Chương Thứ Bảy (tt)

C. BIẾT XÚC CẢM:
 
“ Biết xúc cảm là điều kiện cốt yếu để tạo cho mình một cơ sở văn hóa sâu sắc hơn”.
Thật vậy, ta thường gặp biết bao kẻ học giỏi, biết tư tưởng, biết phán đoán… nhưng dường như cơ sở học vấn vẫn ở mực tầm thường mãi…Là tại sao?
Là vì họ thiếu “ngọn lửa” lòng, họ là những tâm hồn thiếu hăn hái, thiếu say mê vì ít thắc mắc và rất dễ dãi đối với bất kì việc gì…Sở dĩ họ cố công học hỏi ngày đêm là vì phải trải qua những kì thi khó khăn. Bởi vậy, họ phải “học gạo”, chỉ học và đọc những gì có trong chương trình thi mà thôi, những môn nào không bắt buộc phải thi, thì họ dẹp lai5mot65 bên miễn cưỡng vì bị bắt buộc nên họ xem sự học như một phận sự phải làm, không gì hứng thú cả. Đến khi họ trở thành một nhà giáo, họ cũng vẫn dạy cho có dạy không phải bài dạy của họ sai lầm hay vô ý thức, nhưng họ dạy một cách buồn chán, lạnh lùng, họ chỉ dạy trong chương trình trung học hay đại học, một cách lạt lẽo, không gây được lòng hăn hái hâm mộ của học sinh, cũng không truyền được cho học sinh lòng nhiệt thành ham mê học hỏi gì cả. Họ thiếu ngọn lửa thiêng của lòng hăn hái.
 
 
°
°
Người ta đã nhận xét rất đúng: “Thiếu dục vọng, khó mà làm nên đại sự”. Kẻ thiếu nhiệt thành là những kẻ tầm thường. Học mà không biết ham mê, không bao giờ thành công. Luận ngữ có nói: “ Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học”.
°
°
 
Làm sao tạo cho mình một tâm hồn nhạy cảm? Một tình cảm dồi dào?
Phương pháp thứ nhất là sống cho người khác.
Sống cho kẻ khác là biết hi sinh cho kẻ khác, lấy hạnh phúc của người làm hạnh phúc của mình, tức là biết cảm và biết yêu. Kẻ mà không biết yêu ai cả, không biết thương thân phận của những người khác ngoài cái thân phận của mình, tức là người sống một đời chỉ lo cho mình thôi, là người mà tâm hồn cằn cỗi, không thể là một con người văn hóa cao được. Người có văn hóa cao là người có Tâm và có Trí. Một văn  hào Pháp có nói: “Những tư tưởng cao cả đều do quả tim mình mà ra cả”. Chính vì lòng yêu nhân loại mà Pastuer tìm kiếm và phát minh vô số phương thức cứu nhân loại. Nói thế không phải muốn nói rằng chỉ có lòng yêu nhân loại mới xui người làm nên những phát minh vĩ đại. Có rất nhiều nhà bác học đại tài lại đi phụng sự bạc tiền và quyền thế thì sao? Không! Con người văn  hóa cao, trước nhất phải là một người xứng đáng danh hiệu con người, nghĩa là trước hết phải là một người Tài và có Đức.
°
°
2. Phương pháp thứ nhì để tạo cho mình một mối cảm xúc dồi dào phải cậy đến văn nghệ. Văn nghiệ làm tăng gia xúc cảm của ta bằng cách kích động nó. Thi ca, kịch, nhạc, họa…sẽ gây cho ta những xúc cảm thẩm mĩ dồi dào. Thường ta gặp một cảnh hoạn nạn thương tâm, ta hay đem lòng thương cảm, rồi nhân cái đau khổ của người, ta liên cảm đến cái đau khổ của ta… nhờ vậy ta thấy mình biết cảm và ra khỏi cái tâm trạng khô khan của một tâm hồn không biết rung động…
Trên màn bạc hay sân khấu, kịch sĩ đã khéo gây thương cảm và làm cho lòng ta bồi hồi xúc động đến rơi lệ…Những vở tuồng hay là những vở tuồng bắt ta thấy lòng ta nhẹ nhàng vì đã biết cảm động và đau khổ cái đau khổ của kẻ khác. Có điều là kẻ đi xem kịch mà khóc vãn biết là mình khóc những cảnh thương tâm trong tưởng tượng chứ không phải những cảnh thương tâm có thực. Vì thế mà ta ưa nó hơn những cảnh thực ở ngoài đời.
Ta đòi hỏi nơi nghệ sĩ cái tài tạo ra xúc cảm và nghệ sĩ sở dĩ được coi là cao quí do tài nghệ tạo xúc cảm của họ đã nâng tâm hồn ta lên tiếp cận đến cái chân, thiện, mĩ.
Phải chăng câu thơ hay là câu thơi làm cho lòng ta xúc cảm. Và truyện Kiều sở dĩ được đa số ưa thích một phần nào phải chăng cũng vì cốt truyện cũng như văn chương thật là lâm li cảm động?
Trong chương trình văn hóa của người trí thức ngày xưa có bốn hoạt động văn nghệ là Cầm, Kì, Thi, Họa kể ra cũng rất là chu đáo. Theo chỗ tôi biết, người học thức ngày xưa ít thấy có người nào là không biết làm thơ, không thích ngâm thơ.
Mà thơ là một nghệ thuật bao gồm gần hết các nghệ thuật. Theodore Bainville nói: “Thơ là gổm cả âm nhạc, hội họa, điêu khắc, hùng biện. Và phải chăng nó là một nghệ thuật bao gồm đây đủ nhất”. Và theo Lamartine, một câu thơ hay phải gồm đủ 4 yếu tố sau này: phải có cảnh, có tình, có tứ, có nhạc. Nghĩa là nó phải thể hiện được một cái tứ cho trí não, một cái tình cho tâm cảm, một hình ảnh cho con mắt và một nhạc điệu cho lỗ tai. Như vậy bốn câu thơ sau đây của Nguyễn Du:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi mang mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Phải chăng là những câu thơ tuyệt hay vì nó gồm đủ cả bốn yếu tố đã nói trên, có sức gợi cảm mãnh liệt.
 
