Dịch giả Đinh Thế Lộc
Chương 6
Lại chậm chân

Ngày 25 tháng 7, 10 giờ 14 phút
Hồ Como, Italy
Gray và những người khác bước ra khỏi chiếc xe Mercedes E55 rồi tập tễnh đi vào quảng trường dành cho người đi bộ của thành phố ven hồ Como. Người đi dạo buổi sáng và kẻ chuyên đi ngắm cửa hàng chen vai đi trên quảng trường lát đá dẫn đến một con đường bộ quanh hồ nước xanh thẫm.
Kat ngáp một cái rồi duỗi chân, một con mèo đang uể oải thức dậy. Cô nhìn đồng hồ, lẩm bẩm. “Chỉ có bốn tiếng giờ mà đi qua ba nước.”
Họ lái xe suốt đêm. Ngang qua nước Đức đến Thụy Sỹ, rồi trèo qua dãy Alps đến nước Ý. Họ đi bằng xe hơi, đi thế hơn là đi bằng tàu hỏa hay máy bay, sử dụng hộ chiếu giả để tránh lộ diện đi qua cửa khẩu. Họ không muốn báo động cho những kẻ khác biết nhóm của họ vẫn sống sót sau vụ tấn công ở Cologne.
Gray dự kiến sẽ liên lạc với trung tâm của Sigma sau khi lấy được chỗ di cốt ở Milan và đến Vatican. Một khi đã ổn ở Rome, họ sẽ tập hợp lại và thảo luận kế hoạch với chỉ huy của mình. Mặc dù có mối hiểm nguy về rò rỉ thông tin nhưng Gray vẫn thấy cần phải trao đổi với Washington về sự kiện ở Rome để đánh giá lại diễn biến của phi vụ.
Bây giờ thì phải thay nhau lái xe trên đường từ Cologne đến Milan, để mọi người có thể chợp mắt một chút. Chuyện đó thực hiện được.
Ra khỏi xe, Monk ghé vào bên hè quảng trường, người hơi cúi, tay ôm đầu mặt xanh nhợt.
“Con bé phóng xe ghê quá.” Vigor vỗ vào vai Monk.
“Tôi đã ở trên những chiếc máy bay chiến đấu, lao lên rồi lại chúi xuống,” anh càu nhàu “ nhưng kiểu đi này chết mất…”
Rachel bước ra khỏi ghế xe, đóng mạnh cửa chiếc xe đi thuê. Cô đã lái như điên toàn bộ quãng đường, lao xuống tuyến đường ô tô ở Đức rồi quanh co trên mỏm núi Alps với vận tốc ghê người.
Cô hất chiếc kính mát lên trán. “Chỉ cần ăn sáng xong là ổn thôi.” Cô an ủi Monk. “Tôi biết có một quán bistro rất ngon ở dọc đường Cavour”.
Dù lưỡng lự nhưng rồi Gray cũng đồng ý cho nghỉ lại ăn sáng. Xe họ cần đổ thêm xăng, hơn nữa chỗ này cũng khuất nẻo. Hơn nữa, vụ tấn công mới xảy ra cách đây sáu tiếng, lúc này ở Cologne còn đang hỗn loạn. Khi chúng phát hiện trong số xác chết tìm thấy ở nhà thờ không có họ thì cả nhóm đã tới Rome rồi. Có lẽ trong vài giờ nữa vẫn phải để người ta tin rằng họ đã chết.
Lúc này, họ cũng quá mệt mỏi và đói sau chặng đường dài.
Rachel dẫn họ đi qua quảng trường về phía bờ hồ. Gray nhìn theo cô. Mặc dù lái xe suốt đêm như vậy Rachel vẫn rảo bước, không chút mệt mỏi. Thực ra cô lại thấy hào hứng khi lao xe trên đỉnh Alps, giống như kiểu cô tập yoga. Sự mệt mỏi của cô sau vụ tấn công đêm qua dường như biến dần sau mỗi dặm đường.
Anh thấy nhẹ nhõm trước sự dẻo dai của cô dù cũng đôi chút thất vọng. Anh vẫn nhớ bàn tay ấm áp của cô khi họ nắm chặt tay nhau cùng chạy trốn. Vẻ mặt băn khoăn của cô khi cuống cuồng leo lên tháp chuông nhà thờ. Đôi mắt tin cậy của cô nhìn anh lúc đó như muốn có anh.
Người phụ nữ đó đã biến mất.
Phong cảnh trước mắt hiện ra thu hút sự chú ý của anh. Hồ Como quả là một chuỗi ngọc trong rặng Alps hiểm trở. Những ngọn núi phủ đầy tuyết trắng, hắt bóng xuống mặt hồ xanh.
“Lago di Como”, Vigor nói, sải bước bên cạnh Gray. “Virgil đã có lần mô tả nơi đây như một cái hồ vĩ đại nhất thế giới”.
Họ bước tới đường đi bộ trong vườn. Khu vườn trông thật vui mắt với các loài hoa trà, đỗ quyên, mộc lan…Con đường đi bộ lát đá uốn lượn quanh hồ dọc theo hàng cây dẻ, tùng bách của Ý và nguyệt quế thân trắng. Trên mặt hồ, những chiếc thuyền buồm nhỏ xíu lướt trên sóng nhấp nhô. Cheo leo trên các sườn núi đá dựng đứng là những căn nhà mái ngói sặc sỡ đủ màu sắc.
Gray nhận thấy dường như vẻ đẹp thiên nhiên và không khí trong lành buổi sớm đã làm Monk tươi tỉnh hẳn hay ít nhất cũng làm anh bước đi như vững chãi hơn. Kat cũng mải mê ngắm nghía cảnh sắc bên hồ.
“Tiệm Imbarcaderro.” Rachel chỉ tay vào tiệm ăn bên kia quảng trường.
“Có khi đi bằng xe đến tiệm này còn hơn.” Gray nói vừa nhìn đồng hồ.
“Chỉ tiện đối với anh thôi.” Monk nói một cách buồn thảm.
Vigor bước đến bên. “Chugns ta đi nhanh đấy, chắc sẽ đến Milan trong một giờ nữa.”
“Thế còn chỗ di cốt?”
Vigor chau mày nhìn anh. “Thưa chỉ huy! Vatican rất hiểu về sự mạo hiểm khi để chỗ di cốt tại nhà thờ thánh Eustorgio. Tôi đã được lệnh dừng lại ở Milan để thu hồi cái đó trên đường trở về Rome. Vào lúc này, Vatican đã bảo quản cẩn thận chỗ di cốt trong két an toàn của nhà thờ. Còn nhà thờ đã được khóa lại và cảnh sát địa phương đã được báo động.”
“Chuyện đó cũng không ngăn nỏi tụi Long Đình đâu.” Gray nhớ lại sự tàn phá ghê gớm ở Cologne.
“Tôi không tin chúng dám tấn công vào ban ngày. Bọn chúng thích bóng tối hoặc ban đêm hơn. Hơn nữa, chúng mình lại đến Milan vào trước buổi trưa cơ mà.”
Kat nói chen vào. “Mình đừng lo bị chậm vì dừng lại, đặt đồ ăn sẵn rồi đi ngay.”
Chẳng còn cách nào khác, Gray đành nhân nhượng. Mọi người cũng phải nạp năng lượng giống như chiếc xe của họ.
Tới nhà hàng, Rachel mở cửa đưa họ đến sảnh đầy hoa tường vi nhìn xuống hồ. Quán Imbarcadero phục vụ món ăn địa phương tuyệt vời nhất. Các bạn phải thưởng thức món cá vàng với cơm ý”.
Vigor nói thêm. “Món này ở đây rất ngon. Thịt cá philê tẩm bột, sấy khô ăn cùng với món cơm Ý có bơ.”
Rachel mời họ ngồi quanh chiếc bàn ăn.
Gray cũng lây cái vui với nét hồ hởi của Rachel. Cô nói rất nhanh bằng tiếng Ý với một người đàn ông đứng tuổi đeo tạp dề vừa cười vừa gật đầu chào họ. Cô cười dễ dãi. Chuyện phiếm một lát rồi ôm hôn ông ta.
