Dịch giả: Lm DUY ÂN MAI
Phần thứ nhất -NGUỒN CỦA SỰ SỐNG - Chương I

Chương I: CÓ THIÊN CHÚA
 
Chương II: CHÚNG TA BIẾT GÌ VỀ THIÊN CHÚA
 
Chương III: MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI
 
Maisen hỏi Chúa tên gì? Chúa trả lời: "Ta là Đấng Tự Hữu". (Xuất hành 3,14).
CHƯƠNG I
 
CÓ THIÊN CHÚA
 
 
I. NHỮNG NGƯỜI KHÔNG TIN CÓ THIÊN CHÚA
 
Tin có Thiên Chúachân lý làm nền tảng cho mọi chân lý khác.
 
Nhưng thời nay chân lý căn bản này, nhiều người không chấp nhận nữa: Người Tin lành của thế kỷ 16 đã tuyên bố: "không còn Giáo hội nữa". Các nhà triết gia của thế kỷ 18 hô to: "không có Chúa Kitô nữa!". Và thế hệ của người không tin có Thiên Chúa hô hào: "Không còn Thiên Chúa nữa!"
 
Chúng ta phải công nhận rằng con người càng tiến bộ về mặt vật chất, họ càng phủ nhận các chân lý thiêng liêng và luân thường. Đứng trước tình trạng này, người Kitô hữu không thể hài lòng với câu trả lời đơn giản: "Tôi tin có Thiên Chúa!". Họ phải biết nói lên những lý do của đức tin mình. Muốn được thế họ phải hiểu biết đạo lý cách sâu sắc do sự học hỏi của chính họ.
 
Sau đây là những người không tin có Thiên Chúa.
 
a) Có những người tưởng rằng tin có Thiên Chúa là một sự nghịch với khoa học. Thái độ này rất thịnh hành hồi thế kỷ 19, thế kỷ đã khám phá ra nhiều phát minh khoa học, nên nhiều nhà bác học tin vào những bước tiến vô hạn định của khoa học. Thế kỷ 20 này, thái độ ấy đã giảm đi nhiều; vì người ta đã biết phân biệt lãnh vực của khoa học với lãnh vực của tôn giáo.
 
b) Có những người tưởng rằng tin có Thiên Chúa là một trở ngại cho tự do của con người. Họ phủ nhận Thiên Chúa bởi vì nhìn nhận có Thiên Chúa tất nhiên phải chấp nhận những tôn chỉ luân thường của tôn giáo. Thường là của những người mất đức tin khi đến cái tuổi người ta muốn sống một cuộc đời riêng biệt, không muốn đầu phục một quyền bính nào ngoài họ. Những người này chỉ muốn lấy lạc thú của thể xác làm mẹo mực cho đời họ; Thiên Chúa chỉ gây phiền toái.
 
Thái độ này thực ra sợ Thiên Chúa hơn là phủ nhận có Thiên Chúa.
 
c) Có những người tưởng rằng nhìn nhận có Thiên Chúa là phủ nhận phẩm giá của con người. Nhưng phát minh thần kỳ của con người tân tiến làm cho một số tin rằng con người mới là Chúa thật của vũ trụ, con người được thần hoá đến thay thế một Thiên Chúa trên con người. Sau đây là một tỷ dụ điển hình của những người ấy. Jaures tuyên bố như thế này tại Quốc hội Pháp: "Không có chân lý siêu nhiên, nghĩa là chân lý mà con người không có quyền khám phá. Tất cả những chân lý không do chúng ta tìm ra, đều là nói láo, là ảo tưởng... Nếu lý tưởng siêu nhiên trở nên hữu hình, nếu Thiên Chúa chống lại con người dưới mọi hình thức sống động, con người có bổn phận từ chối sự vâng lời, và có quyền đặt mình ngang hàng để nói chuyện chứ không phải coi Thiên Chúa như một người chủ phải chấp nhận".
 
d) Còn có những người cho rằng tin có Thiên Chúa đã trở nên lỗi thời, là một điều vô ích, có hại nữa, mâu thuẫn với các định luật của cuộc tiến hoá của nhân loại.
 
