Chương 4
Khoa Học Thức Tỉnh Loài Người

 
Nghiên cứu tình dục xưa nay vẫn là một khu cấm.  Người đầu tiên đi vào nghiên cứu lĩnh vực này, đúng là cần có lòng dũng cảm rất cao. Để có được nhận thức khoa học về hành vi tính giao của loài người, họ phải chịu đựng áp lực rất lớn của gia đình và xã hội, thậm chí phải mạo hiểm chịu tai tiếng xấu, thân tàn danh bại và ngồi tù. Nói như vậy không phải để doạ cho người ta sợ mà thực sự là như vậy. Người sáng lập ra Tâm lý học tình dục là Ellis đã suýt nữa bị khởi tố bắt giam vào ngục tối chỉ vì ông ta tỏ ra khoan dung với tệ đồng tính luyến ái. Cảnh ngộ của nhà tâm lý học Mỹ Watson lại càng bị thảm. Năm 1908 ông là giáo sư tâm lý học của trường Đại học Hopkinh và là người sáng lập ra trường phái "Tâm lý học hành vi". Khoảng năm 1920 ông bắt đầu nghiên cứu và làm thí nghiệm về phản ứng tình dục của con người. Ông đã nghiên cứu nhiều về hành vi giao cấu của động vật và đã thu được kết quả lớn qua nghiên cứu, quan sát động vật giao cấu với nhau trong buồng. Ông vẫn chưa vừa lòng với kết quả đó. Ông cho rằng hành vi tính giao của con người phức tạp hơn nhiều động vật. Lúc đó con người mới chỉ biết được khi giao hợp thì mạch tim tăng lên còn các phản ứng khác ra sao vẫn chưa hiểu được. Watson muốn tìm người làm thí nghiệm nhưng không ai muốn tham gia. Ông đành phải tự mình thí nghiệm, bảo vợ hợp tác với mình nhưng bà ta không chịu. Ông bèn nhờ người nữ trợ lý và được đồng ý. Hai người giao hợp với nhau nhằm thực nghiệm khoa học. Và giao hợp vừa dùng các máy móc ghi lại. Họ đã thu được các tài liệu gốc về phản ứng trong tính giao của loài người. Không may chuyện này bị bà Watson phát hiện.  Không những bà kiện ra toà đòi ly hôn mà còn cướp đi một đống tài liệu mà ông phải tốn nhiều công sức mới có được Sau khi tin tức về việc này lan truyền ra, báo chí Baltimore làm to chuyện, quan toà đã khép ông vào tội dâm ô buộc ông phải từ chức giáo sư Đại học. Sau khi ly hôn, ông lấy người nữ trợ lý. Ông không tìm được việc làm trong bất cứ trường Đại học nào, đành chịu thất nghiệp. Sau này khó khăn lắm mới kiếm được việc làm tại một công ty quảng cáo lớn, sống nốt cuộc đời còn lại ở đây. Đòn đả kích tàn khốc như vậy làm tinh thần ông bị tổn thương lớn, chẳng bao lâu sau ông trở thành một bợm rượu, suốt đời dùng con ma men giải khuây.
Mặc dầu nghiên cứu về tình dục gặp khó khăn chồng chất nhưng các nhà khoa học nghiên cứu lĩnh vực này sớm nhất vẫn gắng chịu đựng áp lực của tập tục xã hội, để góp phần cống hiến quý báu cho nhận thức về tình dục của nhân loại. Ví dụ ông Rapin - nhà bệnh học tinh thần người Áo sinh ra ở Đức, từ năm 1886 đã viết sách "Tâm lý học tình dục". Cuốn sách này là một tác phẩm đặt nền móng cho khoa học tình dục hiện đại, vì vậy năm 1886 được coi là thời gian mở đầu của ngành khoa học đó. Để tránh phổ cập sách này trong dân chúng, các đoạn quan trọng trong sách đều được viết bằng tiếng La tinh. Lần đầu tiên ông đã bàn đến các tật bệnh tình dục một cách độc lập trong sách này. Ông chỉ rõ "Sai phạm tình dục" (Biến tướng tình dục) không phải là tội lỗi mà là bệnh tật.
Những người nghiên cứu nhiều về tình dục theo góc độ tâm lý học còn có Ellis. ông đã triển khai nghiên cứu chuyện này từ thời Victoria có chính sách nghiêm ngặt về tình dục. Ông đã lần lượt cho xuất bản tác phẩm lớn “Nghiên cứu tâm lý học tình dục” gồm 7 tập, do đó đã trở thành người sáng lập ra Tâm lý học tình dục. Ông đã sưu tầm vài trăm dẫn chứng về tình dục và là người sưu tầm tư liệu có hệ thống sớm nhất về mặt này. Ông đã đưa ra nhiều kết luận làm cho con người thời đó phải kinh ngạc, ví dụ ông nói hầu như ai cũng thủ dâm.