Rachel quay lại sau khi tất cả đã ngồi xuống ghế. “Nếu các bạn muốn ăn món gì nhẹ hơn, hãy thử món hoa bí nhồi bánh mì và lá quế. Nhưng dứt khoát phải ăn một đĩa nhỏ món agnolotti.”
Vigor gật đầu. “Món ravolli[1] ăn ới cà tím thật tuyệt vời.” Ông hôn vào ngón tay chỏ tán thưởng.
“Tôi đoán hai người chắc đã ăn ở đây vài ba lần rồi.” Monk nói, vừa nhìn Gray.
Sao mà họ giống nhau thế.
Vigor vỗ vai Monk. “Chủ tiệm ăn này là bạn của gia đình chúng tôi, đã qua ba thế hệ rồi. Nghỉ ngơi thoải mái, họ biết cách giữ mồm miệng.” Ông quay lại một người phục vụ béo tròn. “Chào Mario! Có món gì ăn được không?”
“Có ngay thưa ngài, nhà hàng vừa có mấy thứ mới được đưa qua phà tối qua”
Các món thực đơn được gọi xen lẫn tiếng cười nói vui vẻ; sa lát cá hồi với dấm, đuôi bò. Mario bê ra một bàn đầy các món ăn cùng với hai chai vang đỏ và trắng.
“Chúc ngon miệng!” Anh ta nói.
Hình như người Ý có thói quen mỗi bữa ăn đều biến thành đại tiệc, ngay cả món đặt nhanh cũng vậy. Vang sủi bọt. Chạm cốc. Món salami và phomat được chuyền tay nhau quanh bàn.
“Chào, Mario!” Rachel nâng cốc, vui vẻ khi họ kết thúc.
Monk ngồi dựa lưng vào ghế, cố làm yên cái bụng. “Chỉ riêng món này mà đã căng diều rồi.”
Kat cũng ăn rất nhiều, nhưng hiện cô đang nghiên cứu thực đơn món tráng miệng, chăm chú không kém gì như khi đọc hồ sơ vụ án.
“Thưa, cô dùng món gì?” Mario hỏi Kat.
Cô lấy tay chỉ vào một món.
Monk cười toét miệng.
“Đây là món salat hoa quả với kem.” Cô nhìn những người khác, mắt tròn xoe. “Món này ăn nhẹ”
Gray ngồi xuống. Anh cảm thấy vui vui. Tất cả bọn họ đều cần phút thư giãn hiếm hoi này. Một khi đã lên đường, hôm nay sẽ lại là một ngày vất vả. Họ sẽ tới Milan, thu hồi chỗ di cốt rồi đám chuyến tàu tốc hành một giờ một chuyến để đến Roma trước nửa đêm.
Anh cũng muốn có chút thời gian để ngẫm nghĩ về ngài Verona. Mặc dù họ đang ngồi vui vẻ như vậy nhưng dường như linh mục vẫn chìm đắm trong suy tư. Gray có thể đọc thấy những dòng suy nghĩ đang hiện lên trong đầu óc ông.
Bỗng nhiên Vigor nhìn anh. Ông đẩy chiếc ghế lui ra rồi nói.” Chỉ huy Pierce, trong khi chúng ta chờ nhà bếp, tôi có chuyện riêng muốn nói với anh. Hay là chúng ta ra ngoài đi dạo một lát”.
Gray uống hết chỗ vang của mình rồi đứng dậy. Mấy người kia nhìn nhau tò mò nhưng anh gật đầu bảo cứ ngồi nguyên tại chỗ.
Vigor dẫn anh ra khu vườn bao quanh hồ. “Có điều này tôi muốn thảo luận với anh xem ý kiến của anh thế nào.”
“Được thôi.”
Họ đi qua một căn nhà rồi Vigor bước vào chỗ cái kè đá nhô ra từ một cây cầu nhỏ. Họ hoàn toàn riêng biệt ở đây.
Vigor vẫn chăm chú nhìn xuống mặt hồ, gõ tay lên thành cầu. “Tôi hiểu rằng vai trò của Vatican trong tất cả chuyện này tập trung vào chuyện ăn cắp báu vật. Một khi chúng ta trở về Rome, tôi e là các vị sẽ cắt quan hệ với chúng tôi và tự mình truy đuổi Long Đình.”
Gray tính định trả lời vòng vo cho xong nhưng người đàn ông này xứng đáng được có một câu trả lời trung thực. Anh không thể đùa với ông ta và cô cháu gái. “Tôi nghĩ như vậy là tốt nhất.” Gray đáp. “Tôi nghĩ thượng cấp hai bên chắc chắn sẽ đồng ý thôi”.
“Nhưng tôi lại không.” Giọng nói của ông có phần bực bội.
Gray chau mày.
“Nếu như các anh đúng khi coi chuyện di cốt là nguồn gốc của chất bột hỗn hợp kỳ lạ thì tôi tin rằng vai trò của chúng ta ở đây càng gắn bó với nhau hơn hai bên tưởng.”
“Tôi chưa hiểu”
Vigor nhìn anh đăm đăm, dường như đó là kiểu của nhà Verona thì phải. “Vậy anh hãy nghe tôi nói nhé. Trước tiên, chúng ta biết rằng Long Đình là một hội quý tộc chuyên tìm kiếm những bí mật hoặc kiến thức bị thất lạc. Họ tập trung vào các văn bản cổ xưa của thuyết ngội đạo.”
Vigor tiếp tục nói đầu hơi cúi xuống. “Chỉ huy Pierce, tôi tin anh đã từng nghiên cứu các tín ngưỡng và triết học khác nhau. Từ đạo Lão đến các giáo phái Hindu”.
Gray thấy hơi bối rối. Thật không dễ quên rằng ngài linh mục là một nhân viên tình báo có nghề của Vatican. Rõ ràng ông ta đã đọc kỹ hồ sơ về anh.
“Tìm kiếm sự thật về tinh thần không bao giờ sai.” Vị linh mục nói tiếp.” Bất kể đường đi thế nào. Thực ra, định nghĩa của từ gnosis là tìm kiếm sự thật để tìm ra thánh. Tôi không cho rằng Long Đình đã sai khi theo đuổi việc tìm kiếm này. Thuyết ngộ đạo đã trở thành một phần của Nhà thờ từ khi ra đời. Ngay cả thời kỳ trước đó.”
“Được.” Gray nói, không giữ mãi vẻ cáu kỉnh trong giọng nói của mình nữa.” Vậy vụ thảm sát Cologne có liên quan gì đến chuyện này?”
Linh mục thở dài. “Về mặt nào đó, vụ này có thể truy nguồn từ chuyện đối đầu giữa hai vụ thánh Tông đồ - Thomas và John.”
Gray lắc đầu. “Ngài đang nói đến điều gì vậy?”
“Ngay từ thuở ban đầu, Thiên chúa giáo là một thứ đạo giáo bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Một niềm tin mới mẻ lúc đầu bao giờ cũng như vậy. Không như các tín ngưỡng khác, gia đình Thiên chúa giáo trẻ tuổi tự nguyện quyên góp tiền. Số tiền đó đã được dùng để nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi. Việc giúp đỡ người dân cùng đinh đã lôi cuốn số đông người dù cho có những hiểm nguy của thứ đạo giáo bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.”
“Vâng, tôi hiểu. Thiên chúa là tốt lành và tất cả là vậy. Nhưng điều gì?”
Gray bị ngắt lời vì một bàn tay giơ lên. “Có khi anh cứ để tôi nói tiếp, biết đâu lại có thể học thêm được điều gì.”
Gray đành yên lặng. Ngoài chuyện là một điệp viên của Vatican, ông còn là một giáo sư đại học. Rõ ràng, không bao giờ ông muốn bài giảng của mình bị cắt ngnang.
