- D -

LỤC PHỦ - THẬP NHỊ CUNG
Lục phủ đây không phải là lục phủ ngũ tạng nói trong cơ thể học. Lục phủ của tướng mệnh học là sáu khu vực trên mặt con người.
Gốc của lục phủ là xương mặt, phủ có nghĩa là kho chứa, nó gồm có hai xương hàm, khu vực lưỡng quyền, hai xương trán kể từ giữa mắt rộng ra giữa thái dương. Lục phủ nói thâu tóm lại là vùng ven biên của mặt, bảo vệ cho ngũ quan, ngũ nhạc tứ độc. Ta nói mặt người có góc cạnh là nói đến những xương cốt thuộc lục phủ.
Tướng tốt của lục phủ là đều đặn, nở nang, liên lạc mật thiết với nhau như đà móng dằng co của nhà cửa, da thịt trên mặt lục phủ tương xứng với xương để xương không lộ. Nếu xương lộ hoặc lệch kể như một cái đà, một chân móng đã lìa sườn nhà, rất kỵ. Tỉ dụ: xương hàm bạnh ra, hàm long, hàm chắp là tướng hung tử. Nếu lục phủ quá chìm, mặt thiếu góc cạnh, người nhu nhược bần hàn vì kho chứa trống trơn.
Ngũ quan, ngũ nhạc, lục phủ gộp lại trong lời đoán của Hứa Phụ như sau: Đầu nhỏ là nhất cực, ít may mắn, thiếu tinh thần tranh đấu, yếu hèn.
Trán nhỏ là nhị cực, lúc nhỏ truân chuyên.
Mắt nhỏ là tam cực, tâm địa hẹp hòi, học hành khó đỗ đạt.
Mũi nhỏ là tứ cực, túng bấn vất vả.
Miệng nhỏ là ngũ cực, không đủ bát ăn.
Tai nhỏ quắt lại là lục cực, sống chết bất thường, sống nay chết mai.
Lại có những câu phú rằng:
Đầu tuy lớn mà trán bạt không có góc cạnh. Mắt tuy to mà thiếu tinh thần. Mũi tuy nở mà sống mũi yếu. Miệng tuy rộng mà nói lắp bắp. Tai tuy đại mà không thành quách: Vẫn khốn khổ.
Đầu nhỏ mà bằng phẳng ngay ngắn. Mắt tuy nhỏ mà sáng, thanh khiết. Mũi tuy nhỏ mà sống mũi khoẻ, sáng đẹp. Miệng tuy nhỏ mà nói văn hoa, âm thanh dễ nghe: Không lo đói nghèo.
Phép xem tướng số phải lấy huyền diệu của con tâm mới có thể quán triệt, gỡ những mối rối ẩn kín bên trong.
Mặt con người ta chia làm 12 cung:
1. Mệnh cung: Nằm tại giữa trán, giữa hai đầu lông mày, còn có danh từ khác gọi là ấn đường nổi lên, sáng, mịn màng, tốt, vết phá ám hãm xấu.
2. Tài bạch cung: Là cái mũi.
3. Huynh đệ cung: Là đôi mày.
4. Điền trạch cung: Nằm ở dưới lông mày đến mi mắt, càng rộng rãi sáng đẹp càng nhà cao cửa rộng. Có người nghèo mà vẫn ở nhà lớn là nhờ cung điền trạch cực đẹp, tức khí nhiều.
5. Tử tức cung: Ở dưới hai mắt, giữa quyền và mắt, nên bằng phẳng, kỵ sâu, đen tối và có tì vết.
6. Nô bộc cung: Ở khu địa các, (hàm, cằm) lẹm, khuyết, bạc nhược dễ bị bạn bè lừa lọc hoặc chỉ đi làm cho người khác hưởng mà không ai làm cho mình hưởng.
7. Thê thiếp cung: Còn gọi là hiên môn nằm từ đuôi mắt ra tóc mai đầy đặn, sáng tốt, lõm, khuyết ám xấu.
8. Tật ách cung: Gốc mũi tức sơn căn.
9. Thiên di cung: Kể từ đuôi mắt lên chân tóc sát thái dương, nở sáng, xuất ngoại làm ăn phát đạt, thiên di cung ám hãm, xuất ngoại cực khổ hoặc chết tha hương.
10. Quan lộc cung: Ở ấn đường cùng một chỗ với mệnh cung.
11. Phúc đức cung: Ở trên mắt, sát thiên sương dưới thiên di cung.
12. Còn cung thứ mười hai là toàn diện mạo, khác với lá số nó không có cung phụ mẫu vì phụ mẫu với phúc đức là một.
Tại sao phải chia ra từng cung như thế?
Chia ra để xem một việc, tỉ dụ xem hiên môn, tức cung thê thiếp để biết vợ chồng, xem cằm, hàm để biết bạn (hay?) là người dưới.
Chia cung rất cần thiết cho xem tướng, khí, sắc. Tỉ dụ: khí sắc đen hiện lên ở cung tử tức báo hiệu con cái ốm đau, chết chóc (sẽ nói ở dưới).
Nhận thức các cung đòi hỏi sự tinh tế, sai một li đi một dặm, các cung phúc đức, thiên di dễ lẫn (xin xem hình vẽ cho cẩn thận).
VÀI TÍCH CHUYỆN XƯA
Cảnh ngộ cá nhân sở dĩ thịnh suy, vinh nhục là do vận mạng lúc thế này, lúc thế khác. Vận mạng cát hung hiện lên bộ vị tướng mạo.
Huyện Lư Sơn, đất Giang Tây, là nơi nghỉ mát có nhiều phong cảnh đẹp. Cuối đời Thanh có thư sinh Tôn Chấn Khiêm khi chưa đỗ đạt gì từng cất nhà đọc sách ở động Bạch Lộc. Một hôm Khiêm nhàn hứng đi vòng quanh cổ miếu gặp một vị đạo sĩ tiên phong đạo cốt cùng đàm thoại, đạo sĩ tinh thông nho y lý số, đoán việc như thần. Khiêm mới hỏi tương lai mình ra sao? Đạo sĩ từ chối không nói.
Một hôm khác, Khiêm cũng qua cổ miếu, lại gặp đạo sĩ, cụ bảo Khiêm:
- Cậu đến vừa đúng lúc, chậm sợ không gặp.
Khiêm hỏi:
- Tại sao?
Đạo sĩ trả lời:
- Tôi sắp đi xa, hôm nay biết cậu đến đây tôi chờ để nói vài lời từ biệt.
- Cụ đi đâu? - Khiêm hỏi:
Đạo sĩ đáp:
- Tôi đi thăm núi non, hang động để tìm những kỳ công của tạo hoá.
Khiêm khẩn khoản:
- Nay chia tay chẳng biết bao giờ gặp, vậy xin cụ chỉ dạy cho những điều quan hệ đến tướng mệnh.
Đạo sĩ nói:
- Tôi với cậu quen nhau ngoài đường thật không có duyên nợ, nhưng nay vì sắp viễn hành, chẳng nên câu nệ nữa. Cậu có tướng mạo anh kỳ, hình cốt thanh tú, nhưng cậu không phải thuộc loại người công danh mà thuộc loại người như chúng tôi. Sang năm tới, cậu sẽ đỗ cao, tuy nhiên, nhìn tướng mạo thanh mà ẩn chứa hàn (ta nói hàn nho, nhà nho nghèo), chỉ có danh không có lợi. Phú quý là do thiên định bất khả cưỡng cầu. Vả lại, gia cảnh thanh hàn dễ thiện chung, thế sự thương tang chớp mắt vạn biến, đỗ đạt cao sang rồi ngày nào sẽ mắc vào cái họa chủ nhục thần tử, danh làm tội đời thà qui ẩn còn hơn.
Tôn Chấn Khiêm nói:
- Được nghe cao luận như hồi chuông buổi sớm. Tướng mệnh của tôi vô duyên với quần áo triều đình thì tôi cũng đâu có tiếc cái công mười năm đèn sách, sẵn sàng qui ẩn theo thầy học đạo được chăng?
Đạo sĩ xua tay mà nói rằng:
- Ấy không được, vạn vạn bất khả, nhân sinh mọi sự như thiên định, không thể làm trái. Tướng mạo của cậu, cốt cách tốt, mi cao, quyền cao, cậu sẽ phải nếm trải cho hết nghiệp trần rồi mới có thể xuất nghiệp nhập đạo. Tôi xin tặng cậu cuốn sách dưỡng sinh chi thuật, cậu hãy giữ gìn cẩn thận. Chắc chừng 30 năm nữa, chúng ta sẽ tái ngộ.
Tôn Chấn Khiêm trúng kỳ thi Hương. Người nhà đều giục giã học hành để vào triều đình thi Hội tiến bước công danh. Qua năm, Khiêm trúng tiến sĩ. Nhớ lời đạo sĩ, Khiêm không có mưu đồ công danh, chỉ muốn qui ẩn nơi rừng sâu, suối mát nên mới xin chức giảng tập ở thư viện Lô Châu, vừa dạy học trò, vừa học thuật dưỡng sinh.
Ba mươi năm trôi đi. Chiều ấy, Tôn Chấn Khiêm đang ngồi dạy học trò thì thấy đạo sĩ đến. Hai người trò chuyện thân mật cả mấy ngày.