Chủ thuyết trên có thể tóm lại như sau đây: Chỉ có vật chất và mọi sự đều do vật chất. Nhưng vật chất không phải là một cái gì bất động. Nó có một động lực bắt nó luôn luôn bành trướng; nhưng nó đụng độ với một lực lượng và lực lượng này lại đi về ổn định. Giữa hai lực lượng này tiếp diễn một cuộc tranh đấu. Tranh đấu là định luật của sự sống và của sự tiến bộ. Cuộc tranh đấu này hiện diện trong mỗi vật và giữa vật này với vật khác: Lịch sử của nhân loại chỉ là lịch sử của các cuộc tranh đấu giữa các giai cấp xã hội, giữa người bị bóc lột và người bóc lột. Giai cấp bị bóc lột là lực lượng của sự tiến bộ; còn giai cấp bóc lột là lực lượng phản lại tiến bộ. Nhân loại ngày nay đang tiến gần đến cuộc tranh đấu cuối cùng: cách mạng sẽ tiêu huỷ hoàn toàn giới tư bản. Sau đó thế giới sẽ đựợc tổ chức lại trên những nền tảng mới và mỗi người sẽ hưởng hạnh phúc và gây hạnh phúc cho toàn thể.
 
Lý thuyết này có chủ đích tiêu diệt các bất công xã hội. Những bất công này của xã hội, người công giáo chúng ta cũng kết án. Đàng khác cũng phải công nhận rằng lý thuyết trên có một phần hợp lý và cao thượng. Nhưng cũng là một cố gắng để hủy bỏ Thiên Chúa; chẳng những huỷ bỏ Thiên Chúa khỏi đời tư của cá nhân mà huỷ bỏ Thiên Chúa khỏi cộng đồng nhân loại.
 
e) Thế giới hiện sinh cho rằng tin có Thiên Chúa là một quan niệm mâu thuẫn. Theo J.P.Sartre không thể tin được Thiên Chúa tự hữu. Vì nếu tin như thế thì Thiên Chúa lại là nguyên nhân của mình; nguyên nhân phải có trước hậu quả.
 
Người Kitô có thể trả lời: Ý niệm "nguyên nhân" và "hậu quả" chỉ có nghĩa khi nói đến loài thụ tạo: Loài thụ tạo sống trong thời gian. Còn Thiên Chúa không lệ thuộc thời gian; Người ra ngoài thời gian. Nơi Người không có trước không có sau. Người đời đời sống trong hiện tại.
 
Thuyết hiện sinh đi đến kết luận này: không thể giải thích tại sao có con người; con người có là một sự thật vô lý. "Những gì có đều sinh ra mà không có lý do; tiếp tục sống vì hèn nhát và chết vì đụng độ với một lực khác" (J.P Sartre: la nausée).
"Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi tới kết hợp với Thiên Chúa. Nhưng có nhiều người không nhận ra hoặc công khai gạt bỏ sự liên kết mật thiết và sống động giữa con người với Thiên Chúa...
 
"Có người phủ nhận Thiên Chúa cách tỏ tường, có người lại nghĩ rằng con người hoàn toàn không thể quả quyết gì về Thiên Chúa cả. Có người cứu xét vấn đề Thiên Chúa theo một phương pháp làm cho vấn đề đó xem ra thiếu hẳn ý nghĩa. Vượt quá phạm vi khoa học thực nghiệm, nhiều người hoặc chủ trương giải thích mọi sự chỉ bằng khoa học này, hoặc trái lại, hoàn toàn không chấp nhận một chân lý nào là tuyệt đối. Có người lại quá đề cao con người đến nỗi sự tin tưởng vào Thiên Chúa trở nên như vô nghĩa. Những người này xem ra muốn đề cao con người hơn là muốn chối bỏ Thiên Chúa. Có người hình dung một Thiên Chúa theo kiểu họ tưởng đến nỗi Thiên Chúa mà họ phủ nhận không phải là Thiên Chúa của Phúc âm...".
(Công đồng Vaticanô II)
 
II. TẠI SAO CHÚNG TÔI QUẢ QUYẾT CÓ THIÊN CHÚA
 
Tin có Thiên Chúa vì chỉ có thế mới giải thích được đầy đủ tại sao có:
 
1) Những vật không tự hữu;
2) Sự sống và sức vận chuyển;
3) Trật tự vật lý;
4) Trật tự tinh thần.
 