“Những năm đầu của Nhà thờ, bí mật luôn bao trùm, đòi hỏi phải tổ chức các cuộc họp lén lút ở hang động, hầm mộ… Điều đó đã đưa đến sự hình thành các phe nhóm khác nhau, chia rẽ với nhau. Đầu tiên là về khoảng cách, với những giáo phái lớn như ở Alexandria, Antioch, Carthage rồi đến Rome. Sau đó, do bị cô lập như vậy, các tập tục riêng biệt đã dẫn đến những triết lý khác nhau. Phúc âm xuất hiện ở nhiều nơi. Những bản được tập hợp trong Kinh thánh như Matthew, Mark, Luke và John… và rất nhiều bản khác. Với tất cả các bản phúc âm, các giáo phái khác nhau bắt đầu đua nhau phát triển. Nhà thờ non trẻ bắt đầu tách biệt.”
Gray gật đầu. Anh đã tham dự trường Trung học Thiên chúa, chỗ mẹ anh dạy. Anh biết đôi chút về lịch sử của nó.
“Nhưng đến kỷ thứ II,” Vigor tiếp tục, “vị giám mục của Lyon, thánh Irenaeus viết năm tập dưới nhan đề Sự chống lại Haereses. Tít đầy đủ là Sự phá hủy và Lật đổ của cái gọi là Kiến thức giả dối. Đó chính là thời điểm mà tất cả các niềm tin của phái Ngộ đạo trước đó bị đào thải khỏi đạo Thiên chúa, tạo ra bốn Phúc âm, giới hạn Mathew, Mark, Luke và John. Những cái khác đều bị coi là dị giáo. Theo lập luận đó, thì cũng giống như bốn vùng của vũ trụ và bốn ngọn gió chính, nhà thờ chỉ cần bốn cột trụ”
“Vậy tại sao lại chọn bốn Phúc âm này trong số những cái khác?”
“Tại sao như vậy? Đó chính là điều tôi quan tâm.”
Gray thấy mình chăm chú hơn. Mặc dù bực bội vì bị lên lớp, nhưng anh rất tò mò xem tất cả chuyện này dẫn đến đâu.
Vigor nhìn ra xa trên mặt hồ “Ba bản phúc âm Mathew, Mark và Luke- tất cả đều kể một câu chuyện. Nhưng bản Phúc âm của John lại kể một câu chuyện khác hẳn, ngay cả những sự kiện trong đời của đức chúa Jesu cũng không tương ứng với các bản khác. Nhưng có một lý do cơ bản hơn là tại sao John được đưa vào Kinh thánh chuẩn.”
“Tại sao?”
“Vì thánh Tông đồ Thomas.”
“Như trong Thomas Nghi ngờ?” Gray thuộc lòng câu chuyện một vị thánh Tông đồ không chịu tin rằng đức chúa Jesu đã tái sinh cho đến khi chính mắt mình nhìn thấy.”
Vigor gật đầu. “Nhưng anh có biết rằng chỉ có Phúc âm của John mô tả Thomas là kẻ đần độn, một tín đồ thiếu đức trung thành. Những vị thánh Tông đồ khác lại sùng kính Thomas. Anh có biết tại sao John lại đưa ra câu chuyện gièm pha này không?”
Gray lắc đầu. Trong những năm là tín đồ đạo Cơ đốc giáo, anh chưa bao giờ chú ý đến sự lệch lạc trong quan điểm.
“John tìm cách bôi nhọ Thomas, hay nói cụ thể hơn những tín đồ của Thomas lúc đó rất đông. Ngay cả hiện nay anh vẫn thấy số rất đông người theo đạo Thiên chúa Thomas ở Ấn Độ. Ngay cả ở Nhà thờ lúc sơ khai cũng có sự dị biệt giữa Phúc âm Thomas và John. Chúng khác nhau đến nỗi rằng chỉ có một phúc âm có thể tồn tại.”
“Ông nói như vậy có ý nghĩa gì? Chúng khác nhau thế nào?”
“Nó quay lại thuở đầu tiên của Kinh thánh, đến cuốn sách đầu tiên của Kinh Cựu ước, sách Sáng thế, tới dòng mở đầu. “Hãy có ánh sáng”. Cả John và Thomas đều đưa Jesu ra dưới ánh sáng nguyên thủy đó, ánh sáng của tạo hóa. Nhưng từ đấy, sự giải thích của họ khác biệt hẳn. Theo Thomas, ánh sáng không chỉ sinh ra vũ trụ mà vẫn tồn tại bên trong tất cả mọi thứ, đặc biệt trong con người được sinh ra trong hình ảnh của Thánh và rằng ánh sáng được ẩn trong mỗi người, chỉ đợi để được tìm thấy.”
“Thế còn John?”
“John lại có một quan điểm nhìn nhận hoàn toàn khác. Giống như Thomas, Ngài tin rằng ánh sáng nguyên thủy được tượng trưng bởi Jesu nhưng John lại tuyên bố rằng chỉ có chúa Jesu mới giữ ánh sáng đó. Phần còn lại của thế giới sẽ vĩnh viễn chìm trong bóng tối, bao gồm cả nhân loại. Và chỉ còn con đường dẫn đến ánh sáng đó, quay trở lại cứu rỗi và Thánh mới có thể tìm thấy qua cầu nguyện đức chúa Jesu.”
“Một quan điểm hẹp hòi hơn.”
“Và cũng thực dụng hơn đối với nhà thờ non trẻ. John đã đưa ra một phương pháp cứu rỗi chính thống hơn việc đi đến ánh sáng, chỉ có thông qua việc cầu nguyện đức chúa Jesu. Chính từ sự đơn giản và trực tiếp này đã lôi cuốn những lãnh tụ trẻ của nhà thờ trong thời kỳ hỗn loạn. Trái ngược lại Thomas gợi ý con người có khả năng bẩm sinh để tìm thấy Thánh qua việc nhìn vào bên trong, không cần phải cầu nguyện.”
“Chuyện đó cần phải loại bỏ.”
Một cái nhún vai.
“Nhưng điều gì là đúng?”
Vigor cười. “Ai mà biết đuợc? Tôi cũng chả có câu trả lời. Như chúa Jesu đã nói: “Hãy tìm đi và sẽ thấy…”
Gray nhíu mày. Câu này nghe ngộ giáo quá. Anh nhìn ra mặt hồ, ngắm những thuyền buồm lướt qua. Ánh sáng lấp lánh trên mặt hồ. Hãy tìm đi và sẽ thấy… Liệu đó có phải là con đường anh vẫn đi theo, đã nghiên cứu không biết bao nhiêu triết lý? Nếu như vậy, anh vẫn chưa có câu trả lời thích hợp.
Và nói đến những câu trả lời không thỏa mãn…
Gray quay lại Vigor, nhận ra họ đã đi một đoạn khá xa.
“Tất cả những điều này liên quan gì đến vụ thảm sát ở Cologne?”
“Tôi phải nói với anh.” Ông giơ một ngón tay lên. “Đầu tiên, tôi nghĩ rằng vụ tấn công đưa trở lại cuộc chiến hàng thế kỷ dai dẳng giữa đức tin chính thống của John và truyền thống ngộ đạo cổ xưa của Thomas.”
“Như vậy là giữa Nhà thờ Cơ đốc giáo một bên và Long Đình ở bên kia?”
“Nó là như vậy. Tôi đã suy nghĩ suốt đêm về điều này. Trong khi tìm kiếm kiến thức qua những bí mật của ngộ giáo, Long Đình không nhất thiết tìm kiếm Thánh mà là quyền lực. Chúng muốn một trật tự thế giới mới, sự trở lại của chủ nghĩa phong kiến với chúng ở hàng đầu, tin tưởng rằng chúng là giai tầng thượng đẳng, sinh ra để lãnh đạo con người. Vì vậy, tôi không nghĩ là Long Đình đại diện cho bên ngộ đạo trong cuộc chiến thời xa xưa. Tôi cho rằng chúng là những kẻ suy đồi, khát khao quyền lực. Nhưng tất nhiên chúng có nguồn gốc từ truyền thống đó.”
Gray miễn cưỡng chấp nhận điều này.