Trước khi đi, đạo sĩ dặn Khiêm hãy rời Lô Châu đi nơi khác, nơi đây sắp gặp nạn binh hoả.
Quả nhiên Lô Châu tan nát, người chết như rạ sau một trận chiến tàn khốc giữa Quốc Cộng.
Từ đấy không ai biết Tôn Chấn Khiêm đi đâu.
Đời nhà Đường có tôn sư tướng học Viên Thiên Cương tinh tường những bước vinh nhục cùng thông của đời người.
Có lần ông gặp mẹ của Vũ Tắc Thiên, ông bảo:
- Bà tất sinh quý tử.
Bà mẹ dắt con gái cho ông coi tướng nó, nhưng bà lại giả dạng đứa nhỏ thành con trai. Thiên Cương nhìn mắt và dáng đi của nó, ngạc nhiên mà nói rằng:
- Mắt rồng cổ phượng, cực kì quý hiển, nếu nó là con gái nhất định sẽ làm thiên tử.
Về sau Vũ Tắc Thiên làm vua.
Thứ sử họ Vương nhờ Viên Thiên Cương chọn chồng cho con gái.
Trông khắp mọi người mà thứ sử định chọn, Cương đều lắc đầu bảo chẳng có ai đáng mặt cả. Rồi đề nghị người con trai họ Diêu. Thứ sử ưng thuận. Thiên hạ đều cười vì Diêu Tử Sùng suốt ngày múa gậy, đánh đao, năm nay 23 tuổi chưa biết sách vở là gì. Thế mà từ khi làm rể thứ sử, Sùng học đâu biết đấy nhanh gấp mười người khác lại thêm sức vóc khoẻ mạnh. Gặp thời thế, Diêu Tử Sùng nhờ nhúng tay vào ít nhiều âm mưu, phe Sùng thắng thế giúp vua Huyền Tôn lên ngôi. Huyền Tôn phong Sùng làm chức Quốc Công. Chừng bảy năm sau, Diêu Tử Sùng lên chức vị tể tướng.
Quan đại thần Bảo Cưu lúc còn khổ ở Kiến Nam, gặp Viên Thiên Cương lúc ấy cũng đang ba đào. Đồng bệnh tương lân nên họ chơi với nhau rất thân. Một hôm, Viên Thiên Cương nói với Bảo Cưu rằng:
- Bác có tướng mạo anh kỳ, đầu có phục tê quán đỉnh (sống mũi cao chạy thẳng tới trán) và ngọc trẩm (xương gồ sau gáy). Trán phẳng mà cao. Mười năm nữa bác sẽ phú quý, đại hiển công danh. Bác nhớ là tướng thuật của tôi chẳng mấy khi sai.
Bảo Cưu nói:
- Nếu đúng như lời bác, tôi chẳng bao giờ dám quên ơn.
Mấy năm sau, Bảo Cưu nhờ thời thế mà đổi thay, mà có nhiều may mắn, ngày càng quyền cao chức trọng lên tới chức Bộ Xạ, Cưu cho mời Viên Thiên Cương đến cộng hưởng phú quý. Trông thấy Bảo Cưu, Viên Thiên Cương nói:
- Tướng cách và khí sắc ông nay vẫn như xưa chỉ hiềm đôi mắt chuyển màu đỏ, tiếng nói hư phù, mặt đỏ. Ông làm tướng đa sát, xin từ tâm lại mới hay.
Bảo Cưu nghe lời Cương bỏ tính hiếu sát, đối đãi với dân chúng rất khoan hoà, nhân ái.
Lúc vua Đường Cao Tổ vời Bảo Cưu về triều, Cưu hỏi Thiên Cương chuyến đi này lành dữ thế nào?
Cương nói:
- Tất được ân mưa móc, lên bậc trọng thần.
Lần ấy, Bảo Cưu được vua phong chức đô đốc.
Lý Kiều lúc nhỏ đã năng thi phú, anh em họ Lý thường chết yểu. Bà mẹ đón Viên Thiên Cương về coi tướng cho Lý Kiều.
Cương bảo: Lý Kiều tinh thần tuy thanh khiết nhưng khí đoản sợ không thọ.
Bà mẹ nghe lấy làm lo lắng. Còn Lý Kiều chẳng cho lời Cương là đúng. Bà mẹ thương con, vật nài xin Cương xem kỹ cho và tìm cách nào chữa cho, nếu không dòng họ Lý sẽ tuyệt tự. Cương nể tình ở lại quan sát Lý Kiều mấy ngày.
Một đêm, Cương nằm ngủ say mà Lý vẫn chưa ngủ. Đến canh ba, Cương tỉnh dậy nhìn Lý ngủ, không hề nghe thấy tiếng thở, sờ vào chân tay thân thể nóng ấm điều hoà. Để tay vào tai, hơi thở như chui ở lỗ tai ra. Viên Thiên Cương hoảng nhiên tỉnh ngộ biết mình nói sai. Sáng sớm Cương bảo bà mẹ rằng:
- Lý Kiều là quý thọ chi tướng, sau này sẽ hiển đạt vì Kiều ngủ êm tĩnh như con rùa thuộc tướng Qui tức (rùa ngủ). Tuy nhiên Kiều không bao giờ giàu.
Sau Kiều làm quan to dưới triều Vũ Tắc Thiên, tính thanh liêm nên nhà cửa thanh bạch.
Vua nghe tiếng đến tận nhà coi thấy chiếu màn Lý nằm bằng vải xấu xí đã cũ, thở dài mà nói:
- Quan tướng quốc nghèo đến thế sao?
Rồi vua truyền mang chiếc màn của chính mình cho Lý Kiều.
Từ khi nằm cái màn rồng phượng của vua ban, chẳng đêm nào ông ngủ yên giấc. Ông bèn viết sớ xin vua cho nằm chiếc màn cũ và nói lời thầy tướng đoán mình không được hưởng giàu sang.
Huyện Đài Sơn có người bán thịt tên là Trần Đại Niên quanh năm ngày tháng nấu nước sôi cạo lông heo, chọc tiết, xả thịt và chán ngấy cái đời đó. Nghe thiên hạ đồn đại vùng Lạc Thuỷ đang buôn bán thịnh vượng, đến đấy làm công cũng nhiều tiền. Niên muốn đi lắm nên mới nhờ làng nói với Viên Thiên Cương coi tướng dùm cho, Cương nói:
- Cung dịch mã (Thiên di) động sắc, năm nay 30 tuổi đang thuận vận đi được. Làm ăn có khá hơn ở quê nhà, sang vận mà phát đạt có vốn. Nhưng tướng chú thuộc cách xuân thuỷ hồi trào đến năm 49 tuổi lại trắng tay trở về nghề bán thịt.
Qua năm, Niên đi Lạc Thuỷ giặt thuê cho xưởng nhuộm. Nhờ thực thà, chăm chỉ, ông chủ yêu cho coi sổ sách. Xưởng nhuộm phấn phát, ông chủ cho Niên một số vốn riêng. Có tiền rồi Trần Đại Niên “vinh qui” trở về làng. Tại Đài Sơn, cơ sở thương mại của Niên khá lắm. Đúng năm 49 tuổi, bỗng dưng phát hoả thiêu rụi mất hết. Niên đành phải trở lại nghề cũ kiếm ăn cho đến chết.
TƯỚNG ANH HÙNG
Anh mâu ánh ánh hề chế điện
Hào khí hề thổ hồng
(Ánh mắt sáng như điện
Hào khí đẹp như cầu vồng)
.
Nói đến cùng nghĩa của chữ Quý, tướng anh hùng là quý nhất và thế gian hiếm có. Anh hùng thất bại hay hào kiệt thành công đều đáng sùng bái quý trọng, người ta thường nói giai nhân và anh hùng thường khó kiếm. Thực ra chỉ có anh hùng mới khó kiếm, chứ giai nhân thì đầy rẫy.
Tứ hải giao du hào kiệt thiểu
Bán sinh tri kỷ mỹ nhân đa
Tướng anh hùng chỉ ở hai mắt và hoà khí trong người. Mắt đen phải có hào khí mới là anh hùng. Thế gian thiếu chi người mắt đẹp nhưng mắt đẹp đi đôi với hào khí thì hãn hữu.
Nhiều kẻ mục quang ánh sáng mà ưa làm anh hùng thì chỉ là phường khoác lác, hoa dạng thôi không có thực. Tướng mắt sáng đồng ý thông minh hơn người, nhưng không có hào khí thì thông minh dễ thành học lỏm học mót chạy theo hầu hạ người.
Nói anh mâu (con ngươi sáng quắc) là chỉ hai mắt thần thái mạnh. Nói hào khí là nói khí tiết trong sạch chí lớn nguy nga. Khí tiết trong sạch và chí lớn nguy nga ấy làm gì có hình tượng, vậy phải coi tướng ở đâu? Coi ở ngôn từ lỗi lạc, thanh âm đầm ấm, phong thái điềm đạm, quảng đại.