 
°
°
 
Thơ hay là ở sự khêu gợi, chứ không phải ở chỗ nói hết được ý mình. Những cái mông lung, mờ mịt càng kích động óc tưởng tượng và làm cho câu thơ trở nên huyền ảo li kì…Tiếng đàn hay là hay ở dư âm…Câu thơ hay là hay ở chỗ hàm súc, lời vắn tắt mà hậu ý thâm trầm man mác.
Trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu:
   “Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
  Ngưng tuyệt bất thông thanh lạm yết.
  Biệt hữu ưu tình ám hậu sinh,
  Thử thời vô thanh thắng hữu thanh”.
Tạm dịch:
   Doành lạnh ngắt tơ mành như đứt,
Đứt chẳng thông tạm ngớt cung tơ
Như sầu như ngẩn như ngơ
(Vô Danh dịch)
 
°
°
 
Con người đâu phải chỉ sống bằng Lí, mà cũng phải sống bằng Tình. Một đời sống mà người ta chỉ nghĩ đến ăn, ngủ, làm việc…mà lòng mình không bao giờ biết đến những xúc cảm mãnh liệt của tâm tình, thì dễ chán làm sao!
Một nhà trí thức có văn hóa cao mà khống thích thơ, hoặc không biết làm thơ, khống biết thế nào là một câu thơ hay và hay ở chỗ nào thì tôi cho là điều thiếu sót đáng tiếc – Có nhiều kẻ đã vu cho Thơ là mơ mộng, là huyền ảo, là lơ lửng trên hư không…Nhà văn Ernest Bersot trả lời:
“Người ta thường tin tưởng rằng Thơ là giả dối bởi nó biết thể tất cả những gì nó mó đến, người ta lầm: Thơ, không phải là giả dối, nó chính là chân lí đấy, nhưng là thứ chân lí mãnh liệt hơn cái chân lí trong đời sống tầm thường”.
Theo Lamatine, “Thơ là một sự an ủi tâm hồn mình bằng những tiếng khóc nức nở của quả tim”. Nó là tiếng “kêu thương, rênh rỉ” của tâm hồn. Bởi vậy Anatole France mới nói: “ Khoa học không quan tâm gì đến việc làm vui lòng hay làm buồn lòng ai cả. Vì vậy, nó không có lòng nhân. Thơ làm cho ta say mê ngây ngất, an ủi vỗ về ta, cho nên nó còn cần thiết hơn là khoa học”.
Nhà bác học Darwin, lúc về già than thở vì đã mất hứng thú về mĩ cảm: “Từ mấy năm nay tôi không thể đọc được một câu thơ nào cả…Tôi cũng không thể đọc Shakespeare…lại cũng đã không còn ưu thích họa và nhạc nữa…Than ôi, mất những hứng thú ây là mất một nguồn hạnh phúc, có thể rất nguy hại đến sự thông minh va2 tính tình của mình bằng sự làm giảm mất cảm xúc của tâm hồn”.
°
°
 