Vigor cảm thấy như vậy. Ông giơ ngón tay thứ hai. “Điểm thứ hai. Trong kinh Cựu Ước Thomas có câu chuyện rằng một hôm đức Chúa Jesu đã kéo Thomas ra một bên và kể cho Ngài ba điều bí mật. Khi các vị Thánh Tông đồ hỏi Chúa đã nói những gì, Ngài trả lời: “Nếu như tôi chỉ kể cho các ngài một điều thôi thì các ngài cũng nhặt đá lên ném và tôi và một ngọn lửa sẽ bung ra từ những viên đá đó thiêu chết các ngài.”.
Vigor nhìn anh chờ đợi như thể đấy là một thử thách.
Gray đã sẵn sàng chấp nhận. “Một ngọn lửa từ những viên đá sẽ bùng cháy. Giống như những gì đã xảy ra đối với những người đi lễ ở nhà thờ”.
Ông gật đầu. “Tôi đã nghĩ về câu trích dẫn đó ngay khi nghe về vụ thảm sát.”
“Đó là một sự liên kết rất mỏng manh.” Gray nói, không mấy tin tưởng.
“Có thể như vậy nếu tôi không có điều lịch sử thứ ba tạo ra.” Vigor giơ ngón tay thứ ba.
Gray cảm thấy mình giống như một con cừu bị đưa ra làm thịt.
“Theo như những văn bản lịch sử,” Vigor giải thích, “Thomas đi truyền bá Phúc âm ở Phía Đông, chủ yếu tới Ấn Độ, Ngài làm lễ rửa tội cho hàng ngàn người, xây dựng nhà thờ, truyền bá đức tin và cuối cùng chết ở Ấn Độ. Nhưg tại khu vực này, ngài trở thành rất nổi tiếng cho một việc làm: việc rửa tội.”
Gray chờ đợi.
Vigor kết thúc bằng cách nhấn mạnh, “Thomas đã rửa tội cho ba vị Tiên tri.”
Mắt Gray tròn xoe. Anh thấy rối tung với những mỗi liên hệ: Thomas và truyền thống ngộ đạo của Ngài, những điều bó mật Chúa Jesu nói thầm với Ngài, ngọn lửa chết người bắn từ những viên đá… Tất cả những điều đó quay trở lại liên quan đến ba vị Tiên Tri. Liệu sự liên hệ này còn mở rộng nữa không? Anh hình dung tấm ảnh những người chết ở Đức. Những thân thể bị hủy hoại. Và báo cáo của nhân viên pháp y về sự hóa lỏng của lớp bên ngoài bộ não các nạn nhân.
Anh cũng nhớ mùi thịt cháy khét ở nhà thờ.
Về mặt nào đó, di cốt cũng liên quan đến những cái chết đó.
Nhưng thế nào?
Nếu như có một sợi dây lịch sử chắp nối các dấu vết, nó sẽ vượt quá khuôn khổ phạm vi kinh nghiệm và kiến thức của anh để lần ra. Anh nhận ra điều này và đối mặt với linh mục.
Vigor nói, tự tin với lập luận của mình. “Như đã nói lúc nãy, tôi nghĩ có nhiều điều xảy ra đối với những cái chết ở nhà thờ hơn công nghệ. Tôi nghĩ bất kỳ điều gì xảy ra đều gắn kết chặt chẽ với nhà thờ Cơ đốc giáo, lịch sử lâu đời của nó và có thể ngay cả trước khi nó ra đời. Và tôi đoán chắc rằng tôi có thể là một công cụ giúp cho cuộc điều ra này.”
Gray ngẫm nghĩ.
“Nhưng không phải cháu gái tôi.” Vigor kết thúc, cuối cùng lộ ra lý do tại sao ông lại kéo Gray ra ngoài. Ông giơ tay ra. “Một khi chúng ta trở về Rome, tôi sẽ gửi trả nó về cảnh sát. Tôi không mạo hiểm với tính mạng của nó nữa.”
Gray đưa tay ra bắt tay linh mục.
Cuối cùng hai người cũng đã có thể đồng ý với nhau về một điểm gì đó.
°

*

10 giờ 45 phút
Rachel nghe có bước chân phía sau, đoán là Mario quay trở lại. Ngước mắt lên, cô gần như suýt trượt khỏi ghế ngồi khi nhìn thấy người đàn bà già nua đứng trước mặt, trong bộ quần áo mùa hè mát mẻ tay chống gậy. Mái tóc bạc lượn làn sóng, đôi mắt hấp háy như cười.
Mario đứng đằng sau bà cụ, cười toét miệng. “Thế nào, bất ngờ chưa?”
Rachel cố trấn tĩnh lại khi thấy hai đồng đội của Gray nhìn mình. “Bà, bà đang làm gì ở đây thế ạ?”
Bà ngoại lấy bàn tay âu yếm xoa lên má cô, nói bằng tiếng Ý. “Mẹ cha cô!” Cụ hoa tay giải thích. “Mẹ cháu đến gặp cháu ở Roma, bỏ mặc ông Babari trông nom bà. Làm như ta cần có người chăm sóc lắm. Hơn nữa người ông ta lúc nào cũng sực nức mùi pho- mát.”
“Bà…”
Lại tiép tục hoa tay bà nói tiếp. “Vì vậy bà đến biệt thự nhà mình. Bà lên tàu hỏa. Và rồi Mario gọi điện bảo là cháu và Vigor đang ở đây. Bà bảo ông ấy đừng nói gì với cháu.
“Thế nào ngạc nhiên chưa?” Mario nhắc lại, vẻ mặt hớn hở. Anh chàng chắc phải bấm bụng không dám cười từ lúc nãy.
“Thế đây là các bạn cháu à?” Bà cụ hỏi.
Rachel giới thiệu với họ. “Đây là bà tôi.”
Bà cụ bắt tay, chuyển sang nói tiếng Anh. “Hãy gọi tôi là Camilla”. Bà cụ nhìn Monk một lượt.” Tại sao cậu lại cắt tóc trụi hết thế này. Thật đáng xấu hổi. Nhưng cậu lại có đôi mắt đẹp. Cậu có phải là người Ý không?”
“Không, người Hy Lạp ạ.”
Bà cụ gật đầu. “Cũng không đến nỗi tồi. “Bà quay sang Kat. “Thế Monk có phải là bạn trai của cháu không?”
Kat nhăn mặt ngạc nhiên. “Không”. Cô khẳng định tiếp. “Chắc chắn là không.”
“Nào.” Monk phản ứng.
“Hai đứa trông đẹp đôi đấy” Bà cụ tuyên bố, làm như chuyện là như vậy. Bà cụ quay sang Mario: “Nào Mario, làm ơn rót cho mỗi người một ly Chiaretto”.
Anh chàng vội chạy đi, nét mặt rạng rỡ.
Rachel ngồi xuống ghế, nhìn thấy Gray và ông bác quay trở lại sau cuộc nói chuyện tay đôi. Khi họ đi ngang qua, cô nhận thấy Gray không nhìn mình. Cô đã hiểu vì sao bác cô lại nói chuyện riêng với chỉ huy Pierce. Và khi thấy anh chàng tránh nhìn mình như vậy, cô đã đoán được chuyện gì.
Bỗng nhiên, Rachel thấy mất cả hứng chả muốn uống nữa.
Vigor cũng nhận thấy có thêm khách ở bàn mình. Ông rất ngạc nhiên, thậm chí còn sốc nữa.
Sự ngạc nhiên lại được giải thích cùng với những lời giới thiệu.
Khi nghe giới thiệu Gray Pierce, bà cụ quay sang nhìn Rachel. Rõ ràng cụ thích những gì đã thấy: mắt xanh thẳm, tóc đen bóng. Rachel biết bà mình rất thích chuyện mối manh, một căn bệnh di truyền của tất cả các mệnh phụ Italy.
Cụ ghé tai cô trong khi mắt không rời Gray: “Bà nhìn thấy những đứa trẻ bụ bẫm…”
“Bà này…” Cô bối rối.
Bà cụ nhún vai, cất giọng: “Ngài Pierce có phải là những Ý không?”