Nói như trên quá lý tưởng. Lý tưởng quá làm sao thấy anh hùng. Vậy nên xuống thấp một bậc để cho cõi nhân hoàn có thể nhiều anh hùng hơn. Sách “Nhân Luân Thống Phú” đưa ra ba loại:
- Loại thứ nhất, mắt sáng phóng thần quang. Loại này đa số hình dài vuông vắn, người tròn rất ít, nhưng da thịt phải kiên thực (chắc chắn khoẻ mạnh). Về phong độ thường nhật đối với mọi người bất phân phú quý bần tiện, bất phân tân tri cựu vũ (bạn mới bạn cũ), ai cũng như ai. Đầy tình cảm nghĩa khí mà không bị mê hoặc bởi nịnh nọt. Nhất đán định làm gì can đảm kiên trì đem hết sức lực, lời nói nặng ngàn vàng.
- Loại thứ hai, nhãn thâm trầm hơn, trạng mạo quật cường. Trước mỗi việc chưa quyết thường tâm tư mặc lự suy nghĩ chín chắn. Không bị động tâm bởi lời chê tiếng khen. Ý chí cực kiên cường. Nhẫn được tất cả những gì mà người đời không nhẫn nổi. Đảm đương gánh vác. Gan dạ hào sảng, khí độ thâm trầm. Vì chí lớn nên thường chịu khổ. Cho nên hình mạo phần lớn gầy và dài, khí sắc xanh trắng như thiếu máu, lao bác phong sương.
- Loại thứ ba, lông mày rộng, mắt lớn, thần cường cốt tráng, thể phách hơi thô không biết đầu cơ thủ sảo, không biết xu phụ, cái gì cũng thẳng mực tàu. Tư tưởng đơn giản, ghét rườm rà văn vẻ, không thích bị câu thúc, giận hay cười, trực xuất quên hẳn hình hài. Mọi qui củ của thế tục đều ghét. Sớm chiều cần phải làm điều nghĩa dù cho phải nhẩy vào lửa cũng chẳng từ.
Nếu lấy mẫu người điển hình thì:
- Trương Lương thuộc loại thứ nhất.
- Hàn Tín thuộc loại thứ nhì.
- Hạng Võ thuộc loại thứ ba.
Dĩ nhiên loại thứ ba nhiều hơn hai loại trên.
Một cuộc dấy nghĩa, một cuộc cách mạng phải đủ cả ba loại anh hùng mới thành công. Nếu chỉ có anh hùng loại ba thôi thì phong trào tuy mạnh nhưng dễ bị tan vỡ kiểu như Spartacus, Pugatchev, Commune de Paris, Lý Tự Thành v. v...
Đại sự trong lịch sử, điểm quan trọng nhất là con mắt biết anh hùng. Trương Lương không tìm đến Hàn Tín mà bán kiếm thì làm gì có trận Cai Hạ.
Coi tướng Quý cần phân biệt với Hiển. Hiển không phải là Quý. Nếu phải đánh đổi chữ Hiển lấy chữ Quý, đổi ngay thế mới là chân quý. Lấy Hiển mà làm Quý là giả quý.
TƯỚNG KẺ ÁC
Thế thượng ác nhân đa.
Trên đời lắm kẻ ác. Lắm kẻ ác mà nhìn thấy không ra nên thế sự mới sinh lắm chuyện. Tại sao nhìn không ra? Tại vì hễ đã là kẻ ác thì thường nó phải cố tạo ra cử chỉ khiêm cung để che giấu tâm địa rắn rết. Rất may ác nhân hay lộ trên hình tướng. Sách cổ nhân để lại ghi tướng ác như sau:
- Đứng đằng sau gáy trông thấy hàm (hàm gồ lên bạnh ra).
- Đi chân nhển lên không đụng tới đất.
- Trán hôn ám.
- Con ngươi đục như mắt cá.
- Hình giống con heo.
- Tóc vàng, con ngươi đỏ.
- Mắt như mắt gà, tròn, trợn trừng, lơ láo.
- Mắt trông thấy bốn phía lòng trắng.
- Gò mắt cao mà ăn lấm nhấm như chuột ăn.
- Đầu thật lớn mà mắt nhỏ.
- Mắt ba cạnh.
- Quang mắt lấm lét như mắt chuột.
- Mặt tro than.
- Mũi gẫy gồ lên ba khúc, hoặc lồi lõm ba khúc.
Tướng kẻ ác thường đi đôi với tướng hung tử. Trông thấy những người mang tướng ấy dù có nói khéo thế nào cũng chớ có gần. Cộng tác sẽ bị lừa, bị phản, đi chơi chung sẽ bị tai nạn.
LUẬN VỀ LÝ THUYẾT TƯỚNG DO TÂM SINH
Cái lý thuyết do tâm sinh khiến cho nhiều người chán ghét tướng số. Định mệnh là định mệnh, nay tâm đổi được mệnh thì nói định mệnh làm quái gì. Có người lý luận cho rằng lý thuyết tướng do tâm sinh cốt để hù người ta khuyên nên cải ác vi thiện vì sợ rằng thiên hạ khi đã biết số mệnh mình như thế rồi thì cứ tạo ác càn phứa đi vô cấm kỵ. Số căn cứ trên ngày giờ tháng năm sinh làm sao đổi?
Lý luận quá khích thì nó đến chỗ cùng và khó trả lời. Tuy nhiên, tướng do tâm sinh có phần đúng. Vì cả tướng lẫn số đều có đổi, biến tướng và biến số. Như đã nói ở trên, ông trời của khoa tướng số là ngũ hành chứ không phải là ông trời quyền sinh quyền sát, là âm dương vận chuyển chứ không phải là Thượng Đế vạn năng định đoạt.
Số mệnh có đổi là thế nào?
Tỉ dụ: Nói số mệnh này ở phương Nam tốt hơn phương Bắc. Kẻ vào Nam sống khá, kẻ lên Bắc bần hàn. Vào Nam lên Bắc phải có phần nào nhận định, tạo nên sự thay đổi của số. Biến tướng cũng vậy, có đôi mắt ác mà tâm hiền dần dần mắt sẽ bớt ác. Mắt càng bớt ác bao nhiêu càng tránh được sự hung tử bấy nhiêu.
Đổi theo định luật tướng số mà thôi chứ không đổi tuyệt đối ở Bắc ăn mày, vào Nam làm vua.
Tướng ác hay đi với bần (nghèo). Giảm tướng ác (nghèo) đỡ đi chứ không thể giầu lên.
Mệnh căn và tướng căn vẫn còn ví như hạt giống tốt, tâm với nhân định ví như chất bón và khí hậu. Dĩ nhiêu, khí hậu và chất bón không thể làm hạt giống đã bị đun sôi mọc thành cây lúa.
Tướng do tâm sinh. Tướng tòng tâm diệt là vì vậy. Nó có tác dụng đối với số mệnh và tướng cách đủ điều kiện tiếp nhận lẽ sinh diệt ấy mà thôi.
Ngoài ra, con tâm người ta vẫn còn để chọn lựa. Cùng một tướng hung tử nhưng có kẻ chết trong quán rượu, cao lâu, có kẻ chết nơi sa trường, có kẻ chết ở pháp trường. Khí chất tạo thành sự khác biệt cho tướng số hung tử.
Còn cái chuyện như ông Bùi Độ lúc đi thầy tướng bảo Độ tướng ăn mày, khi về thầy tướng bảo Độ tướng đại thần chỉ vì cái tâm nhân hậu của Độ đã bắc cầu cho lũ kiến thoát chết khỏi vũng nước, là chuyện hoang đường để nhấn mạnh cái lý tâm sinh tướng.
Tâm con người ta, nho gia gọi là Linh Đài, đạo gia gọi là Linh Quan và Phật gọi là Linh Sơn. Lục phủ ngũ tạng tâm làm chủ coi hồn phách, lo cho sự động tĩnh của tinh, khí, thần.
Tâm là chỗ tính trú ngụ, không có tâm tính không tồn tại. Tinh với tâm chú ngụ một thể, nói tâm tốt hay tính tốt cũng vậy.
Tâm tính ảnh hưởng đến đời người nhiều lắm. Người đời có cả trăm tâm tính.
Tính trung lương, từ thiện, cao thượng, cương trực, thủ phận, cẩn thận, đại độ, chừng mực, tham lam, quái quắt, keo bẩn, hồ đồ v.v… đều có thể hiện ra tướng mạo. Do tướng mà biết tâm thì ngược lại, do tâm có thể chuyển tướng.
Tướng thanh cao thường đi đôi với tâm thanh cao, đồng thời số cũng thanh cao.
Sách xưa kể:
“Cao Hiếu Toàn và Cao Hiếu Tích là hai anh em sinh đôi ra đời cùng một giờ khắc. Lớn lên, cả hai tướng mạo giống hệt như nhau từ cử chỉ đến ngũ quan lục phủ như hai giọt nước. Cùng học một thầy, văn chương tinh thông, chẳng kém ai hết. Cùng đỗ cử nhân. Cùng lấy vợ, cha mẹ sợ vợ không phân biệt nổi có thể xảy ra sự lầm lẫn nên bắt cả hai anh em ở riêng và mặc quần áo màu riêng.
Một hôm hai anh em gặp tướng sư Trần Hi Di, tiên sinh nói:
- Tướng hai anh em phong thần tú dị, mi thanh mục tú, mũi thẳng môi hồng, tai trắng, tất nhiên đỗ cao, đồng mệnh, đồng vận, đồng tướng thật lạ.