Đấy là bốn 4 bằng chứng để nói có Thiên Chúa. Chúng ta sẽ phải tìm hiểu từng bằng chứng một. Song tất cả 4 đều do một nguyên tắc duy nhất: "Cái hơn không thể do cái thua kém mà sinh ra".
 
Nói cách khác, nếu không có một nguyên nhân bên ngoài, người ta không thể hiểu làm sao từ không sang có; từ không có sự sống sang có sự sống; từ hỗn tạp sang trật tự; từ vật vô ý thức sang vật có ý thức.
 
Phải có một nguyên nhân bên ngoài các sự vật này và nguyên nhân này phải tự hữu, phải sống động, thông minh và tốt lành.
 
1) Những vật không tự hữu.
 
Chúng ta có thể lập luận như thế này: Thế giới này được kết thành do những vật không thể tự mình mà có; những vật này cần đến một nguyên nhân có trước. Từ vật này lên vật trước, phải đến lúc có một nguyên nhân cuối cùng, tức là Thiên Chúa.
 
2) Sự sống và sức vận chuyển.
 
Thế gian này có những vật có sự sống và tự mình vận chuyển. Muốn hỏi tại sao chúng có sự sống và sức vận chuyển thì phải có một cái gì sống và vận chuyển trước chúng nó. Nếu cứ từ vật sống này lên vật sống khác, chúng ta cũng phải ngừng ở nguyên nhân có sự sống sau hết và tự mình mà có sự sống và sức vận chuyển, không còn nhờ đến ai khác nữa. Người sống tự mình có là Thiên Chúa.
 
3) Trật tự vật lý của vũ trụ.
 
Chúng ta đang sống trong một thế giới hữu cơ nghĩa là có những định luật rõ ràng điều khiển các vật, điều hoà sinh hoạt của chúng và bảo đảm thăng bằng và trật tự của toàn bộ. Nếu khi ngắm một bộ máy tính hoàn hảo, chúng ta nhìn nhận người kỹ sư thông minh và tài ba; phải ngắm vụ trũ tuyệt hảo như vậy, chúng ta cũng phải nhìn nhận phải có một trí óc thông minh và một quyền năng vượt mọi trí óc và quyền năng đã sáng tạo ra. Đấng thông minh và toàn năng ấy, chính là Thiên Chúa.
 
Để nhận thấy trật tự thần kỳ của vũ trụ chúng ta hãy nhìn qua:
a/ Thế giới vô cùng lớn lao;
b/ Thế giới vô cùng nhỏ bé;
c/ Những kỳ công trong thể xác loài người.
 
a/ Thế giới vô cùng lớn lao.
 
Quả địa cầu của chúng ta cách mặt trời 150 triệu cây số; nó quay quanh mặt trời với tốc độ là 108.000 cây số giờ.
 
Ngoài trái đất còn có nhiều hành tinh khác thuộc thái dương hệ, như Mercure cách mặt trời 65 triệu cây số; Pluton cách 6 tỷ cây số.
 
Mặt trời lớn hơn trái đất 1.300.000 lần, và cũng là thành phần của một thế giới tinh tú. Với loại kính thường người ta đếm được 2.270.000 tinh tú. Nhưng bây giờ người ta mới tạo ra bên Mỹ một thứ kính có một khả năng thấy xa hơn con mắt đến 1.500.000 lần. Với những dụng cụ này các nhà thiên văn đếm số sao của sông Ngân hà; đếm cả cách khoảng giữa các ngôi sao.
 
Sông Ngân hà có chừng 50 đến 80 tỷ ngôi sao. Ngôi sao gần chúng ta hơn hết là 36.000 tỷ cây số ngàn. Sao bắc đẩu cách 440.000 tỷ cây số ngàn.
 
Nhưng ngôi sao khác xa nhau quá, không thể lấy đơn vị cây số mà tính được. Phải lấy đơn vị ánh sáng, giây ánh sáng, năm ánh sáng. Một giây ánh sáng đi được 300.000 cây số; một năm, ánh sáng đi được 9.460.800.000 cây số.
 