“Không ạ, tôi sợ là không phải”.
“Thế ngài có muốn thế không? Cháu gái tôi…”
Rachel ngắt lời bà cụ: “Bà, bọn cháu không có nhiều thời gian đâu”. Cô nhìn vào đồng hồ: “Chúng cháu còn có công việc ở Milan”.
Mắt bà cụ sáng ngời: “Công việc của cảnh sát. Theo đuổi các vụ trộm cổ vật?”
Bà cụ nhìn Vigor: “Lấy trộm thứ gì từ nhà thờ?”
“Đại khái là như vậy, thưa mẹ, nhưng mà chuyện điều tra không nói công khai được đâu”.
Bà cụ làm dấu: “Thật tệ hại! Ăn cắp của nhà thờ. Tôi có đọc về vụ giết người ở Đức. Thật kinh khủng”. Bà cụ nhìn xung quanh bàn, toàn thấy người lạ. Đôi mắt bà cụ nheo lại nhìn thẳng vào Rachel.
Rachel thấy được đôi mắt sắc sảo của bà đã nhận ra vấn đề. Mặc dù tuổi cao nhưng chẳng có gì lọt qua được mắt cụ. Vụ ăn cắp di cốt của ba nhà Tiên tri được đăng tải đầy trên các báo. Còn bây giờ con và cháu cụ đang đi với một nhóm người Mỹ gần biên giới Thụy Sỹ về Italy. Liệu bà của cô có đoán được mục đích của họ không?
“Thật kinh khủng” Bà cụ nhắc lại.
Một người phục vụ tới, xách theo hai cái làn đầy ắp đồ ăn. Hai cái bánh mỳ dài ngoẵng thò ra ngoài trông như cái mái chèo. Monk đứng dậy nhận lấy, cười toét miệng.
Bác Vigor hôn vào má bà cụ: “Chúng con phải đi đây, gặp lại mẹ ở nhà tại Gandolffo mấy hôm nữa sau khi xong việc”.
Khi Gray đi ngang qua, bà cụ liền kéo tay anh đến gần khẽ nói: “Nhờ cậu trông nom hộ cháu gái tôi”.
Gray nhìn Rachel: “Cháu sẽ cố. Nhưng cô ấy rất biết cách tự chăm sóc cho mình”.
Rachel bỗng thấy lúng túng khi bắt gặp đôi mắt của anh. Thật là lạ. Cô nhìn sang bên. Mình đâu còn là một cô bé học sinh. Còn lâu nhé!
Bà cụ đưa tay xoa má Gray: “Những phụ nữ dòng họ Verona đều biết chăm lo cho mình. Cậu hãy nhớ điều đó”.
Gray cười: “Cháu nhớ ạ”.
Bà cụ vỗ vai anh chàng rồi quay đi: “Tạm biệt!”.
Khi mọi người đã ra ngoài, bà cụ ra hiệu cho Rachel ở lại. Bà cụ đưa tay vạch ra bao súng rỗng không của cô. “Cháu mất gì phải không?”
Rachel quên biến mất mình vẫn đeo cái bao súng không. Cô đã để lại khẩu súng Beretta đi mượn ở chỗ nhà thờ. Nhưng bà cô đã để ý điều đó.
“Một người phụ nữ không bao giờ để ngôi nhà của mình trần trụi cả”. Bà cúi xuống lấy cái túi xách rồi mở ra đưa cho cô khẩu súng P-08 nòng đen bóng loáng của mình “Cháu cầm lấy khẩu súng của bà”.
“Bà, lẽ ra bà không nên mang súng theo người”.
Bà cụ gạt ngay nỗi băn khoăn của cô cháu gái bằng cái vẫy tay: “Tàu hỏa không an toàn đối với phụ nữ đi một mình. Có quá nhiều dân Digan. Nhưng bà nghĩ cháu cần cái này hơn”.
Bà cụ nhìn chăm chú cô cháu gái yêu, rất hiểu nhiệm vụ nguy hiểm cô phải đối mặt.
Rachel thò tay, đậy cái túi xách lại: “Bà, cháu ổn thôi, không sao đâu ạ”.
Bà cụ nhún vai. “Một việc khủng khiếp ở Đức”, nói tiếp “Tốt nhất vẫn nên cẩn thận”.
“Cháu sẽ vậy, bà ạ”. Rachel bước đi nhưng cổ tay cô vẫn ở trong tay bà.
“Cậu ấy thích cháu, ngài Pierce”.
“Bà này…”
“Cháu sẽ có những đứa trẻ bụ bẫm”.
Rachel thở dài. Ngay cả lúc này khi mối hiểm nguy đang treo lơ lửng như vậy mà bà cô vẫn tỉnh táo. Những đứa trẻ. Báu vật của bà ở mọi nơi.
Cuối cùng khi Mario mang hóa đơn tới cô mới thoát được. Cô bước sang một bên rồi thanh toán bằng tiền mặt, để ra một khoản kha khá để trả bữa ăn cho bà cụ. Rồi cô thu thập các thứ, hôn tạm biệt bà, đi ra quảng trường tới chỗ mọi người.
Nhưng cô vẫn mang theo tinh thần của bà cụ bên mình. Những phụ nữ dòng Verona chắc chắn biết tự chăm sóc mình. Cô gặp ông bác và những người khác ở chỗ đậu xe. Cô gườm gườm nhìn Gray. “Nếu muốn hất tôi ra khỏi cuộc điều tra này, có thể anh phải đi bộ tới Rome”.
Cầm chìa khóa trong tay, cô đi vòng quanh chiếc Mercedes, hài lòng về cái ngơ ngác trên khuôn mặt Gray khi thấy anh chàng quay nhìn lại bác Vigor.
Cô đã bị phục kích, tấn công bằng bom xăng và bị bắn. Không đời nào cô để người ta gạt mình ra lề đường.
Cô mở cánh cửa buồng lái nhưng không mở khóa các cửa xe khác: “Cháu cũng nói thế với bác đấy, bác Vigor ạ”.
“Rachel…” Ông năn nỉ.
Cô ngồi vào buồng lái, đóng sầm cửa lại bật công tắc.
“Rachel” Ông bác đập mạnh vào cửa xe.
Cô gạt cần khởi động.
“Thôi chúng ta sẽ đi cùng nhau vậy” Bác cô hét lên trong khi chiếc xe chuẩn bị lao đi.
“Bác thề đi!” Cô nói với lại, vẫn để tay trên cần lái.
“Mio Dio”. Ông ngước mắt nhìn lên trời “Chắc cháu phân vân không hiểu vì sao bác lại trở thành linh mục…”
Bác Vigor đặt một bàn tay lên cửa xe “Tôi xin chịu rồi. Tôi thề là tôi sẽ không bao giờ chống lại người phụ nữ Verona nào”.
Rachel quay ngoắt lại nhìn chằm chằm vào Gray. Anh vẫn im lặng, khuôn mặt bất động. Trông anh như thể sẵn sàng đi thuê ngay một chiếc xe khác. Liệu mình có quá đáng quá không? Nhưng cô thấy mình vẫn phải mạnh tay mới được.
Thế rồi đôi mắt vô cảm của anh cũng chuyển dần sang vẻ ấm áp nhìn từ ông bác sang Rachel. Khi họ nhìn nhau, Rachel cảm thấy thật hoan hỉ. Thế là anh ấy hiểu. Gray đã bao giờ miễn cưỡng gật đầu như vậy đâu, một chuyện quả là hiếm thấy.
Điều đó quả là sự nhân nhượng.
Cô mở khóa cửa xe. Những người khác chui vào.
Monk là người cuối cùng. “Tôi thấy đi bộ cũng được thôi”.
°

*

11 giờ 5 phút
Ngồi ở hàng ghế sau, Gray ngắm nhìn Rachel.
Cô đã kéo đôi kính mát đen sụp xuống mắt, thật khó đoán ý nghĩ của cô. Mặc dù vậy, đôi môi của cô vẫn bậm chặt. Cơ sau gáy dường như gồng lên, nổi u mỗi khi cô quay đầu quan sát xe cộ bên ngoài. Dù cho họ đã hoà hoãn nhưng cô vẫn cảm thấy bực bội.