Tham gia công việc đi đầu nghiên cứu tình dục còn có Môller, Fuller, Hesinfeld. Môller là nhà y học Đức, cuốn "Sổ tay tính học" đầu tiên của thế giới là do ông viết. Ngoài ra ông còn viết nhiều tác phẩm khác nữa nghiên cứu về đồng tính luyến ái, tình dục con người, sinh hoạt tình dục nhi đồng v.v... Fuller là viện trưởng một bệnh viện của Thuỵ Sĩ. Ông say mê công tác phổ cập và giáo dục khoa học tình dục. Hesinfeld cũng là một bác sĩ người Đức. Ông đã nghiên cứu vấn đề đồng tính luyến ái từ rất sớm. Năm 1896 ông dùng bút danh viết cuốn “Giải thích như thế nào việc đàn ông và đàn bà đồng tính luyến ái". Ông cho rằng đồng tính luyến ái không phải là một căn bệnh mà là một biến dị tự nhiên.  Năm 1908 ông cho xuất bản tạp chí về khoa học tình dục đầu tiên của thế giới.
Bruhe được tôn vinh làm người cha của khoa học tình dục, là một trong các nhà sáng lập ra khoa học tình dục hiện đại. Ông là người sớm nhất vận dụng phương pháp của khoa học xã hội để nghiên cứu các trở ngại tình dục. Khoa học tình dục là thuật ngữ được ông sử dụng trước tiên. Ông cùng với Hesinfeld, Môller đã đấu tranh không mỏi mệt cho công tác giáo dục tình dục, cải cách tình dục.
Có ba vị có ảnh hưởng quan trọng đối với khoa học tình dục. Họ được công nhận là 3 cột mốc của khoa học tình dục, đại diện cho 3 giai đoạn nghiên cứu khoa học tình dục.
Giai đoạn phát triển đầu tiên của khoa học tình dục là nghiên cứu tâm lý học tình dục, nhân vật đại biểu là nhà bệnh học tinh thần nổi tiếng ở Vienne (nước áo) tên là Freud. Tình dục là nội dung hạt nhân trong thuyết tinh thần phân lập của ông. Freud cho rằng: “Cái mà chúng ta gọi là tính cách trên mức độ rất lớn được xây dựng trên các tài liệu về kích thích tình dục.  Nó được họp thành bởi những xúc động từ thời kỳ trẻ con và sau này được thăng hoa và những kết cấu tình dục không chính đáng bị chèn ép đi". Từ thời trẻ con đã có xúc động tình dục nhưng chưa phải là tình dục thực sự của bộ phận sinh dục mà là những khoái cảm tập trung ở vùng nhạy cảm tình dục như da thịt, Freud gọi đó là "Tình dục tiền phát".
Từ tình dục trẻ em này sẽ hình thành giai đoạn tính cách, kết cấu mà con người tất phải trải qua. Môi - tính cách dung nạp có nghĩa là khát vọng được thoả mãn về vật chất, tinh thần và sự hiểu biết tức tri thức.  Đặc điểm của nó là thèm nhỏ rãi, chờ đợi tiêu cực. Môi - tính cách bạo ngược có nghĩa là tranh cướp, bóc lột. Đặc điểm của hậu môn - tính cách bạo ngược là sạch sẽ, biển lận, cố chấp. Tính cách bộ máy sinh dục là tính cách trưởng thành đã phát triển đầy đủ, mọi thứ của con người đều do 4 tính cách nói trên quyết định, rốt cuộc do tình dục quyết định. Thói tự làm tình, bạo ngược, khuất phục, chán nản đều có nguồn gốc từ tình dục, chỉ có điều là thường được biểu hiện trong tiềm thức mà thôi.
Một phát hiện quan trọng khác trong nghiên cứu tâm lý tình dục của Freud là tình yêu mẹ tức là tình Odibus. Odibus là một nhân vật trong thần thoại cổ Hy Lạp đã vô ý thức phạm tội giết bố lấy mẹ. Freud cho rằng đứa bé trai khi còn nhỏ đã cảm thấy sự xúc động của tình dục, khoảng 4 - 5 tuổi đã dần dà sinh ra tình dục mạnh mẽ và ý muốn chiếm hữu mẹ. Nó muốn chiếm hữu mẹ nên bố trở thành tình địch. Nó nảy sinh tư tưởng thù địch bố. Các bé trai đúng là có tình cảm yêu mến mẹ hoặc người nào giống như mẹ, hiện tượng này cũng có ở các bé gái, trong đó khó tránh khỏi có một phần thuộc tình dục nhưng cho rằng lòng yêu mến đó là thuộc về bản chất của tình dục thì khó được nhiều người tán thành. Vì vậy học thuyết của Freud bị phản đối.  Nhưng nghiên cứu của ông đã làm cho con người có thái độ cởi mở hơn đối với tình dục và khiến cho khoa học tình dục được xã hội chấp nhận rộng rãi hơn.