Tính như thế từ đầu này sông Ngân Hà đến đầu kia có 100.000 năm ánh sáng.
 
Và chưa hết: còn nhiều hệ thống khác giống như sông Ngân Hà. Đến bây giờ, người ta mới đếm được 2 triệu hệ thống. Chẳng hạn hệ thống Hercule là một khối có hàng triệu mặt trời; hệ thống Sagittaire có trên 800 triệu mặt trời xa trái đất đến 30.000 năm ánh sáng… Và cũng chưa hết: Còn nhiều vũ trụ khác giống vũ trụ của chúng ta. Vũ trụ có tên là tinh vân Andromede, gần trái đất hơn cả cũng phải mất 750.000 năm ánh sáng. Người ta còn khám phá ra hằng ngàn vũ trụ tương tự và luân chuyển xa hơn chúng ta… đến 1 tỷ năm ánh sáng.
 
Trước những con số khổng lồ đó, Kinh thánh trong Ca vịnh hô lên rằng: “Các tầng trời cao rao vinh quang của Thiên Chúa và không gian loan tin kỳ công của tay Người” (Cv.18). Newton cũng nói: “Tôi thấy Chúa đi qua trước ống kiến viễn vọng của tôi”.
 
Đứng trước một hệ thống bao la và nguy nga luân chuyển theo những định luật rất khôn khéo, người ta cảm thấy mình thấp hèn và đầy thán phục, và người ta phải đồng ý với Cuenot khi ông nói: “Đối với tôi phép lạ của các phép lạ là vũ trụ nầy bao giờ cũng đi về trật tự, chứ không rơi vào hỗn loạn”.
 
b) Thế giới vô cùng nhỏ bé
 
Vật nhất của vũ trụ cũng đưa chúng ta đến chỗ nhìn nhận Thiên Chúa.
 
Một gam nước chẳng hạn chứa đến 33.500 tỷ của hàng tỷ phân tử. Một phân tử nước hợp thành bởi nguyên tử Hydro và Oxy. Nguyên tử Hydro cũng do hai đơn vị khác: dương điện tử và âm điện tử (proton và électron). Còn nguyên tử Oxy thì lại có 8 dương điện tử và 8 trung hoà tử. Hai thứ này cấu thành nòng cốt; ngoài ra còn có 8 âm điện tử nữa. Tất cả ba thứ này cùng nhau kết thành một nguyên tử lớn bằng một phần trên 10 triệu phần của 1 li.
 
Một kính hiển vi thường có thể cho thấy những sự lạ: trên cánh bướm mỗi phân vuông có đến 16.500 cái vi; trong một li khối nước có đến 40 triệu con vật tí hon.
 
c) Cơ thể của con người
 
Chúng ta còn có thể kinh ngạc nhiều trước những kỳ công trong cơ thể của con người. Hai cuống phổi thật là một xưởng máy làm dưỡng khí; dạ dày và ruột lọc và làm cho tinh vi các thức ăn; gan là nhà máy phát sức nóng và sức chuyển động; lá lách là nơi làm ra hồng huyết cầu; thận là nhà máy lọc các chất dơ; trái tim là thứ ống bơm hai chiều; óc và thần kinh là một thứ nhà máy phát điện và thông sự sống cho toàn bộ phận; tay là cơ quan để động; chân cơ quan để di chuyển; hai con mắt là một thứ kiếng tinh xảo; tai cơ quan để nghe; họng là thứ máy nói sống động.
 
Chúng ta chỉ cần trích ra đây hai đoạn sách rất danh tiếng của bác sỹ Alexis Carrel: “Máu của con người ta có chừng 30 nghìn tỷ hồng huyết cầu và 50 tỷ bạch huyết cầu. Những trung tâm thần kinh chất chứa lối 12 tỷ tế bào và nối liền nhau nhờ những sợi dây phân chia ra nhiều thứ. Nhờ những thớ thịt này các tế bào chằng chịt lại với nhau hàng triệu lần và thành một khối rất thống nhất sinh hoạt như một. Chúng ta quen với những máy móc đơn giản, với những dụng cụ đo lường rất đúng; khi nhìn vào cơ thể con người thì phải công nhận là một thần kỳ và khó hiểu”. (Con người. tr 38 và 45).
 