Làm sao Rachel lại biết được những gì anh và bác cô đã quyết định? Khả năng đoán biết của cô thật đáng nể cùng với cách cô xử lý không khoan nhượng chuyện đó. Nhưng anh cũng vẫn nhớ khoảnh khắc cô tỏ ra mỏng manh thế nào trên tháp nhà thờ, cặp mắt cô nhìn qua khoảng không giữa hai cái tháp. Nhưng ngay giữa lửa đạn, cô vẫn không nao núng.
Thoáng lúc đó, anh bắt gặp Rachel liếc nhìn mình qua gương chiếu hậu. Dù đeo kính mát nhưng anh cũng biết cô đang chăm chú nhìn mình. Rất nhạy cảm với chuyện bị chiếu tướng, anh vội nhìn đi chỗ khác.
Anh gõ tay xuống đầu gối như một phản ứng.
Chưa bao giờ Gray gặp một phụ nữ làm anh bối rối như vậy. Trước đây anh cũng có bạn gái nhưng chẳng có gì kéo dài quá sáu tháng và cũng chỉ diễn ra khi học trung học. Lúc đó đầu óc anh còn quá bận rộn với chuyện học hành, rồi khi nhập ngũ thì lại quá tập trung cho chuyện nhà binh, lúc đầu ở lục quân rồi sau là biệt kích. Anh chưa bao giờ ở đâu lâu quá sáu tháng, vì vậy những cuộc tình cũng chỉ kéo dài không quá những ngày nghỉ cuối tuần. Trong tất cả những bông hoa biết nói đó chưa bao giờ anh gặp một người phụ nữ làm anh khó xử như cô ta, một phụ nữ đã cười rất dễ dàng lúc ăn trưa rồi lại quay ngoắt rắn như kim cương được mài nhẵn.
Anh ngồi tựa lưng vào đệm xe, bên ngoài kia những hình ảnh làng quê cứ thế vụt lao qua. Họ để lại phía sau vùng hồ ở miền Bắc nước Ý, rồi đi xuống chân rặng Alps. Chuyến đi không còn dài, Milan chỉ cách đây bốn mươi phút ô tô..
Gray rất biết mình để hiểu được phần hấp dẫn của anh đối với Rachel. Anh không hề thích kiểu phụ nữ đứng giữa chừng, thơ ngây hay không biết tự quyết định. Nhưng anh cũng không thích loại cực đoan, hay e thẹn, nói năng the thé, không hòa hợp với những người khác. Anh ưa sự hòa hợp, hợp nhất được các thái cực khi cân bằng đạt tới nhưng lại không mất đi sự độc đáo.
Đó chính là quan điểm Âm và Dương của đạo Lão.
Ngay chuyện nghề nghiệp của anh cũng nói lên điều này: nhà khoa học và người lính. Lĩnh vực nghiên cứu của anh cũng tìm cách kết hợp giữa sinh học và vật lý. Anh đã có lần mô tả sự lựa chọn này với Painter Crowe: “Tất cả các môn hóa học, sinh học, toán học đều dẫn tới cái tích cực và tiêu cực, con số 0 và con số 1, ánh sáng và bóng tối”.
Gray lại thấy sự chú ý của mình hướng tới Rachel. Triết lý đó phải chăng cũng đúng với phái yếu?
Như không để cho Gray mải mê suy nghĩ tiếp, cú lượn cua đột ngột của Rachel đã làm anh đập mạnh vào thành xe. Cô buông tay, tăng ga cho xe vọt nhanh hơn nữa.
Gray bừng tỉnh. Monk rên rỉ.
Rachel chỉ hơi nhếch mép cười.
Ai sẽ bị lôi cuốn bởi người phụ nữ này vậy?
°

*

6 giờ 7 phút
Washington D.C.
Tám giờ đã trôi qua không có lấy một lời nào.
Painter đi đi lại lại trong văn phòng. Ông đã ở đây từ 10 giờ đêm hôm trước, ngay khi tin tức về vụ nổ ở nhà thờ Cologne đến với ông. Từ đó đến giờ thông tin đến thật chậm chạp.
Quá chậm.
Nguồn gốc của vụ cháy trụi này: những quả bom nhồi đầy chất bột màu đen, phốt pho trắng và dầu cháy LA-60. Phải mất ba giờ sau khi khống chế được ngọn lửa mới vào bên trong được. Vào đó toàn là khói, hơi ngột ngạt cháy đến tận tường đá và sàn. Người ta phát hiện những mẩu xương cháy rụi.
Có phải đó là nhóm của ông không?
Hai giờ nữa trôi qua, đến lúc có tin về cho biết đã tìm thấy những phần còn lại của vũ khí cùng với hai thi thể. Những khẩu súng trường không thể xác định được. Nhóm của ông không hề sử dụng loại vũ khí này. Vậy ít nhất cũng thấy được thi thể của một số kẻ tấn công lạ mặt.
Vậy còn những người khác thì sao?
Trinh sát qua vệ tinh N.R.O xem ra vô dụng. Không cặp mắt nào trên bầu trời có thể lấy được ảnh chụp khu vực này vào giờ đó cả. Dưới mặt đất, những camera thương mại và hệ thống ghi hình công cộng vẫn đang được xem xét. Nhân chứng quá ít ỏi. Một kẻ vô gia cư ngủ gần Cathedral Hill cho biết có nhìn thấy một nhóm người chạy thoát khỏi nhà thờ lúc đang cháy. Nhưng độ cồn trong máu của y cho thấy vượt quá ngưỡng 1-5, một gã say rượu.
Còn những cái khác đều im lặng. Điểm hẹn ở Cologne chưa ai động chạm đến. Và giờ vẫn còn chưa có một lời nào từ thực địa.
Không có gì cả!
Painter không thể không nghĩ đến khả năng xấu nhất.
Tiếng gõ vào cánh cửa đang mở hé làm cắt ngang dòng suy nghĩ của ông.
Ông quay lại, vẫy Logan Gregory vào văn phòng. Nhân vật phụ tá của ông cầm một tập giấy tờ trong tay, trên mắt anh ta cũng xuất hiện những quầng thâm. Logan cũng không về nhà, ngồi cùng với ông suốt đêm.
Painter nhìn Logan đầy hy vọng có tin tức gì chăng.
Logan lắc đầu: “Vẫn chưa có gì từ họ cả. Người ta đã kiểm tra tất cả sân bay, nhà ga xe lửa và đường xe bus”.
“Vượt biên giới?”
“Không thấy gì. Nhưng EU là một không gian mở, họ có thể vượt qua biên giới Đức bằng nhiều cách”.
“Thế Vatican cũng không nghe được gì à?”.
Một cái lắc đầu nữa: “Tôi đã nói chuyện với Hồng y Spera cách đây chỉ mười phút”.
Có tín hiệu trên máy tính. Ông đến bàn làm việc, gõ phím để nối mạng đối thoại bằng video. Ông nhìn lên màn hình plasma treo trên tường trái. Một khuôn mặt hiện ra, sếp của ông, người đứng đầu DARPA.
Tiến sĩ McKnight vẫn đang ở văn phòng mình ở Arlington. Ông ta đã trút bỏ bộ comple thường lệ, xắn tay áo sơmi, không cavat. Ông ta dùng tay vuốt mái tóc nâu lốm đốm bạc, dấu hiệu của sự mệt mỏi.
“Tôi đã nhận được yêu cầu của anh” Ông sếp mở đầu.
Painter ngồi thẳng người trên chiếc ghế. Logan lui ra phía cửa, tránh tầm ống kính camera. Logan muốn ra ngoài để cuộc nói chuyện tự nhiên hơn nhưng Painter đã ra hiệu cho anh ta ở lại. Yêu cầu của ông không phải là vấn đề có tính chất an ninh.
Sean lắc đầu: “Tôi không thể đồng ý được”.
