Dịch giả: Lm DUY ÂN MAI
Chương II
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO CON NGƯỜI

A. SỰ VIỆC SÁNG TẠO
 
I. THỂ XÁC CỦA CON NGƯỜI
 
1) Sách Sáng thế thuật: “Thiên Chúa tạo nên con người từ bụi đất.” (Gen 2,7). Giáo hội không nói phải hiểu như thế nào chất liệu Thiên Chúa đã dùng để dựng nên thể xác con người. Giáo hội chỉ tuyên xưng Thiên Chúa đã tạo dựng nên nó thật, và dành cho khoa học công việc tìm hiểu Thiên Chúa đã tạo dựng làm sao theo như có thể biết được.
 
2) Các giả thuyết khoa học. - Từ mấy chục năm nay các nhà bác học tìm hiểu rất nhiều về nguồn gốc của thể xác con người. Các ông đang còn rất xa nhau trong ý kiến. Nhờ khoa học cổ sinh vật cứ đem lại phát minh mới nên các giả thuyết cũng cứ theo nhau mà về bóng tối.
 
Giả thuyết biến hoá chủ trương rằng con người là điểm tới của một cuộc diễn tiến của các sinh vật. Hiện giờ trên mặt khoa học giả thuyết nầy đang vấp phải một số khó khăn rất lớn, những khó khăn mà các thuyết gia tiên khởi không thấy. Thành ra vẫn còn chỉ là một giả thuyết, chưa có gì xác đáng.
 
Thuyết biến hoá phân ra làm hai thứ:
 
- Biến hoá toàn bộ - Lập trường nầy không nhìn nhận một sự can thiệp nào bên ngoài do Thiên Chúa.
- Biến hoá ôn hoà - Lập trường này nhìn nhận phải có sự can thiệp của Thiên Chúa ngoài các định luật tự nhiên.
 
3) Lập trường Công giáo. – “Giáo hội buộc chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã trực tiếp dựng nên linh hồn. Nhưng Giáo hội không cấm đoán các nhà bác học và thần học tranh luận về thuyết biến hoá, miễn là tất cả mọi người sẵn sàng tùng phục tiếng nói của Giáo hội; bởi vì Giáo hội đã được Chúa Kitô uỷ thác nhiệm vụ xác định nghĩa của Kinh Thánh và bảo vệ đức tin. Công việc tìm hiểu thể xác con người đã thành hình do một sinh vật đã có rồi hay không… chưa có gì vững chắc, nên các đối phương cần thận trọng và khôn ngoan trong khi tranh luận. Cũng có một số đi quá mức và xem lập trường của mình như là chắc chắn khi nó chỉ dựa trên một ít dấu tích đó. Họ đoán chắc rằng thể xác con người đã thành hình do một sinh vật đã có trước như thế là trong nguồn mạc khải không có một tí gì về phương diện này có thể buộc họ dè dặt và khôn ngoan hơn” (Piô 12: Humani generis).
II. LINH HỒN CỦA CON NGƯỜI
 
Trong đoạn hai Kinh Thánh trình bày công việc sáng tạo Adong như thế nầy: “Thiên Chúa sáng tạo con người từ bụi đất và hà vào lỗ mũi một hơi sống và con người trở nên một sinh vật” (Gen 2,7).
 
Khi dùng hình ảnh để diễn tả, tác giả Kinh Thánh muốn tuyên bố chân lý căn bản này: Thiên Chúa đã trực tiếp dựng nên linh hồn và kết hợp nó với một cơ thể để thành một thụ tạo mới. Tinh thần và vật chất kết hợp với nhau trong con người.
 
Không thể lấy thuyết biến hoá mà giải thích sự hiện diện của linh hồn. Sự hiện diện của linh hồn là một sự kiện đặc biệt, cần phải có Thiên Chúa can thiệp trực tiếp. Tư tưởng kế tiếp sự sống, song phải vượt qua một khoảng cách, chỉ có Thiên Chúa mới làm cho tư tưởng qua được khoảng cách đó.
 
Trong đoạn nhất Kinh Thánh thuật lại sau đây: “Chúa nói: Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta… Và Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người; Người dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người dựng nên người nam và người nữ, Thiên Chúa chúc lành cho họ và truyền dạy: Hãy sinh sản nhiều con cái, hãy chiếm đoạt toàn trái đất và hãy điều khiển nó” (Gen 1,26-28).
 
Khi nhắc đi nhắc lại điểm con người giống Thiên Chúa, Kinh Thánh muốn tuyên bố rằng giữa các thụ tạo chỉ có người là loài được cấu tạo nên do hai yếu tố: tinh thần và vật chất.
 
Khi thuật lại Thiên Chúa dựng nên người nam và người nữ và truyền cho họ sinh sản con cái, Kinh Thánh muốn dạy rằng:
 
a) Phép hôn phối là một định chế do Thiên Chúa và nó không thể phân ly được. Kinh Thánh còn nói thêm: “Người nam sẽ bỏ cha mẹ và ở với vợ mình, hai người sẽ thành một xương một thịt” (Gen 1-24).
 
b) Người đàn bà là bạn của người đàn ông, đồng địa vị với người chồng. Đây là một chân lý mà Giáo hội ngay từ thuở sơ khai, đã tuyên xưng để chống lại quan niệm lương dân cho rằng nữ giới thua kém nam giới.
 
c) Tất cả mọi người đều bắt nguồn do cặp vợ chồng này.
 