Một khi đã ngắm nhìn những kỳ công lớn nhất cũng như nhỏ nhất trong vũ trụ, nhất là chúng luân chuyển không bao giờ bị trắc trở và rất khéo léo; một khi nhìn ngắm cơ thể con  người rồi, chúng ta chỉ có một kết luận hợp lý: “Tất cả những thứ ấy không thể tự tạo nên. Ngẫu nhiên không thể giải thích tại sao có tình trạng điều hoà như thế, tại sao bao nhiêu phương tiện lại thích hợp đến thế với chủ đích nhất định. Chỉ có một quyền năng bên ngoài mới có thể làm chủ một công việc bao la như thế: Tôi tin có Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo Trời và Đất.”
 
Bây giờ chúng ta mới hiểu lời nói của Kinh Thánh: “Tất cả họ đều khờ dại, những ai không biết Thiên Chúa qua những vật hữu hình, những ai không nhìn ra người thợ qua những kỳ công của Người.” (Sagesse 13,1-9). Và: “Người lương dân có thể nhận biết những gì về Thiên Chúa và họ đã nhận biết Thiên Chúa đã tỏ ra cho họ. Bởi từ khi sáng tạo vũ trụ, những đức tính vô hình đã tự bày tỏ ra trong các tạo vật, đặc biệt quyền năng đời đời và thần tính của Người. Do đó mà họ không thể vô tội”. (R 1,19-20).
 
4) Trật tự luân lý
 
Có thể lập luận như thế này: Mỗi người đều nghe tiếng nói của lương tâm phân biệt Lành và Dữ. Ai cũng biết rằng mình phải làm Lành lánh Dữ, mặc dầu họ có thể hiểu sai đâu là Lành đâu là Dữ, hay có thể phản lại mệnh lệnh của lương tâm. Ai đã đặt trật tự này trong con người?
 
Không thể là con người, vì con người lệ thuộc luật ấy và có khi còn muốn được thoát ly nữa. Cũng không phải do xã hội; xã hội lắm lúc cũng đi ngược luật lương tâm. Vậy phải nhìn nhận đó là luật của Thiên Chúa đã ghi vào lương tâm của con người. Thiên Chúa là sự thiện tuyệt đối.
 
III. CÁC NHÀ BÁC HỌC NGHĨ GÌ?
 
Những ai biết suy nghĩ đều có thể hiểu các lý lẽ chúng tôi mới trình bày trên đây. Mặc dầu cũng nên nhắc lại rằng trong quá khứ cũng như hiện tại, các nhà bác học lỗi lạc nhất đều xưng hô đức tin của họ: Họ tin có Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghe lời tuyên xưng cảm động của một trong những nhân vật của thời nay, lời tuyên xưng của nhà địa chất học Pierre Termier: “Hai chương cuối cùng của tôi là những trang dẫn chứng của đạo Chúa Kitô. Và người biện chứng là con người từ tuổi trẻ cho đến trưởng thành chỉ chuyên về những khoa của thiên nhiên và không bao giờ vì đó mà giảm bớt Đức Tin, Đức Cậy và Đức Ái. Xưa nay tôi đã tin và bây giờ vẫn còn tin đạo Kitô là chân lý và ngoài đạo ấy ra không thể cứu độ thế giới bằng cách nào khác. Tôi tưởng thời nay rất hệ trọng, vì thời nay tất cả mọi tín đồ Kitô phải chứng tỏ họ đã thâm hiểu các lý lẽ của đức tin mình và chứng rằng họ đã quyết tâm chọn con đường hẹp và gồ ghề này giữa 20 con đường trước mắt; bởi vì con đường này dẫn đến nguồn sống… (La Joie de Conaitre, tr 8).
 
Một số đông bác học có thể ký bản tuyên xưng này. Một số khác nếu không rõ ràng như thế, song vẫn không giấu diếm họ tin có Thiên Chúa. Chẳng hạn Pascal, Newton, Cuvier, Claude Bernard, Ampère, Lavoisier, Branly, De Broglie…
 
Trường hợp các nhà bác học danh tiếng nhất không bao giờ gặp khó khăn cho đức tin của họ vì khoa học, tuy không phải là bằng chứng đích xác, vẫn có giá trị lớn cho việc minh chứng Thiên Chúa. Một nhà biện giải mới làm một bản thống kê cho giới khoa học. Thế kỷ 19 có tất cả 432 bác học trứ danh và trong đó đã có 357 tín đồ Kitô. Còn là 75 vị, song có 44 vị không ai rõ về thái độ tôn giáo. (R.P.Eymieux: La part des croyants dans les progres de la science).
 