Đến mùa thu, hai anh em cùng vào kinh ứng thí, ở trọ nhà họ bên ngoại. Cạnh nhà có người đàn bà goá chồng trông thấy hai anh em Toàn và Tích tài mạo tốt đẹp động lòng dục tình tìm cách quyến rũ. Tâm tính Toàn yêu học hơn khoái tình nên kế hoạch của goá phụ bất thành. Trở qua Hiếu Tích thì Tích bị ngay với goá phụ vẫn còn mơn mởn đó. Chuyện thông gian có người biết mách cho nhà chồng hay, goá phụ xấu hổ gieo mình xuống sông.
Thi xong, hai anh em về gặp lại Trần Hi Di tiên sinh để coi xem liệu có đỗ không.
Hi Di quan sát cẩn thận, ngạc nhiên nói:
- Lạ thật, hai anh em tướng mạo đại biến, anh tốt em xấu, tương lai sẽ khác nhau như mây với bùn. Hiếu Toàn sắc mặt hồng hào, mắt sáng tựa ngôi sao nhất định sẽ đỗ cao. Hiếu Tích đôi mày ám hãm, môi thâm, mũi có sắc đen sắc đỏ, tai xám, thần sắc khô hại chẳng những không đậu mà còn yểu thọ nữa.
Ngày coi bảng, quả nhiên Hiếu Toàn đậu tiến sĩ còn Hiếu Tích không có tên, buồn phiền uất ức mà chết.
Toàn sau làm quan to, nhân ngày ăn thượng thọ 70, nhớ tới người em mới gọi con cháu kể cho nghe vụ Hiếu Tích.
Ghi chép việc Hiếu Tích, Trần Hi Di tiên sinh nói:
- Tướng mạo người ta dễ thấy, nói mệnh lại rất khó. Mệnh do trời, tướng ở người. Ứng với thiên thời hợp việc người, đời đời sung sướng. Tinh thần con người ta chợt tụ chợt tán, chí khí lúc kiên lúc lỏng. Có bên trong tất thành hình ra bên ngoài không thể che giấu được.
Tạo vật mang cái tâm đại công vô tư, phúc sẽ mất đi bởi gây ác nghiệt, tội có thể giảm nhờ vun xới thiện căn. Sinh ở trong tâm tất phát ra ngoài mặt. Cho nên hoạ phúc trên đời hoàn toàn do người gọi đến. Hậu sinh nên suy ngẫm.
Tôn sư tướng học Ma Y dạy về tướng tâm rằng: “Hữu tâm vô tướng, tướng tuỳ tâm sinh, hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ tâm diệt”. (Tâm là tiên thần của ngũ quan, nguồn gốc của trí lự, thiện tâm được phú, ác tâm gặp họa).
Sách có câu thơ:
Nhân luân hà xứ định khô vinh
Tiên tướng tâm điền hậu tướng hình
Tâm phát thiện đoan chư phúc tập
Thời tàng độc hại họa tùng sinh
nghĩa là: Đoán định bước vinh nhục của người đời trước hết hãy xem tâm sau mới đến hình. Tâm thiện thì phúc tụ tập, lòng độc hại thì hoạ kéo đến.
Người trồng cây cảnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.
Câu ca dao bình dân ấy không phải vô căn cứ. Đời về sau chưa thấy, nhưng chắc chắn không có thể nhờ cậy đức mà thoát được vận xấu để lại tiếp tục mệnh. Mệnh tốt, vận xấu mà tâm ác thì vận xấu và tâm ác sẽ cắt đứt luôn mệnh. Điều này rất có lý chứ không mê tín. Vận đã xấu nay lại do tâm ác mà người ghét thì còn tồn tại làm sao được. Cho nên nói tâm cứu cho mệnh chẳng sai chút nào. Cái chìa khoá của tướng tâm nằm ở vận đó. Ác tâm tạo nghiệt, mình đợi tới lúc vận xấu nó mới sinh hoạ như vi trùng đợi lúc sức yếu mới hoành hành. Vì đã nói mệnh tất phải nói vận. Thế gian hiếm thấy lá số nào mệnh tốt mà suốt đời không có vận xấu.
Tam phần nhân sự thất phần thiên, nói tâm tướng phải nói chí khí con người.
Hạng Võ có tướng song mục trùng đồng, thân thể khôi vĩ thế mà chết thảm ở Ô Giang là bởi chí khí hẹp hòi. Hạng Võ đốt thành Hàm Dương ba tháng chưa cháy hết, người bị thiêu kể cả vạn, tiếng khóc oán vang trời đất không phải là nhu yếu chính trị mà do ác tâm, chí khí không khoáng đạt.
Lã Vọng nói:
Khí vũ hiên ngang hữu dung nạp
Chí khí thâm viên hữu cơ mưu
Động tác sử lệnh bất khả liệu
Thời thông diệc vi công dữ hầu
nghĩa là:
Khí vũ hiên ngang mà biết bao dung
Chí khí sâu xa mà có cơ mưu
Hành động sai khiến khó ai liệu trước
Thời vận tới sẽ đáng mặt công hầu
Sách “Nguyên Đàm” viết:
“Phong tư dị, cốt cách kỳ, tái quan tài khí thiết thi vi.
Tài tế biến, ý hữu tư tiểu nhân quân tử bất đồng quy”
nghĩa là:
“Phong thái dị thường, cốt cách kỳ lạ, phải nên xem lại chí khí và tài năng.
Tài thì có tài nhưng có ý tư lợi, đấy là chỗ không cùng một điểm giữa tiểu nhân và quân tử”.
Kinh nghiệm cổ nhân về tâm tướng ghi nhận như sau:
- Tâm là gốc của hình mạo. Xét tâm thấy hình mạo ác thiện. Hành động có thể biết hoạ phúc. Tâm tính không công bình con cháu hư, ngôn ngữ nhiều phản phúc chính là con người quỷ quyệt. Cúi đầu nói nhỏ, loại gian tham. Hùng hùng hổ hổ, chẳng phải là người anh kiệt. Tâm khí hòa bình, con vinh cháu quý. Tài thiên tính chấp, dễ gặp họa cùng khốn. Trọng giàu khinh nghèo, bất nhân. Có mới, quên cũ, bất lương. Kính già thương trẻ, đáng tin cậy. Nói bừa nói bãi, không sống lâu. Quên ơn nhớ tiểu oán, công danh khó thành tựu. Mới có tiền, chức nhỏ đã câng câng tự mãn sao làm lớn giàu to. Đại phú, đại quý mà tâm hồn vẫn bình thản, phúc thọ vô cương. Lừa đảo, dối trá dù vinh hoa cũng chẳng bền. Công bình chính trực chết không con nối dõi cũng được phong thần. Mở miệng ra là nói không sợ chết, lúc cần phó tử tựu nghĩa sẽ co vòi. Gặp ai cũng coi làm tri kỉ, chơi thân là giở giọng. Làm việc lớn không than mệt nhọc, không oán giận mới xứng đáng tài lương đống. Mê gái, ham rượu, phường hại nhân lợi kỷ. Ngu lỗ mà còn nói lời bạc bẽo vừa nghèo vừa chết yểu. Thông minh mà khoan dung thong thả, danh hiển yên lành.
Xem tướng Tâm ở đâu?
a) Quan sát ngôn ngữ: Chính nhân quân tử nói điềm đạm, tiếng mạnh. Nói nhanh và lớn như ngựa phi, người hào sảng. Người cố chấp nói như cắt sắt nghe lạnh mà vô tình. Nói bầy hầy như người đi trong bùn là người yếu mềm, bạc nhược. Người đa nghi, hay thiếu tin tưởng, hay nói quanh co. Nói hỗn độn, ậm ừ, sự bất thành.
b) Quan sát thái độ: Quân tử chính nhân, thái độ lớn, vuông vắn, đứng đắn. Bọn tiểu nhân ưa nói khéo ưa làm mặt thân. Lão thành kinh lịch, thái độ tròn trịa. Người trung dung, thái độ cẩn thận. Người sáng trực, thái độ hào phóng, không câu nệ tiểu tiết.
c) Quan sát lối làm việc: Thấy hoạn nạn hay giúp đỡ là người chuộng nghĩa. Thấy lợi tranh giành là bọn hẹp hòi. Nay phải, mai trái, hồ nghi bất quyết là bọn gian trá. Quân tử thường an vận thủ kỷ. Kẻ ngu xuẩn lúc nào cũng sinh sự.
d) Quan sát con mắt: Thông minh linh hoạt. Gan dạ mắt sáng quắc. Chính nhân quân tử mắt ôn hoà. Hung ác mắt ba góc có sát khí. Dung tục nhãn quang trầm trệ. Kiêu ngạo mắt ưa nhìn lên. Ích kỷ hại nhân mắt ưa nhìn xuống. Tâm có âm mưu mắt có tà thị.
e) Quan sát tướng mạo: Người ôn hoà ngũ quan chính trực. Kẻ thủ đoạn mặt xanh xanh, quyền cốt cao. Bọn thế lợi đầu nhọn mắt nhỏ. Đứa gian giảo đầu mũi nhọn không có thịt. Nhãn quan đưa đẩy lưu lộ thuộc loại phản trắc vô tình. Mặt đen xịt vô tình vô nghĩa. Da mặt mỏng dễ thay lòng đổi dạ.
Có hai loại người mà cả khoa tâm lý Tây phương lẫn khoa tướng mạng Đông phương đều có nhận thức in hệt nhau.