Painter chau mày. Ông đã yêu cầu cấp trên cho phép thực hiện ngay lập tức một chuyến đi khẩn cấp đến thực địa. Có mặt ở Đức trong vụ điều tra. Có thể còn có những chi tiết những người khác bỏ sót.
“Logan có thể trông nom công việc ở đây”. Painter lập luận. “Tôi có thể thường xuyên liên lạc với sở chỉ huy”.
Khuôn mặt của Sean như đanh lại: “Painter, chính anh đang là người chỉ huy hiện nay”.
“Nhưng…”
“Anh không còn là điệp viên trên thực địa nữa”.
Khuôn măt của ông bộc lộ rõ sự thất vọng.
Sean thở dài: “Anh có biết đã bao nhiêu lần tôi phải ngồi ở văn phòng chờ tin của anh không? Phi vụ cuối cùng của anh ở Oman? Lúc đó tôi tưởng anh đã chết”.
Painter nhìn xuống bàn làm việc. Ngổn ngang là tài liệu và hồ sơ, chẳng thể tìm thấy chút thư giãn nào trong đống giấy tờ này cả. Ông chưa bao giờ nghĩ rằng việc này đã làm ông sếp mình trước kia mệt mỏi như thế nào. Painter lắc đầu.
“Chỉ có một cách xử lý như vậy thôi”. Ông sếp nói. “Hãy nghe tôi, những chuyện đó vẫn xảy ra như thông lệ”.
Painter đối mặt với màn hình. Đau âm ỉ trong lồng ngực, phập phồng và nóng bỏng.
“Anh phải tin vào các nhân viên của mình. Anh đã tung họ vào thực địa và một khi họ ở ngoài, anh phải có lòng tin. Anh đã lựa chọn người chỉ huy cuộc hành quân và ủng hộ anh ta. Liệu anh có tin rằng họ có đủ khả năng xử lý một tình huống thù địch không?”
Painter cố hình dung Grayson Pierce, Monk Kokkalis và Kay Bryant. Họ là những người tốt nhất và tinh túy nhất trong lực lượng. Nếu như có người nào đó có thể sống sót…
Painter chậm rãi gật đầu. Anh thực sự tin họ.
“Hãy để cho họ thực hiện cuộc chơi của chính họ. Giống như anh đã làm. Một con ngựa chạy tốt nhất chỉ khi nào cầm dây cương nhẹ nhất”. Sean nhô người ra phía trước. “Những gì anh cần làm bây giờ là chờ đợi họ liên lạc. Đó là trách nhiệm của anh đối với họ. Sẵn sàng để trả lời. Không cần phải chạy sang Đức”.
“Tôi hiểu”. Ông nói, khuôn mặt vẫn rầu rĩ. Vết đau tiếp tục âm ỉ bên mạng sườn.
“À, anh đã nhận được cái gói tôi gửi tuần trước chưa?”
Painter nhìn lên, đã thấy cười một nửa. Ông đã nhận được một gói quà từ ngài giám đốc. Một gói thuốc Turn để chữa bệnh đầy hơi, khó tiêu.
Sean ngồi xuống ghế. “Đó chính là van xả hơi anh cần có trong công việc này”.
Painter nhận ra sự thật trong lời nói của người bảo trợ. Đó quả là gánh nặng của người lãnh đạo.
“Thật ra đi chiến trường vẫn dễ chịu hơn”, cuối cùng ông lẩm bẩm.
“Không phải lúc nào cũng vậy” Sean nhắc ông, “Về lâu dài chắc cũng vậy thôi”.
°

*

12 giờ 10 phút
Milan, Italy.
“Cửa bị khóa trái” Monk nói “Đúng như ngài đã nói”.
Gray không tranh luận. Mọi việc xem ra có vẻ ổn. Anh chỉ muốn mau chóng vào trong, lấy được chỗ di cốt rồi nhanh chóng rời khỏi đây.
Họ đứng ở một bên vỉa hè rợp mát chạy quanh mặt ngoài nhà thờ St. Eustorgio, gần một cửa ngách. Mặt trước nhà thờ được điểm xuyết khiêm tốn bằng gạch đỏ, phía sau là tháp chuông đồng hồ duy nhất, ở trên cùng là một cây thập tự. Quảng trường nhỏ tràn đầy ánh nắng lúc này vắng tanh.
Năm phút trước, một chiếc xe tuần tra đi ngang qua, chậm chạp quan sát xung quanh. Tất cả xem ra có vẻ yên ắng.
Theo gợi ý của Kat, từ một vị trí thích hợp ở xa họ đã xem xét toàn bộ khu vực ngoại vi nhà thờ. Gray cũng sử dụng bộ ống kính quan sát từ xa nhìn vào mấy cái cửa sổ. Xem ra không một bóng người ở gian thờ và gian giữa.
Ánh nắng chói chang trên hè phố. Trời trở nên nóng hơn.
Nhưng không hiểu sao Gray vẫn cảm thấy lạnh.
Nếu chỉ có một mình anh sẽ ít thận trọng hơn chăng?
“Chúng ta vào việc đi” Anh nói.
Vigor bước vào cửa ngách, giơ tay định với cái đập cửa vốn là một cái chuông gắn cây thập tự.
Gray ngăn lại: “Không, chúng ta nên im lặng vào thì hơn. Hãy làm như vậy”. Anh quay lại Kat chỉ cái khóa cửa: “Cô có thể mở cái này được không?”.
Kat khom người rồi quỳ chân xuống. Monk và Gray đứng che cho cô. Chính xác như một nhà phẫu thuật, cô bắt tay vào chiếc khóa cửa.
“Chỉ huy” Vigor nói. “Vi phạm nhà thờ…”.
“Nếu như ngài đã được Vatican cho phép vào, thì điều đó chả có gì là vi phạm cả”.
Một tiếng cạch đã chấm dứt ngay chuyện này. Cánh cửa hé mở.
Kat đứng dậy rồi khoác balô lên.
Gray vẫy những người khác: “Sẽ chỉ có tôi và Monk đi thôi. Hãy cảnh giới xung quanh”. Anh dựng cổ áo lên rồi cài tai nghe vào vị trí. “Hãy bật máy khi có thể. Kat, cô hãy ở đây cùng với Rachel và Vigor”.
Gray gõ vào chiếc mic nhỏ để thử tiếng.
Vigor bước lên trước: “Như tôi đã nói lúc trước, linh mục dễ nói chuyện với nhau hơn. Tôi sẽ đi với các anh”.
Gray chần chừ, nhưng rõ ràng ngài linh mục có lý: “Vậy ngài phải luôn ở phía sau chúng tôi”.
Kat không phản đối khi bị phân công giữ cửa nhưng mắt Rachel đã có ánh lửa.
“Chúng ta cần phải có ai đó che chắn phía sau lưng nếu như sự việc tồi tệ đi”. Anh giải thích, nói trực tiếp với Rachel.
Môi cô bặm lại, nhưng rồi cũng gật đầu.
Thỏa mãn, anh quay đi, mở hé cửa rồi lách vào. Gian tiền sảnh tối om nhưng thật mát mẻ. Cánh cửa vào giáo đường đóng chặt, anh không phát hiện được gì. Sự im lặng của nhà thờ mang lại cảm giác thật nặng nề.
Monk đóng cửa ngoài, phanh cái áo khoác ra để nắm báng súng. Vigor tuân theo chỉ dẫn của Gray, bước sau Monk.
Gray đi tới cánh cửa giữa gian trong. Anh lấy một tay đẩy cửa mở, tay kia cầm khẩu Glock.
Giáo đường sáng hơn hẳn tiền sảnh, tràn đầy ánh sáng tự nhiên từ các cửa sổ nhà thờ chiếu xuống. Sàn đá cẩm thạch bóng loáng như có nước khi phản chiếu ánh sáng mặt trời. Thực ra nhà thờ này nhỏ hơn nhiều so với nhà thờ Cologne. Thay vì có hình chữ thập, giáo đường ở đây dài dẫn thẳng đến ban thờ.