Năm 1928 Robert de Flers có làm một cuộc điều tra nơi 72 hội viên của Hàn Lâm Viện khoa học trên vấn đề này: “Khoa học có phản lại tín ngưỡng không?”.
 
Hầu hết các vị ấy trả lời là không; bởi vì mỗi sinh hoạt có một phạm vi riêng biệt. Một số còn đi xa hơn và tuyên bố rằng tin có Thiên Chúa là câu trả lời hợp lý hơn cả cho mọi cố gắng tìm tòi và lo âu của nhà bác học.
 
“… Không có gì cản trở tinh thần khoa học hoà hợp với những tín ngưỡng đã được suy nghĩ và sáng suốt. Trái lại với khoa học càng được đào sâu thì tôn giáo lại thêm sức mạnh, lại làm sáng tỏ bàn tay của Tạo Hoá”. (Tướng Bourgeois, giáo sư tại trường Polytechnique).
 
“… Tại sao lại không nhấn mạnh điểm này là chính khoa học cho chúng ta thấy một vũ trụ tuyệt đẹp và rất thứ tự, và chứng tỏ có hoà hợp giữa các cuộc thí nghiệm và lý thuyết? Nhìn khoa học như thế, khoa học dẫn đến lập trường duy linh”. (Léon Guillet, Giám đốc trường Centranle).
“… Ngày nào Hàn Lâm Viện của khoa học cho biết rằng có một người đã thay đổi con đường luân chuyển của các tinh tú trên trời, con đường mà vũ trụ đã theo hàng ngàn thế kỷ nay; ngày nào mà một người khác hay cũng chính người đó, chỉ trỏ ngón tay mà làm cho những hạt giống trở thành đống lúa mì hay giỏ bông hường, có tài tạo nên con chí hay con voi hay con rắn lục hay con hươu, hay là ban cho mỗi người chúng ta trí khôn và lòng tốt, ngày đó thật là một biến cố lớn lao trong lịch sử của khoa học. Một số người sẽ dựa vào đó mà phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận Đấng Tạo Hoá: riêng tôi, tôi biết có người sẽ nói thế này thôi: “Con người đã đi vào trong bí mật của Thiên Chúa!” (Lindet, Giáo sư tại trường National Agronomique).
 
“… Vũ trụ vô tận! Thật là một cảnh tượng vĩ đại, tuyệt đẹp! Nếu có thể được, bạn hãy hình dung một thế giới khác hùng tráng hơn, thanh bình hơn, cao cả hơn; bạn hãy tưởng tượng ra một nguồn vui thú trong trắng hơn, tế nhị hơn và cao thượng hơn! Bạn hãy ngắm nhìn, hay khâm phục, hãy tìm hiểu, hãy quan sát, hãy dò xét, hãy tính toán, hãy đo lường, hãy đối chiếu, hãy quan niệm, hãy mơ mộng, bạn hãy thử làm tất cả những gì kỳ lạ, là liều lĩnh. Nếu bây giờ lý trí bạn bất cập, vô phương, chịu thua, bị đè bẹp, đầy cảm động, bạn hãy thử có thái độ kiêu hãnh trước bí mật lạ lùng và hùng vĩ đang hoa mắt bạn và đang gây rối loạn tinh thần nơi bạn. Bây giờ nếu bạn thú nhận không thể được, bạn hãy vâng theo những khát vọng thâm sâu của linh hồn bạn mà nhận một Đấng toàn năng, toàn thiện, một vị trên hết mọi sự đã sáng tạo ra vũ trụ vật chất và thế giới tinh thần”. (Ch. Moureu, giáo sư tại Collège de France).
 