Thứ nhất: Người gầy, chân thật cao, vai nhỏ cổ dài, đùi nhỏ, đít lép, sống mũi thật cao.
Loại này thường có hai mặt: bên ngoài thường dễ mắc cỡ, nhạy cảm nhưng trong lòng kiêu ngạo vô tình. Lúc thì muốn thoát ly hiện thực để sống trong ảo tưởng. Lúc thì lại thích lý luận thực tiễn. Khi làm việc gì cứ ngoan cố theo ý mình, bất chấp ý kiến người khác. Loại này có thể có tiếng tăm nhưng nhạt nhẽo ít gây được thiện cảm như Henry Ford, Bertrand Russel...
Thứ hai: Người mập mạp, thịt chắc chân tay, cổ ngắn, mặt vuông chữ Quốc, sáng sủa dễ gây cảm tình quần chúng, giỏi thu thập những tài của kẻ khác để dùng vào việc của mình, giỏi biện thuyết như Churchill, Krouthchev hay nhà văn Hemingway.
Tâm thần liên hệ với tướng mạo như thế đó. Vậy thì cái chuyện tướng do tâm sinh chẳng qua là cái lý luận quanh co của khoa tướng mệnh.
Ví không đủ sức thành công nghiệp
Thì phá cho tan chí vẫy vùng
Mượn thú văn chương khuây thế lụy
Lấy tài nghiên bút đo đạo cung
.........................................
Thân thế mang oán sầu tủi nhục
Tài hoa trơ lại tập văn chương
Đã già thân thế cùng nông nổi
Mà vẫn bồng tang với đoạn trường
Những câu thơ của TCHYA chính là tâm tính của một số người tài hoa ta thường gặp, do tính khinh bạc mà mệnh mỏng, hay nói khác đi, đây là tâm tướng của những người bất đắc chí.
Theo tướng pháp, người tài hoa thông minh có ba điều kỵ:
- Anh hoa phát tiết.
- Tâm tính khinh bạc.
- Thân thể yếu đuối.
Điều kỵ thứ ba đã nói ở chương trên. Anh hoa phát tiết sẽ nói sau.
Chương này chỉ nói đến tâm tính khinh bạc.
Thời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh, một trong tám đại tài tử là Kim Thánh Thán, đại phê bình gia của văn học Trung Quốc nổi danh thiên hạ về văn chương cũng như về tâm tính khinh bạc. Lời phê bình của ông như dao cắt vào da thịt, khiến cho kẻ bị phê bình chết đi mà vẫn còn đau xót ân hận.
Văn ông làm rất nhanh, cầm bút viết thao thao đủ lối tục có, nhã có. Nhưng tâm hồn ông sớm chán đời. Nguyên do bởi đâu, chính thức không ai rõ, chỉ theo truyền thuyết nói rằng:
Lúc Thánh Thán còn là học trò, tên Trương Thái, có đến Trung Tiêu Tự cầu mộng. Đêm ấy ông nằm mơ thấy một cây rất cao không có lá chỉ trơ cành, trên cành có một con cú đậu cô độc thê lương. Tỉnh dậy, ngẫm nghĩ điều mộng tương lai sẽ là một kẻ sĩ cố cùng chua chát và bất đắc dĩ mà thôi. Từ ấy, ông từ bỏ mọi tham vọng cầu quan tước và sống phóng đãng giang hồ. Cũng từ đấy tài hoa của ông mỗi ngày một nảy nở để trở thành tên Thánh Thán.
Trên bước giang hồ, ngày ấy tháng ấy, Thánh Thán có gặp một thầy tướng bảo ông rằng:
- Tướng tiên sinh có ba độ loạn văn, ấn đường, mũi và địa các. Nay nhãn thần đã thoát, nhân trung khí sắc xanh đen, nội trong một trăm ngày tới hoạ sẽ tới, xin tiên sinh cẩn thận.
Thánh Thán nghe lời về nhà đóng cửa đọc sách, ngâm thơ, uống trà. Được 98 ngày rồi, ông mới mở cửa đứng xem phố xá, thì chợt có một đám đông kéo đến. Đám đông ấy toàn là nho sinh, họ trông thấy Thánh Thán bèn tụ tập trước nhà ông. Thánh Thán hỏi nguyên do. Họ kể việc huyện lệnh họ Ngô cam kết với học quan bán bằng cấp trong khoá thi vừa qua. Nay họ định đến dinh học quan để biểu tình tố cáo. Thán nói:
- Hãy đem tượng Khổng tử ra khỏi nhà Văn miếu mà đem thần tài vào đấy mà thờ.
Đám đông nghe nói làm theo y lời Thánh Thán. Tất cả kéo đến Văn Miếu. Viên huyện lệnh sợ phong trào lan rộng nên đem hết quan binh đàn áp. Bọn học trò chạy hết chỉ còn Thánh Thán đứng đấy, bị quan binh trói bắt.
Để che đậy tội tham nhũng, huyện lệnh lập kế vu cáo Thánh Thán xúi giục dân chúng làm loạn.
Cho có bằng cớ, huyện lệnh chép hai câu thơ mà Thánh Thán làm trong bữa tiệc để vịnh hoa mẫu đơn màu đen:
Đoạt chu phi chính sắc
Dị chủng dã xưng vương.
nghĩa là:
Màu đen không phải là sắc chính của hoa mẫu đơn
Thế mà tuy giống khác cũng xưng vương.
Ý ông muốn chửi bọn Mãn Thanh khác giống vào xưng vương ở Trung Quốc.
Triều đình kết tội Thánh Thán làm loạn bắt chết chém ngang lưng.
Cái chết của Thánh Thán cũng giống như cái chết của thi sĩ Cao Bá Quát.
Chết vì tâm tướng khinh bạc.
HÌNH TƯỚNG CẦM THÚ CỦA CON NGƯỜI
Người là vạn vật chi linh, đồng thời, người cũng là một loại động vật. Bởi là vạn vật chi linh nên người có thể mang hình tướng của đủ mọi cầm thú.
Tướng cầm thú của con người có thể lấy hình mà so hoặc lấy ý mà thấy. Có vài tướng cầm thú thường hay được nhắc đến là:
Tướng con heo, tướng hầu, tuy nhiên, nếu không học tướng pháp thì cũng chẳng hiểu tướng heo có những đặc điểm gì để biết bằng hình cách như tướng cò, tướng rùa, ngựa, chó, dê, trâu, v.v... Dĩ nhiên, nói tướng heo nhất định không có nghĩa là heo thật, vậy phải dùng tâm pháp để biện nhận cho tinh tường.
Thế nào là lấy ý để thấy?
Thí dụ: Trông khí vũ hiên ngang là hình sư tử.
Người tròn mặt gầy là hình vượn. Mắt tròn miệng thật rộng đi rất nhẹ là hình hổ.
Thế nào là lấy hình để so?
Tỉ dụ: Mắt nhỏ trên cái mặt thật bự là mắt heo, mắt nhỏ màu vầng đỏ, nghểnh cổ mà nhìn là mắt gà.
Tướng cầm tướng thú đã thành hình cục thì tính chất phú quý, bần tiện thọ yểu càng rõ rệt, đồng thời ở trong hình cục, những tướng gì tách riêng ra thì là rất xấu lại không còn xấu nữa, tỉ dụ: Ngồi đứng không yên vốn xấu nhưng nếu vào tướng hầu (khỉ) lại tốt bởi vì nó vào bộ.
Sách “Tướng Lý Hành Chân” ghi rõ tướng cầm thú như ở dưới đây:
- Mắt dài, mũi cao, mắt tròn lớn sáng, xương to, thân thể lớn cao, mày đẹp, cử chỉ xuất chúng uy quyền là tướng rồng.
- Đầu to, miệng rộng, mũi nở, thân dài, mắt thật đen, sáng quắc, đi trông oai vệ và nhẹ, tiếng nói oang oang là tướng hổ.
- Xương đỉnh đầu cao nhọn, bước đi dài, mặt hơi vênh, tai ở vị trí trên đầu, mắt sâu, mày thô, xương hàm bạch là tướng kỳ lân.
- Mắt lớn, con ngươi đen, sơn căn lõm, miệng vuông rộng, mũi lớn và lông mày thật rậm là tướng sư tử.
- Đầu to, trán rộng, ấn đường thật lớn, mũi hếch, mặt vênh, đi rất nhanh là tướng tê giác.
- Mặt nhỏ gầy, mắt tròn, tai nhọn, mũi nhỏ, tay nhỏ dài, thân tròn lẳn là tướng vượn.
- Quyền cao, mắt sâu, mặt nhỏ vàng, tai nhọn, mũi vát, hiếu động và nhát là tướng khỉ.
- Mắt tròn đầu nhọn, mày đậm mũi cao, đi chậm, lưng thật lớn là tướng rùa.
- Thân thể to lớn, tính trì chậm, đầu nặng, ăn chậm, đi chậm là tướng trâu.
- Mắt tròn đen, miệng nhọn, thân thể nhỏ bé, lưng khum thích ngồi xổm, ưa đi đêm là tướng chuột.
- Đầu dài, trán phẳng, mặt nhỏ, mắt tròn, miệng rộng, thân dài, mắt đỏ, mũi dài, dáng đi như trườn, đầu lắc lư, mặt ngẩng lên là tướng rắn.
