng cười nhạt nói rằng: - Đây đâu có phải là di chiếu! Mà là một bộ "Quốc ngữ" và "Tả truyện"!
Dận Chân nghĩ rằng Dận Tường ở bên ngoài không biết gươm giáo đã động dụng như thế nào, trong lòng hồi hộp, nên ông mặc Dận Chỉ, cố gắng chịu đựng tiếp tục nghe, lẳng lặng nhìn những người như Dận Tự v.v... thấy đều là một bộ dạng thẫn thờ, lặng lẽ và dần dần ông đã ổn định được tâm trạng của mình.
Di chiếu dài dòng cuối cùng đã đọc xong, mười chín hoàng tử quỳ ở bên dưới cùng với Trương Đình Ngọc đọc di chiếu đều thở phào nhẹ nhõm, đưa ánh mắt nhìn về phía Khang Hy đang nằm ngửa âm thầm ảm đạm và đợi cho ông ta lên tiếng. Nhưng Khang Hy chỉ động đậy môi, không nói được gì hết, hình như ngay cả con mắt cũng không còn sức nữa. Trương Đình Ngọc khe khẽ thở dài, nói rằng:
- Tất cả đều nghe rõ rồi chứ?
- Rõ rồi, rõ rồi. - Dận Ngã quỳ ở hàng thứ hai bỗng nhiên mạnh dạn nói: - Chiếu thư dài như thế, lẽ ra còn phải nói việc kế vị cho rõ ràng. Vậy cuối cùng thì Vạn tuế da trn ngôi cho ai?
Dận Chân cảm thấy đầu kêu "ung, ung", trái tim thì như trồi hẳn lên cao. Mới rồi đúng là Khang Hy đã nói rằng sẽ truyền ngôi cho mình, không phải là nói trước mặt, mà là nói lúc mình từ biệt ra đi, khi mình ở dưới hành lang rõ ràng còn nghe thấy Khang Hy nói: "Các ngươi không phải là muốn được biết ta truyền ngôi cho ai chứ? Trẫm không giấu các ngươi, vừa rồi người phụng chỉ đi tha cho Dận Thì, Dận Nhưng, Dận Tường là Tứ a-ca!". Nay trong tay không có lấy một bằng chứng, Thập a-ca thì lại gây chuyện khó dễ ngay tại đây, Khang Hy đã thoi thóp chút hơi tàn không có sức để xử trí, nên làm như thế nào cho tốt đây?
- Đồ súc sinh... đáng ghét... - cổ họng của Khang Hy đã động đậy được một chút, nhà vua càu nhàu được một câu, cố gắng lật nghiêng người, con mắt đục ngầu nhìn Dận Tự, mà nói không ra lời. Dận Đường giả bộ cười, nói rằng:
- A-ma chú ý lo lắng cho sức khỏe, không nên bực tức. Thập đệ hỏi là đúng. Đã là di chiếu thì nên nói việc đại sự là việc nối ngôi!
Khang Hy nghiến răng cười dữ tợn, dường như cố gắng tập trung sức mạnh cuối cùng, hồi lâu mới nói rằng:
- Truyền... truyền cho Tứ... Tứ a-ca!
- Nhi thần có mặt! - Dận Chân xúc động đến nỗi thẳng người lên, đầu gối lết lên một bước, ông to tiếng đáp lời.
- Tứ a-ca thật rõ khéo tưởng tượng. - Dận Đường cười khì. - Huynh chưa nghe rõ lời hoàng thượng nói là muốuyền cho Thập tứ a-ca phải không? A-ma thật là sáng suốt như thánh thần! Thập tứ a-ca văn tài võ lược thật xuất sắc, nhà Đại Thanh thật có phúc!
Dận Chân bình tĩnh cười, nói rằng:
- Ta không biết hoàng thượng truyền cho ta làm gì, chỉ biết người mà hoàng thượng truyền là ta. A-ma, người có ý chỉ gì nữa không?
Dận Tự thấy Khang Hy thần sắc thay đổi hẳn, nhà vua đã hoàn toàn không thể nói được. Vì thấy dưới ánh mắt uy hiếp của Dận Chân, cuối cùng Dận Đường có chút nản chí, nên Dận Tự lại chọc một câu:
- Mọi người đều nghe thấy, hoàng thượng muốn truyền ngôi cho Thập tứ a-ca!
Dận Đường thấy Dận Tự ủng hộ mình, dũng khí tăng lên, cuối cùng đã quỳ xuống trước một bước, khấu đầu nói rằng:
- Hoàng thượng không cần để ý đến Tứ ca làm gì. Anh ấy đã u mê cái đầu rồi! Thập tứ a-ca ở Tư Châu, chú ấy đang ngày đêm trở về vấn an người. Có lời nói gì sợ không kịp nói, hoàng thượng, người cứ sai bảo, bọn loạn thần, bọn ăn cướp không chống lại được!
- Ngươi... ngươi giỏi thật... - Khang Hy nghiến răng, cuối cùng bỗng ngồi dậy, chỉ vào Dận Đường toàn thân run rẩy. Mãi sau nhà vua vớ lấy chuỗi hạt ở bên gối dằn xuống, nhưng... bỗng nhiên trước mắt tối sầm, rồi nhà vua không còn biết gì nữa hết!
--------------------------------

1
Hai khắc: là 30 phút, một khắc là 15 phút. (ND).
 
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: e-thuvien
Được bạn: Mọt sách đưa lên
vào ngày: 27 tháng 2 năm 2012

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--