Phương pháp thức ba là biết sống một mình trong cô tịch, giữa cảnh vật thiên nhiên.
Sống trong xã hội, người ta vì nể nhau mà phải bị bắt buộc trong giả dối. Cả một giàn “ nghi lễ” giả tạo bắt buộc ta phải dẹp tình cảm ta qua một bên, tỏ vẻ lạnh lùng và cố giữ vẻ trầm lặng bí ẩn. Chẳng những ta không được quyền bộc lộ bản tính của ta, lại còn bị phong tục, tập quán xã hội làm lệch đi và lại phải thay vào đó bằng những cử động, những cảm tưởng mà xã hội, thời thượng chấp nhận, dù chỉ là trái với tâm cảm của ta. Cái sống phiền phức, nhộn nhịp của đô thị dễ làm ta khô héo tình cảm thanh cao của ta. Sống trong cô tịch là dịp hay để mình sống trở lại trong sự thành thực với cõi lòng.
Trong những lúc mà văn minh trở nên phiền phức nhất có lẻ là những lúc mà lòng người cảm thấy ham thích cái thú sống trong những cảnh thiên nhiên cô tịch nhất. Là vì cái đời sống cạnh tranh nhộn nhịp khiến lòng ta càng khao khát sự sống trong yên tĩnh, thành thực và tự do. Sống được năm ba ngày trong thôn quê, nơi một làng mạc xa xôi hẻo lánh đem lại cho tâm hồn mình một liều thuốc thanh lương và yên tĩnh.
Lại nữa, nếu cảnh vật thiên nhiên càng gồ ghề hùng vĩ thì sự tẩm bổ tinh thần lại càng thêm sâu mạnh. Trước cảnh vật vô cùng hùng vĩ, con người cảm thấy những cao vọng của mình đều quá nhỏ bé không đâu. Một thứ tình cảm thanh cao sâu sắc xâm chiếm tâm hồn ta và nâng nó lên cao trên những vùng cao nhất của tinh thần…
“Khí tượng như chim phụng hoàng trên mây xanh thì những lợi hại cỏn con không còn động đucợ tâm nữa…”
Bernard có nói: “anh sẽ tìm được một cái gì rộng rãi hơn và sâu thẳm hơn trong những cảnh rừng hoang vu vắng lặng hơn là trong sách vỡ”. Vì vậy, ta đã thấy, các bậc đạo học cao thâm thường là những kẻ thích sống trong những cảnh non cao rừng thẳm, chằng phải để tránh đời mà là vì hợp với tâm hồn thiên về hướng nội của mình hơn. Kẻ nào thích sống một mình, bao giờ cũng là người thâm trầm sâu sắc hơn kẻ thích sống trong nhộn nhịp tưng bừng của bè bạn, hôi hè…ảnh hưởng của thiên nhiên đối với tâm hồn thật là rõ rệt như ta đã biết qua khi bàn đến trước đây ảnh hưởng của đĩa lí đối với tâm tính con người. Người xưa tin nơi địa lí cũng có một phần nào đúng với tâm lí đã nói trên.
Hồng Lĩnh sơn cao,
Song ngư hải khoát.
Nhược ngộ minh thời
Hoan Châu ( Nguyễn Thiếp)
Văn hào Anfre Maurois cũng có nói:
“Những người làm việc nhiều, nên thỉnh thoảng sống một đời sống ẩn dật”…
Họ tìm về nhà quê, bên sườn núi, hay những bãi bể vắng vẻ để xa hẳn với mọi liên lạc, từ chối cả sự luyến ái tâm tình cùng bè bạn. Trong một khung cảnh rộng rãi bát ngát  như thế mới thích hợp với tâm hồn của họ được. Ở giữa sự nhộn nhịp tưng bừng của các đô thị lớn, thì một tuồng hát, một bài báo, một câu chuyện ngồi lê đôi mach cũng sẽ thành ra điều quan trọng, lấn át cả công việc của ta, cả tình cảm đứng đắn của ta. Nhưng dưới cảnh trời sao mênh mông bát ngát, những chuyện vụn vặt ấy phải chìm lần mất hẳn trong bóng tối. Trong sự im lặng ban đêm và trong sự im lặng của tâm hồn, trên những khoảng bao la man mác thì mọi sự phù phiếm vô giá trị đều bị gạt bỏ hết, và ta có thể xây dựng được những công trình lâu dài. Sự tĩnh mịch không bao giờ làm hèn yêu con người đâu.