IV. KẾT LUẬN
 
Nếu chúng ta đem những lập trường phủ nhận Thiên Chúa so sánh với những bằng chứng bênh vực lập trường tin có Thiên Chúa, tất cả những ai khách quan, không bị kiêu căng hay thiên kiến chi phối, phải nhìn nhận rằng con người và vũ trụ không thể hiểu được nếu không có một Thiên Chúa tự hữu và siêu việt. Con người và thế giới cũng không thể sống trong trật tự nếu không có một quyền bính tối cao điều khiển và thưởng phạt cuộc đời luân thường.
 
Phủ nhận Thiên Chúa, tức là thần hoá con người, và như thế con người trở thành người chủ của mình, một người chủ không biết hạn chế ham muốn và tham vọng.
 
Phủ nhận Thiên Chúa, tức là thần hoá chính quyền và như thế chính quyền (quốc gia) trở thành cứu cánh của con người, quan toà tối thượng để phân xử lành và dữ, bạo chúa chẳng tôn trọng các quyền lợi của con người.
 
Phủ nhận Thiên Chúa, tức là phá huỷ nguồn gốc chung, định mệnh chung của toàn thể nhân loại.
 
Phủ nhận Thiên Chúa, tức là phá huỷ căn bản của mọi quyền bính và như thế quyền bính sẽ không còn dây cương, quyền bính sẽ là dụng cụ đầy nguy hiểm của sức mạnh và tham vọng.
 
Ngày nay chúng ta sống trong một thế giới vô thần. “Vô thần không phải là một sự kiện địa phương, nghĩa là có một vài nơi vắng Thiên Chúa. Thiên Chúa vắng mặt khắp nơi và đây là một sự kiện gây nên do một thâm ý của con người. Thiên Chúa vắng mặt vì bị trục xuất ra khỏi lòng người, khỏi xã hội và xã hội tự đóng cửa. Xã hội do đó mà thành trống không. Vì trống không mà xã hội đi về cõi chết” (Hồng y Suhard).
 
Loại trừ Thiên Chúa thì sinh ra nạn bất an ninh, nạn tranh đấu, nạn đói khổ và hỗn loạn. Chúng ta có thể quả quyết với Đức Piô 12: “Những lối lo sợ của thời hiện nay biện hộ cho đạo Kitô một cách rất là hào hùng. Bao nhiêu thuyết sai lầm, bao nhiêu phong trào chống đạo Kitô đã đem lại hoa trái đắng cay đến nỗi chúng chính là quan toà lên án thế giới vô thần khá hùng biện rồi, không cần phải nhờ đến một thuyết nào nữa” (Thông điệp Summi Pontificatus).
 
Lời nói của tiên tri Isaia trở nên rất thích thời cho ngày nay: “Hãy trở về với Ta thì các ngươi sẽ được cứu vãn, hỡi các dân tộc trên hoàn cầu, bởi vì Ta là Thiên Chúa và không có ai khác” (Is 45,22).
 
Để kết thúc chương này chúng tôi xin trích lên đây lời kêu gọi thống thiết của Đức Piô 12 trong đài vô tuyến truyền thanh đọc cho mọi dân tộc và chính quyền trên thế giới: “Thiên Chúa! Thiên Chúa! Thiên Chúa! Chớ gì cái tên khôn tả nầy, nguồn của mọi thứ quyền, của mọi thứ công lý, của mọi thứ tự do, chớ gì cái tên này rền vang trong các quốc hội, và tại những nơi công cộng, trong các gia đình và trong các xưởng máy, trên môi miệng của giới trí thức và anh em thợ thuyền, trong báo chí và truyền thanh.
 
“Chớ gì danh của Thiên Chúa, cái danh đồng nghĩa với hoà bình, với tự do, trở nên lá cờ của mọi người thiện chí, mối dây thắt chặt các dân tộc và các quốc gia, dấu hiệu để người ta nhìn nhận nhau là anh em một nhà, là những người thợ cùng thực hiện một công việc chung: công việc cứu rỗi.
 
“Chớ gì Danh Thánh của Ngài vang dội trong các đền thờ, trong các tấm lòng như là một tiếng kêu van Thiên Chúa để Người dùng quyền năng của Người mà yểm trợ sức hèn của nhân loại hầu hoàn thành những công việc tự lực mình con người rất khó làm được…