- Mặt dài, mắt to, trán rộng, tai nhọn, răng to, lưng dài, đi nhanh vội vã là tướng ngựa.
- Đầu vuông, mặt lớn, không có lưỡng quyền, cằm nhọn, miệng chúm có nhiều râu cằm, mắt đục lờ, chân ngắn, đầu lắc lư là tướng dê.
- Mắt tròn, cổ rụt, tai nhỏ, mày thưa, miệng dúm, thân dài là tướng cá.
- Đầu lớn, mắt sâu nhỏ, miệng dẩu, hai má sệ, cổ rụt, tai nhỏ, ăn nhiều là tướng heo.
- Mắt lồi, tai vểnh, thân hình tròn mập, tính hay sợ, đi đứng nằm ngồi xiêu vẹo là tướng dã nhân.
- Mi cốt (xương mày) gồ cao, răng lộ, mắt lồi, râu cứng, mà thưa là tướng con tôm.
- Mặt và tai đều dài, mắt vàng trắng, đi nhanh, tiếng nói thô là tướng lừa.
- Cổ lớn, mặt đỏ, mày mắt hiền hoà nịnh nọt, tính vội hay dối trá là tướng cáo.
- Đầu nhỏ, mắt tròn, mày nhỏ, tai nhọn dài, mũi nhỏ, mặt đỏ là tướng thỏ.
- Đầu vuông, trán rộng, xương thô, mắt tròn, miệng rộng, lưng gồ, cổ dài, miệng chúm, tóc thô, chân tay dài, tiếng nói trầm đục là tướng lạc đà.
- Mắt dài, mày dài, mũi cao rộng, cổ dài, thân nhỏ, trán cao, tinh thần tú lệ, tiếng nói thanh quý, chân dài là tướng con phượng.
- Mắt chảy xuống, chân nhỏ, trán thô, cổ dài, bước dài, tính tình hiền hậu là tướng hạc.
- Đầu vuông, trán cao, mũi quặp, mắt tròn, con ngươi đỏ, vai so, tính vội là tướng chim ưng.
- Miệng nhọn, mắt nhỏ, cổ dài, chân ngắn, mũi lép là tướng con ngỗng.
- Mắt dài, cổ ngắn, đầu mũi tròn, bước nhanh, hay nói và nói hay là tướng con vẹt.
- Mặt nhỏ, mình lớn, tính tình chậm rãi, ưa làm dáng là tướng con công.
- Mặt hồng hào trắng, mắt tròn xoe và mơn trớn nũng nịu là tướng uyên ương (dành cho đàn bà, nếu đàn ông phạm tướng này chỉ đi làm tên đồng đực).
- Đầu nhỏ, mặt nhỏ, mắt vàng, chân gầy, thân nhỏ, trán ngắn, tai mỏng, hay nghểnh cổ là tướng con gà.
- Thân hình mập chắc, chân ngắn, mặt nhỏ, mắt dài nhỏ, bước đi chậm, tiếng nói khàn khàn là tướng con vịt.
Coi tướng vào hình cách cầm thú, mỗi người phải đủ toàn bộ mới là thực, nếu chỉ được một tướng thôi là không phải.
Tỉ dụ: Tướng con tôm gồm có mi cốt gồ cao, răng lộ, mắt lồi, râu cứng. Nếu có tất cả thì sang quý, nếu chỉ có tướng mắt lồi không thôi là tướng yểu.
Biết kỹ về tướng hình bộ cầm thú rất cần vì nếu chỉ xem tướng bộ vị ngũ quan, ngũ nhạc, ngũ quan, lục phủ, trong trường hợp gặp tướng người nào vào bộ cầm thú thì sẽ bị nhầm lẫn.
Tỉ dụ: Gặp tướng mắt lồi, nếu không tìm xét có phải tướng con tôm không mà bảo nó là tướng yểu là sai bét.
Do đó, hình bộ tướng cầm thú cần phải thuộc cho kỹ. Cổ nhân đặt thành thơ cho những tướng cầm thú, lời đoán cho mỗi tướng rồng, hổ, báo, v. v.. cũng ghi luôn cả trong đó.
LONG HÌNH
Thể thể như phi uyển nhược long
Mỹ nghiêm đầu đốc dị phàm dung
Uy nghiêm biến thái thành nan trắc
Thiên hạ văn danh ngưỡng tiêu ung
(Nghĩa là: Thân thể to lớn nhanh nhẹn - Râu đẹp, đầu có góc cạnh khác phàm - Uy nghiêm nhưng sáng suốt, nhiều mưu khó ai biết - Thiên hạ tôn sùng kính phục).
KỲ LÂN HÌNH
Đầu quảng mi thô tư hải hoành
Nhũ cao nhục hậu hắc tinh bình
Lân thân thể tráng thành hùng thể
Tá quốc trung lương độc bỉnh danh
(Nghĩa là: Đầu lớn, mày thô, hàm rộng lớn - Tai cao, da thịt dày, mắt đen - Thân thể cường tráng, hùng dũng - Làm khai quốc công thần - Về tướng kỳ lân không ai biết thực sự nó là con gì, có lẽ giống đã mất từ lâu không ai biết, qua các tác phẩm điêu khắc, người ta thấy hao hao giống con “pékinoise” nhưng thân thể chắc lớn hơn nhiều).
SƯ HÌNH (sư tử)
Sư chấn sơn hà tá chủ trung
Đầu phương ngách quảng cách mi tùng
Trẩm long cốt khởi thiên đình đột
Liệt sĩ phân mâu lập đại công
(Nghĩa là: Đầu vuông, trán rộng, mày rậm, xương sau gáy gồ lên, đỉnh đầu có gò cao là loại võ tướng chấn giữ sơn hà lập công lớn).
HỔ HÌNH
Hổ hình tối uy nhãn đại viên
Ngách phương nhĩ tiểu khẩu dụng quyền
Thanh hùng tiện thi vị lương tướng
Nhất phiến xích tâm tại đế tiền
(Nghĩa là: tính khí oai nghiêm, mắt lớn mà tròn, trán vuông, tai nhỏ, miệng có thể nuốt được cả nắm tay - Tiếng to vang như sấm - Làm tướng giỏi mà trung lương).
TƯỢNG HÌNH
Nhãn tựa minh châu, ngách quảng bình
Thượng hình trường hậu mỹ tam đình
Ngôn khinh hành trọng đa nhân đức
Viễn chấn sơn hà hiệp thánh minh
(Nghĩa là: mắt sáng đẹp như hai viên ngọc, thân thể cực to lớn, tiếng nói nhẹ nhàng, bước đi nặng nề - Tính tình nhân đức - Quyền cao chức trọng).
VIÊN HÌNH (Tướng vượn)
Ngách khoan nhãn đại lưỡng mi nùng
Tì thiểu, phát ni đới tiếu dung
Khước thi viên tâm nan trắc độ
Thiên thiên cự phú thọ nhi chung.
(Nghĩa là: Trán rộng, mắt to, mày rậm - Râu lưa thưa, tóc ít, miệng lúc nào cũng như cười - Tâm lý loay hoay khó biết - Giàu có và thọ).
HẦU HÌNH (Tướng khỉ)
Ngách đột đầu viên hình tự hầu
Nhãn hoàng thần bạc thể khinh phù
Bình sinh mưu sự đa cơ sảo
Bất tác cao quan dã cẩm cừu.
(Nghĩa là: Trán lõm, đầu tròn, hình dáng như con khỉ, mắt vàng, môi mỏng, thân thể gầy gò nhẹ tênh, lúc mưu sự lắm mưu mẹo - Nếu không làm quan to cũng giàu có)
XÀ HÌNH (Tướng rắn)
Nhãn viên tế tiểu đới thanh đồng
Thần bạc thiệt trường khí tương hùng
Thân nhiệm triều cương đa độc hại
Hại nhân tính mệnh tác kỳ công
(Nghĩa là: Mắt tròn nhỏ, con ngươi hơi xanh - Môi mỏng, lưỡi dài vẻ mạnh khỏe - Có thể làm quan trong triều, tính tình hiểm độc hại nhân ích kỷ)
NGƯU HÌNH (Tướng trâu)
Nhãn trường bình thị diệm tuấn tăng
Thanh hướng bộ trì hữu độc năng
Ngộ đắc thử hình điền địa quảng
Túng nhiên phú túc dã vô xưng.
(Nghĩa là: Mắt dài nhìn bình thản, xương cốt lớn, tiếng nói trầm, đi chậm, tướng trâu giàu có nhiều nhà, nhiều đất).
QUI HÌNH (Tướng rùa)
Qui ngách phương bình tính tối linh
Mi nùng nhãn đại thị chân hình
Qui sương phong mãn tinh thần dị
Định tá thánh triều thả thọ, linh
(Nghĩa là: Trán vuông bằng phẳng, đầu óc linh mẫn, mày rậm mắt to đúng tướng rùa - Tướng này kho đụn đầy, quan cao, sống lâu).
PHƯỢNG HÌNH (Tướng con phượng)
Trường mi, trường nhãn cách trường đầu
Bạt tụy siêu quần học vấn ưu
Phú quý căn cơ hình dĩ định
Giao khan tha nhật tác vương hầu
(Nghĩa là: Mày dài, mắt dài, đầu dài - Giỏi giang siêu quần, học vấn hơn người - Tất phú quý đến chức vương hầu).