B. CHÚA ĐÃ SÁNG TẠO CON NGƯỜI TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?
Adong và Evà là những tuyệt tác của công trình sáng tạo.
 
Thiên Chúa đã làm cho ông bà những điều mà không một thụ tạo nào khác dựng nên trước được hưởng.
 
a) Người ban cho họ một linh hồn thiêng liêng giống hình ảnh của Người. Khoa thần học gọi là Ơn tự nhiên.
 
b) Người nâng họ lên địa vị con Thiên Chúa và cho họ sống đời sống của Người: Ơn thánh hoá. Ơn thánh này chuẩn bị họ sau nầy hưởng nhan Người đời đời trên Thiên Đàng. Đó là những Ơn siêu nhiên.
 
c) Người còn ban cho họ những đặc ân phụ để bổ khuyết những thiếu sót của nhân tính. Đó là những Ơn trừ nhiên.
 
I.  ƠN HUỆ TỰ NHIÊN LÀ NHỮNG THỨ NÀO?
 
Adong và Evà có bản tính nhân loại đầy đủ, nghĩa là một thể xác một linh hồn. Thể xác của họ cũng có cảm giác như của thú vật. Linh hồn của họ giống hình ảnh của Chúa nhờ bản tính linh thiếng có những khả năng mà thú vật không có: trí khôn có thể hiểu biết và ý chí tự do có thể hành động.
 
Con người móc nối thụ tạo với Đấng Tạo Hoá:
 
Bởi vì con người là một thể xác, con người là thành phần của thế giới vật chất; thành ra cũng lệ thuộc các định luật của vật chất; ăn, mặc, ở, cả kinh nguyện và tư tưởng cũng tuỳ thuộc của các định luật ấy nữa. Nhưng trái lại con người thông cảm những kỳ công của vũ trụ, con người còn có thể hành động trên vật chất và đóng ấn vào vật chất dấu vết của tinh thần.
 
Bởi vì con người là một linh hồn, con người còn là thành phần của thế giới linh thiêng; con người hiểu biết và tự do. Sinh hoạt của con người một phần không lệ thuộc các định luật của vật chất; con người làm chủ vật chất và đang tiếp tục công việc của Thiên Chúa khi họ hoạt động trong thế giới vật chất. Hướng về đời đời, con người dựng nên để tìm kiếm và yêu mến những giá trị đời đời, chân, thiện, mỹ. Tư tưởng và những khát vọng của con người không bị hạn chế trong thời gian và không gian: con người được dựng nên để sống vĩnh cửu. Sự kiện này nâng cao giá trị và địa vị của con người: vua của vũ trụ.
 
II. ƠN HUỆ SIÊU NHIÊN LÀ NHỮNG THỨ NÀO?
 
Thiên Chúa  ban cho các thụ tạo khác một sự sống xứng hợp với bản tính của chúng; còn con người được Người ban cho vinh dự chia phần chính sự sống của Người.
 
Một lần nữa chúng ta nói đến chân lý căn bản của đạo Kitô. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, con người không cùng số phận với các loài khác; con người được nâng lên làm “con nuôi” của Thiên Chúa để sống vĩnh cửu trong gia đình của Người. Sống đời đời có nghĩa là ngắm nhìn nhan thánh Người.
 
Ngay dưới thế nầy con người đã hưởng thụ một phần nào mối tình và sự sống của Thiên Chúa, tức là Ơn thánh hoá, đời sống của ơn thánh. Nhờ ơn thánh nầy mà linh hồn con người được thần hoá và dọn đường cho nó để mai sau bước vào sự sống vinh hiển.
 
III. ƠN TRỪ NHIÊN LÀ NHỮNG THỨ NÀO?
 
Đáng ra con người phải chịu một số khuyết điểm do bản tính của mình. Nhưng Chúa cũng muốn giải thoát họ khỏi những khuyết điểm ấy.
 
a) Phần thể xác - Lẽ ra Adong và Eva cũng phải lệ thuộc định luật đau khổ và chết. Thiên Chúa đã ban cho họ đặc ân làm việc mà không biết mệt nhọc và sống mà không bệnh tật. Thiên Chúa cũng chuẩn cho họ khỏi chết và có thể bước thẳng sang sự sống đời đời trên Thiên Đàng. 
 
b) Phần linh hồn – Đáng ra Adong và Eva không thể biết một số chân lý và phải tuỳ thuộc một số xu hướng của giác quan. Nhưng Thiên Chúa đã cho họ biết những chân lý cần thiết và ban cho họ làm chủ tình dục. Giác quan tuỳ thuộc lý trí và lý trí tuỳ thuộc Thiên Chúa.
 
Tất cả các ơn huệ ban cho Adong và Eva phải được cha truyền con nối và truyền lại cho cả nhân loại. Adong và Eva là cặp vợ chồng tiên khởi của nhân loại và cũng là thủ lãnh có trách nhiệm đối với toàn thể nhân loại.