Gray đứng im quan sát. Mặc dù sáng choang như vậy nhưng cũng còn nhiều chỗ có thể nấp được. Một hàng cột đỡ vòm mái cong. Năm ngôi đền nhỏ gắn vào bức tường bên phải để chứa đựng những ngôi mộ của các vị thánh và người tử vì đạo.
Không có sự di chuyển nào. Âm thanh duy nhất vọng lại từ dòng xe cộ đi lại ngoài kia nghe như vọng về từ một thế giới khác.
Gray bước vào, tiến tới giữa giáo đường, súng lăm lăm trong tay.
Monk bước sang bên, vào vị trí có thể khống chế toàn bộ giáo đường.
Họ im lặng đi ngang qua giáo đường. Không thấy bóng dáng nhân viên nào.
“Có thể bọn họ đi ăn bữa trưa muộn”. Monk nói qua máy bộ đàm.
“Kat, cô có nghe rõ không?” Gray hỏi.
“Nghe rõ, thưa chỉ huy”.
Họ đến cuối giáo đường.
Vigor chỉ vào ngôi đền nhỏ nằm gần với ban thờ nhất.
Trong góc của ngôi đền là một cái quan tài lớn, một nửa nằm trong bóng tối. Giống như cái quan tài ở Cologne, ngôi đền của ác vị Tiên tri có hình dạng như một nhà thờ, nhưng thay vì bằng vàng và đá quý, cái quan tài này lại được tạo ra bằng một phiến đá cẩm thạch duy nhất.
Gray dẫn đường tới đó.
Ngôi đền chỉ cao mười hai feet từ chân đến đỉnh, rộng bảy feet và dài mười hai feet. Chỗ duy nhất có thể nhìn vào bên trong là cái cửa sổ nhỏ có lưới che.
Vigor thì thào, chỉ vào cửa sổ: “Qua đây có thể quan sát di vật trong khi hành lễ”.
Gray tiến lại. Monk canh gác. Anh chẳng thích gì tình huống này. Anh cúi xuống nhìn qua cửa sổ. Sau tấm kính, một cái hộp nhỏ lót lụa trắng mở toang.
Di cốt đã bị lấy đi. Vatican không còn cơ hội nữa. Và ông ta cũng vậy.
“Người quản lý ở bên trái nhà thờ” Vigor nói, nghe hơi to. “Đó là chỗ văn phòng và nơi nghỉ, nối với phòng để đồ thờ”. Ông ta chỉ ngang qua nhà thờ.
Sau câu nói của ông, cánh cửa mở hé ra trước giáo đường. Gray cúi khom người. Monk đẩy linh mục ra phía sau cái cột, vung súng lên.
Một bóng người, không hề biết đã có người đột nhập.
Đó là một người đàn ông trẻ, mặc áo chùng đen.
Một linh mục.
Ông ta vào một mình. Ông đi châm những ngọn nến lên trên bàn thờ.
Gray chờ đến khi người đàn ông chỉ cách anh vài bước. Yên lặng, chưa có người nào khác xuất hiện. Chậm rãi, anh thẳng người bước ra phía ánh sáng.
Vị linh mục sững người khi phát hiện ra Gray, cánh tay ông đang giơ lên định châm một ngọn nến khác. Khuôn mặt ông bỗng chuyển sang sợ hãi khi nhìn thấy khẩu súng trên tay Gray. “Che cosa vuoi?”.
Gray phân vân.
Vigor bước ra từ chỗ nấp: “Padre”
Vị linh mục nhảy dựng lên, cặp mắt ông đảo sang phía Vigor. Ngay khi nhận ra đó là một linh mục, nỗi sợ hãi ở ông ta biến mất.
“Tôi là Monsignor Verona”. Vigor giới thiệu, bước lên trước. “Đừng sợ”.
“Ngài Verona?” Sự bối rối hiện rõ trên khuôn mặt. Ông ta lui lại một bước.
“Có chuyện gì vậy?” Gray hỏi bằng tiếng Ý.
Linh mục lắc đầu: “Không thể là ngài Verona”.
Vigor bước lên chìa cho ông ta xem thẻ căn cước Vatican.
Người đàn ông liếc nhìn cái thẻ rồi nhìn Vigor. “Nhưng có một người đàn ông đến đây từ sáng nay, ngay sau rạng đông. Một người đàn ông cao, rất cao. Ông ta cũng mang giấy tờ của Vatican chứng nhận là ngài Verona, dấu má cẩn thận để lấy đi chỗ di cốt”.
Gray liếc nhìn ngài linh mục, Họ đã bị chậm chân rồi. Thay vì hành động một cách man rợ, lần này Long Đình lại chơi trò ranh ma. Vì sự cần thiết, do an ninh được tăng cường. Do tin chắc ngài Verona đã chết, Long Đình đã đảm đương vai trò của ông. Giống như những điều khác, chúng chắc phải biết nhiệm vụ bổ sung của Vigor là tới đây thu hồi chỗ di cốt. Chúng đã khôn khéo tuồn chỗ di cốt cuối cùng qua mặt an ninh được tăng cường ở đây.
Gray lắc đầu. Họ lại tiếp tục chậm chân.
“Mẹ kiếp” Gray văng tục.
Vị linh mục cau mày nhìn anh. Rõ ràng ông ta hiểu tiếng Anh để không vừa lòng với ngôn ngữ của người đàn ông này trong ngồi nhà của Chúa.
“Lũ chó đẻ” Monk văng tiếp.
Gray hiểu được sự bực bội của Monk, nhất là ở địa vị anh là nhiều chỉ huy phi vụ. Anh cố kìm nén sự tức giận. Họ đã di chuyển quá chậm, hành động quá thận trọng.
Máy bộ đàm reo.
Kat ở đầu dây, có thể cô đã nghe rõ cuộc đối thoại.
“Nghe có rõ không, chỉ huy?”
“Rõ… nhưng quá chậm” Anh trả lời, chua chát.
Kat và Rachel đến chỗ họ. Vigor kể lại sự việc.
“Như vậy là số di cốt đã biến mất”. Rachel nói.
Vị linh mục gật đầu. “Thưa ngài Verona, nếu như ngài muốn xem chỗ giấy tờ, chúng tôi để nó trong két phòng chứa đồ. May ra điều đó có thể giúp gì”.
“Chúng ta có thể kiểm tra vân tay”. Rachel nói, giọng mệt mỏi. Cuối cùng thì sự mệt mỏi cũng đến với cô. “Có thể chúng bất cẩn, không chờ chúng ta theo chân chúng. Điều đó có thể chỉ ra ai là kẻ phản bội ở Vatican. Có thể đây là đầu mối duy nhất của chúng ta”.
Gray gật đầu: “Được, chúng ta xem có thể tìm được gì chăng”.
Rachel và ngài Verona đi ngang qua giáo đường.
Gray quay lại chỗ quan tài.
“Có ý tưởng gì không?” Monk hỏi.
“Chúng ta vẫn còn chỗ bột màu xám thu được từ chiếc quan tài bằng vàng”. Gray nói “Chúng ta sẽ tập hợp nhau lại ở Vatican, báo động mọi người về những chuyện đã xảy ra và thử chỗ bột kỹ càng hơn”.
Khi cánh cửa căn phòng chứa đồ đóng lại, Gray quỳ xuống cánh cửa sổ nhỏ lần nữa, phân vân nếu như cầu nguyện có thể giúp được. “Chúng ta cần phải hút chân không chỗ bên trong”. Anh cố gắng nói một cách khoa học “ Thử xem chúng ta có thể khẳng định được sự tồn tại của chất bột hỗn hợp ở đây không”.
Anh tựa vào sát hơ, nhòm vào bên trong, không chắc chắn mình định tìm cái gì. Nhưng anh cũng tìm thấy nó. Một dấu vết ở phía nóc bọc lụa của quan tài. Một dấu đỏ ấn vào vải lụa trắng. Một con rồng cuộn đuôi nhỏ xíu. Vết mực trông rất mới, quá mới.
Nhưng nó không phải vẽ bằng mực.
Máu!
Một lời cảnh cáo do Long nương để lại.
Gray đứng thẳng người, đột nhiên hiểu ra sự thật.