HẠC HÌNH (Tướng con hạc)
Đầu viên, ngách khoát mục tinh thần
Hình sưu, hạng trường ngọc khiết thân
Thanh hướng tính linh hành tự hạc
Đường đường tướng mạo tác nguyên thần
(Nghĩa là: Đầu tròn, trán rộng, mắt sáng - Người gầy cổ dài, thân thể thanh khiết, tiếng nói ưởng lượng, đi như hạc, tướng mạo ấy xứng đáng vị nguyên thần).
LẠC ĐÀ HÌNH (Tướng lạc đà)
Mi nùng mục trường hiệu lạc đà
Thần hòa, thanh lượng mạo nguy nga
Ấu thời đản thị phi phàm tướng
Định tá quân vương bội ngọc kha.
(Nghĩa là: Gò mi cao, mắt dài, tinh thần hiền hòa, tiếng nói lớn, người cao to, lúc nhỏ tướng cách đã khác người, cực phẩm nhân thần giúp vua).
LƯ HÌNH (Tướng lừa)
Lư tinh hoành bạch diện hình trường
Nhĩ đại phân minh tướng dị thường
Tảo bộ vân trình đằng đạt khứ
Tính danh bất thi đẳng nhàn hương.
(Nghĩa là: Con ngươi vàng trắng, mặt dài, tai to, tướng dị thường, thành công đỗ đạt sớm nhưng vất vả).
DƯƠNG HÌNH (Tướng dê)
Dương hình phú thọ yêu tu nhiêm
Ngọa cốt băng cơ tửu sắc kiêm
Cử động thần hòa trung thực tính
Bất tu đới nộ hữu uy nghiêm.
(Nghĩa là: Tính trung thực, nhũn nhặn, hòa nhã, ưa tửu sắc, có thể giàu, sống lâu nhưng không sang quý).
MÃ HÌNH (Tướng ngựa)
Mã hình chính diện, diện như bác
Bẩm tính ôn lương hảo khán tiên
Quân tử tỉ chi nhân hữu đức
Bằng trình vạn lý khả an nhiên.
(Nghĩa là: Mặt dài thẳng trông như hòn ngói - Phải xem bẩm tính có ôn lương hay không - Sự nghiệp dù có đi vạn dặm cũng vẫn hay).
HỒ HÌNH (Tướng con cáo)
Tử thần hòa mị tại mi đầu
Tâm linh hảo hoạt sự đa nghi
Ưu du nhất thế vô phiền não
Lưu thủy cao sơn tính cận chi.
(Nghĩa là: Mặt hơi đỏ hung hung, tinh thần hòa nhã, nói ngọt ngào - Lòng dạ đa nghi - Sống cuộc đời nhàn, thích ẩn một chỗ nên về già thường điền viên khuây khỏa).
TRƯ HÌNH (Tướng heo)
Nhĩ trường diện cột thụy suy hư
Hiếu thực vô năng nhất xuẩn trư
Tính ác hoàn ưu tao cuống họa
Chỉ nghi tăng đao thủ nhàn cư.
(Nghĩa là: Tai dài, mặt lõm, ngủ ngáy như rên - Thích ăn, bất tài ngu muội - Tính tình ác độc dễ gặp tai họa - Chỉ nên đi tu để tránh hung tử. Câu thơ này có phần sai vì tướng heo không vô năng, nhiều người tướng heo rất giỏi nhưng bao giờ cũng ngoan cố, có nhiều ác tính và nhất định chết bất đắc kỳ tử).
HÙNG HÌNH (Tướng gấu)
Hùng hình thể trạng khước phi trư
Nhãn dốc thượng triều địa các hư
Thử tử hung ngoạn chung họa diệt
Tính tình da bất nhận thân sơ.
(Nghĩa là: Người mập mạp to lớn, chắc, không ục ịch như tướng heo, mắt hơi xếch, cắm lẹm, ngu bướng dễ gặp tai họa, không cần biết ai).
LỘC HÌNH (Tướng nai)
Lộc mâu thanh hắc diện vi trường
Hành bộ như phi thọ dị thường
Tư tưởng đa vi truyền thạch khách
Tham hoa quyến liễu quá thời quang.
(Nghĩa là: Con ngươi xanh đen, mặt hơi dài - Bước đi rất nhanh rất thọ. Ngao du, mê gái, ăn chơi suốt đời).
HÀ HÌNH (Tướng con tôm)
Diện ngang tinh đột hình như hà
Sỉ lộ tu vi phú túc khoa
Ngộ đắc thủy niên vưu đắc chi
Danh trì để khuyết thụ vinh hoa.
(Nghĩa là: Mặt ngang, mắt lồi, hình thể tròn trịa giống như con tôm, răng lộ, râu thưa giàu có. Gặp những năm thuộc thủy lại càng vinh hoa).
GIẢI HÌNH (Tướng con cua)
Diên viên tinh lộ đới hoành hành
Tính hỉ giang hồ cưỡng bảo doanh
Mãn kiểm hòa quang kham hữu đạo
Cầu mưu tổng thi dị đồ danh.
(Nghĩa là: Mặt tròn, mắt lồi, đi ngang ngang, bước lên nhưng không tiến thẳng mà hơi chéo ngang. Ưa giang hồ tiền bạc dễ kiếm, giao kết bạn bè tốt, sự nghiệp tạo nên một cách bất ngờ).
NGƯ HÌNH (Tướng cá)
Ngư hình đầu súc nhãn khai miên
Thời chí vận thông vượng thủy niên
Tiểu trí nhược ngu tham tạo hóa
Nhất chiêu tế hội thế xưng hiền.
(Nghĩa là: Đầu rụt, ngủ mở mắt, trông có vẻ ngu mà thật thông minh. Gặp năm thuộc thủy rất tốt, đắc thời sẽ lên như diều).
KHỔNG TƯỚC HÌNH (Tướng con công)
Diện tiểu thân phì ái vũ mao
Bình sinh hữu khế tân anh hào
Văn chương tư mệnh lăng vân thủ
Định kiến tha niên khóa cự ngao.
(Nghĩa là: Mặt nhỏ, người mập ưa làm dáng, chơi với bạn thật hào sảng, văn chương hơn người có thể phú quý).
TƯỚC HÌNH (Tướng chim sẻ)
Tước hình mâu cấp tính tham dâm
Đa nhiếp đa kinh hỉ mậu lâm
Y thực gian tân tùy phận độ
Đắc y đại ha tích đôi kim.
(Nghĩa là: Con ngươi động, tính tham hay nhát sợ, kiếm ăn vất vả nếu khi nào được người trên thương thì có chút tiền).
NHẠN HÌNH (Tướng con nhạn)
Nhạn mục trắc mâu tiên thị mi
Đa kinh đa khủng cách đa nghi
Thiên luân hữu ái vô tương thất
Thực lộc giang hồ chỉ tư tri.
(Nghĩa là: Mắt hiếng, lo lo sợ sợ nghi nghi hoặc hoặc, kiếm ăn giang hồ).
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
Tướng pháp về hình cách ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cầm thú hình cách để phân biệt quý tiện, hiền ngu.
Minh Thái Tổ mang kỳ hình quái tướng ngũ nhạc triều thiên, cho nên xuất thân từ đứa trẻ chăn trâu lên đến ngôi thiên tử, lập sự nghiệp cho dòng họ cả mấy trăm năm.
Quan Vân Trường mày như con tằm, mắt đan phượng, sống thì làm tướng giỏi, chết được sùng bái như vị thánh.
Trương Phi hổ hình báo nhãn dương danh bằng vũ nghiệp.
Lưu Huyền Đức long mi phượng mục, hai tai thật lớn, tay dài quá gối, quý đáng bậc thiên tử.
Cận đại, có Trần Tế Đường nhờ đôi mắt đại bàng mà anh hùng nhất khoảnh, làm vua phương Nam.
Tiết Nhạc, hình tựa con beo nên văn vũ song toàn.
La Gia Luân, học giả, làm đại sứ Trung Hoa Quốc Gia bên Ấn Độ có tướng gấu chó, tay dài mũi lớn mắt tròn.
Một trong những người có họ thuộc tứ hào Tưởng, Tống, Khổng, Trần làm mưa làm gió trên chính trường Trung Quốc từ năm 1927 đến 1949 là Trần Quả Phu có tướng khỉ.
Cuối đời nhà Thanh, tổng đốc Lưỡng Quảng, Trương Chí Đồng cũng tướng khỉ. Theo dân Lưỡng Quảng kể lại thì họ Trương lưng gầy và hơi khòng khòng, đôi mắt tròn sáng quắc, chân tay lúc nào cũng hiếu động, dân gian hồi ấy mới có câu vè rằng: “Trương Chí Đồng toàn thân động”.
Tướng pháp nói phàm tướng khỉ thì rất khoái nữ sắc. Đồng cũng vậy, gia nhân cho biết ngày nào Đồng cũng có đàn bà bên cạnh nếu không tất váng đầu chóng mặt. Ngoài 60 tuổi vẫn thế. Lối ăn uống của ông cũng rất lạ lùng, thích những thức ăn như con đuông, đông trùng hạ thảo nghĩa là thuộc loài sâu. Trương Chí Đồng học rất giỏi, trị dân có tài, ngoài 70 tuổi mới chết.
Sách tướng ghi một câu về tướng khỉ: “Hầu tướng quý hiển nhi mỹ thê - Tướng khỉ sang quý, hiển đạt và vợ đẹp”.
TƯỚNG VÀO BỘ: NGŨ ĐOẢN, NGŨ TRƯỜNG, NGŨ LỘ, NGŨ TIỂU, LỤC ĐẠI...
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
Vào bộ nghĩa là nó đi cùng, hợp cùng với nhau - nói nôm na như bộ đồ trà. Vào bộ là tướng phú quý. Tướng cách vào bộ có mấy loại ghi ở dưới đây:
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
NGŨ ĐOẢN (Năm thứ ngắn)
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
Đầu ngắn, mặt ngắn, thân ngắn, tay ngắn, chân ngắn.
Đủ bộ ấy mà xương thịt đẹp đẽ, ấn đường rộng, ngũ nhạc triều có thể làm tới bậc công khanh tể tướng nhưng nếu ngũ nhạc lệch lõm, ấn đường ám hãm thì lại là người hạ tiện.
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
NGŨ TRƯỜNG (Năm thứ dài)
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
<!--[if!supportEmptyParas]--> <!--[endif]-->
Đầu dài, mặt dài, thân dài, tay dài, chân dài.
Cần mặt sáng sủa, xương cốt không lộ, gân mạch lẩn mới tốt; nếu gân mạch quằn quại nổi lên như giun, xương cốt thô lộ là ác tướng, nếu tay ngắn, chân dài thì khổ cực.
NGŨ TIỂU (năm thứ nhỏ)
Đầu nhỏ, mắt nhỏ, bụng nhỏ, tai nhỏ, miệng nhỏ.
Nhỏ nhưng phải ngay ngắn không khuyết hãm, cần đủ cả năm. Nếu chỉ có ba nhỏ, hai lớn hoặc bốn nhỏ một lớn cũng vứt đi.
Không khuyết hãm là thế nào? Là không héo hắt, sâu lõm đen ám hãm.
NGŨ LỘ
Mắt lồi mũi hếch, tai lộ, môi cong, yết hầu lộ.
Nếu chỉ một hay hai lộ thì có quần không có áo hoặc chết ở ngoài đường lộ.
Nếu đủ ngũ lộ thành đạt lớn.
Ông Khổng Tử mang tướng ngũ lộ.
LỤC ĐẠI (Sáu thứ to)
Đầu to, mặt to, tai to, mũi to, miệng rộng, bụng to.
Phú quý anh hào.
BÁT TIỂU (Tám thứ nhỏ)
Đầu nhỏ, mặt nhỏ, mắt nhỏ, tai nhỏ, miệng nhỏ, mũi nhỏ, tiếng nói nhỏ.
Quý cách.
Tướng vào từng bộ trông bên ngoài bao giờ cũng thấy xấu theo tục nhãn.
Đời vua Càn Long, ở đất Giang Nam có người học trò tên Nghiêm Sinh, thân hình cao lớn, chỉ hiềm trên mặt các bộ vị xấu xí, lại rỗ chằng rỗ chịt nên ai cũng khiếp.
Cùng thời có thầy tướng danh tiếng xem tướng cho Nghiêm Sinh, bảo rằng:
- Tướng cách Nghiêm Sinh mắt rồng, răng trâu, lưỡi đỏ, môi đỏ sau này sẽ đậu cao, tục nhãn không thể hiểu được.
Sự thật, mặt Nghiêm Sinh tuy xấu xí nhưng tài học lại vượt xa người, làm thơ phú chỉ trong khoảng khắc. Do đó, mới 20 tuổi đã nổi tiếng là Giang Nam tài tử.
Theo truyền thuyết năm ấy Nghiêm Sinh vào trọ trong đạo viện đọc sách; một ngày đầu thu, trời nóng bức, nằm trằn trọc không ngủ, mới ngồi dậy lững thững ra vườn dạo mát. Bỗng nghe có tiếng người nói chuyện, bụng nghĩ nơi tịch mịch vắng vẻ như thế này mà lại đêm hôm khuya khoắt ai còn ra đây làm gì? Sinh mới lắng tai nghe ông tượng đất nói: “Chiều mai có tám vị tiên tới chào Lý Lão Quân, chúng ta cùng phải chực chờ đón tiếp đấy”.
Ông tượng đất bên kia đáp: “Tôi biết bát tiên đến từ tạ đào Lý Lão Quân để đi về phương Tây, năm ngoái tôi cũng được các vị ấy cho một trái bàn đào”.
Nghiêm Sinh ho lên một tiếng thì các pho tượng đất im luôn.
Trở lại phòng, lòng bâng khuâng nghĩ đến số phận con người, như mình đây, văn chương tài học vào bậc khá nhưng chẳng hiểu có vận mạng công danh hay không? Mình phải trai giới tắm gội sạch sẽ chờ các đại tiên tới mà hỏi xem sao!
Đêm sau, Nghiêm Sinh nằm ẩn dưới gầm bàn thờ. Canh ba, bốn bề vắng lặng vẫn im phăng phắc không thấy ai hết. Mệt quá, Sinh ngủ thiếp đi chợt nghe tiếng huyên náo, nhìn ra các người đã ở ngoài đạo viện, Sinh đếm đúng tám vị, người đi sau chót hình dáng như lão ăn xin vai vác bị, tay cầm gậy sắt đi khập khà khập khiễng. Sinh nghĩ chính là Lý Thiết Quài nên vội vã đuổi theo. Bẩy vị kia đã đi xa, Sinh quỳ xuống lạy xin vị tiên chỉ bảo cho số phận mình tương lai thế nào?
Lý Thiết Quài lấy tay chỉ về phía trước mặt mà nói:
- Con hãy nhìn cảnh đẹp đằng kia mà xem.
Sinh theo ngón tay trỏ mà trông thì thấy có một người vừa đậu trạng nguyên, mặt mũi giống Sinh như lột, bên cạnh phòng trạng nguyên có một người đàn bà rất đẹp treo cổ tự ải.
Lý Thiết Quài trỏ về phía khác, Sinh trông thấy cung điện nguy nga, các quan văn võ đông đủ. Hoàng đế ngồi trước long án, dưới chân có người đang quỳ, mặt mũi giống Sinh như hệt, không rõ người có tấu khải điều gì, hốt nhiên sóng bể tràn vào cuốn trôi mọi vật. Lúc sóng rút có khoảng đất nổi lên trơ trụi, một người đứng đấy mặt mũi giống Sinh như đúc.
Lý Thiết Quài nói:
- Cuộc đời túc hạ là như thế đó.
Nói xong biến mất.
Từ khi Nghiêm Sinh gặp Lý Thiết Quài thì đầu óc thông tuệ khác thường, văn như suối chảy. Vào kinh thi trúng tiến sĩ, vào đình thi đỗ trạng nguyên.
Mẹ và vợ Nghiêm Sinh thấy chàng nay đã ngoài ba mươi tuổi mà chưa có con, nên muốn tìm cho chàng người thiếp. Vừa may, vùng Giang Nam có một nhà quan, trong phủ đầy con gái hầu. Bà mẹ liền ngỏ ý hỏi cô người hầu đẹp nhất trong phủ. Cô ta bằng lòng. Vốn theo hầu tiểu thư từ thuở nhỏ nên cô hầu ấy cũng thông hiểu thi thư kinh sử và rất ngưỡng mộ trạng nguyên. Trong tâm tưởng của cô, trạng nguyên chắc phải là chàng trai tuấn tú mặt đẹp như quan ngọc.
Đêm tân hôn, cô thấy một gã vạm vỡ, mặt mũi xấu xí, rỗ nhằng rỗ nhịt, rượu say mèm chạy vào buồng cô dâu nôn ọe tung tóe mà hắn lại là chồng mình. Cô hối hận, giận thân giận đời xé lụa tự treo cổ lên xà nhà.
Nghiêm Sinh tỉnh rượu, bàng hoàng không hiểu nguyên cớ làm sao? Đến lúc người nhà chạy vào lục trong hộp tư trang thấy có mảnh giấy đề hai câu thơ:
Quốc sắc thiên hương nan tác tế
Trạng nguyên tuy hảo khước phi lang.
Ý cô dâu nói dù mình là trang quốc sắc thiên hương nhưng cũng chẳng phải dễ lấy chồng, dù là trạng nguyên thực đấy nhưng cũng chưa xứng đáng làm chồng.
Nghiêm Sinh bấy giờ mới tỉnh ngộ, nhớ lại cái mộng gặp Lý Thiết Quài.
Làm quan trong triều Nghiêm Sinh thăng tới chức lễ bộ thượng thư. Ít lâu sau mắc bệnh tê thấp, đang chủ lễ trước mặt vua Càn Long bỗng ngã lăn ra đất. Nghiêm Sinh run sợ quỳ lạy hoàng đế xin tha tội bất kính. Thấy Nghiêm Sinh bệnh hoạn, vua Càn Long cho từ chức về quê nhà. Bấy giờ mẹ chết đã lâu, vợ cũng qua đời rồi nên Nghiêm Sinh sống cô đơn cho đến ngày cuối cùng, bên gối chỉ có vài đứa cháu họ xa nâng giấc.