Giai đoạn hai trong nghiên cứu khoa học tình dục là nghiên cứu diễn tả các hành vi tình dục, nhân vật đại biểu của giai đoạn này là Kinsey. Ông là giáo sư khoa Sinh vật trường Đại học Indian, vốn là một nhà sinh thái học côn trùng. Có một lần nhà trường yêu cầu ông nói chuyện về hôn nhân. Ông đến các thư viện sưu tầm tài liệu nhưng đi khắp mọi nơi mà không tìm được tài liệu nào về mặt này. Loài người chẳng biết gì về hành vi tình dục của bản thân mình, tất nhiên không thể biết mình có bình thường không. Sự hiểu biết lẫn nhau của hai giới tính còn kém xa sự hiểu biết về côn trùng. Hiện tượng này khiến ông suy nghĩ. Ông quyết định lao vào nghiên cứu sinh thái tình dục của loài người. Từ đó ông và các trợ lý triển khai điều tra trực diện rộng rãi, tìm hiểu kỹ hành vi tình dục của người Mỹ thuộc các màu da, các tuổi tác, các trình độ văn hoá, các nghề nghiệp và các khu vực khác nhau. ông đặt ra tới 350 câu hỏi cho các người được điều tra, số này này lên tới 17.000 người. Ông và các bạn cộng tác viên dựa vào kết quả điều tra khách quan đó đã viết hai tác phẩm "Hành vi tình dục của nam giới" và "Hành vi tình dục của nữ giới", đó là những tác phẩm kinh điển của khoa học tình dục. Trong báo cáo, ông chú ý đến các điều mà tiền nhân đã bỏ qua, ví dụ ông nói hành vi tình dục rất khác nhau tuỳ theo giai cấp, trình độ học vấn khác nhau.  Những người thuộc thành phần trung thượng lưu thích hôn hít, mút lưỡi, sờ mó kích thích âm hộ hơn so với người thuộc thành phần lớp dưới và họ cũng thích thay đổi tư thế làm tình nhiều hơn. Nhịp độ sinh hoạt tình dục của người văn hoá thấp mau hơn người văn hoá cao.  Người sùng tín tôn giáo biểu hiện bảo thủ hơn, kém tích cực chủ động hơn, nhất là ở nữ giới, so với người không tin nhiều vào tôn giáo. Trong báo cáo, Kinsey còn nêu ra các sự thực làm mọi người kinh ngạc. Ông nói trong số đàn ông Mỹ, số đông đồng tính luyến ái chiếm 37%, trong số đó đồng tính luyến ái tuyệt đối chiếm 4%; số đông đồng tính luyến ái trong đàn bà là 13%, trong đó số đồng tính luyến ái tuyệt đối là 3%. Kinsey cũng giống như các nhà nghiên cứu tình dục khác đều bị dư luận xã hội đả kích mạnh. Nhiều người tỏ ra hoài nghi báo cáo cửa ông. Nhưng dù sao Kinsey cũng đã là người điều tra phân tích quy mô lớn nhất, tỉ mỉ nhất thế giới về hành vi tình dục.
Nhưng nhược điểm lớn nhất trong nghiên cứu của Kinsey là kết luận của ông hoàn toàn dựa vào trình bày của những nhóm người này đã không thể nói hết tất cả mọi xúc cảm tình dục chân thực của họ. Những vấn đề biến đổi của cơ thể con người khi thủ dâm và khi giao hợp có gì khác nhau, khả năng tình dục của con người, tình dục và tuổi tác có liên quan gì với nhau, chỉ dựa vào trình bày của họ là không thể đầy đủ được, phải qua nghiên cứu thực nghiệm khách quan mới làm rõ được.  Theo đà phát triển của khoa học tình dục, người ta lại nhắc lại việc nghiên cứu thí nghiệm phản ứng về tình dục trước đây của Watson.
Giai đoạn phát triển thứ ba của khoa học tình dục là nghiên cứu thí nghiệm phản ứng tình dục, nhân vật đại biểu là vợ chồng Mastess. Bà Mastess là bác sĩ phụ khoa người Mỹ, chồng bà ông Jonhson là nhà tâm lý học. Cả hai đã cùng nhau tiến vào khu cấm nghiên cứu phản ứng tình dục và đã thu được kết quả cực lớn. Họ đã trở thành những người đặt nền móng thực sự cho y học hiện đại về tình dục và là những vị quyền uy trong khoa học tình dục. Khi mới bắt đầu nghiên cứu, họ dùng 8 kỹ nữ và 3 kỹ nam làm đối tượng thực nghiệm, chủ yếu dùng phương pháp thủ dâm để ghi lại sự biến đổi của phản ứng tình dục ở nữ giới. Sau này có nhiều nam nữ tuổi từ 18 đến 89 kéo nhau đến xin làm người thí nghiệm. Phạm vi nghiên cứu của họ được mở rộng sang nam giới. Họ ghi lại toàn diện các biến động sinh lý của con người trong thời gian hưng phấn tình dục. Khi thực nghiệm họ còn áp đụng các kỹ thuật thực nghiệm hiện đại, ví dụ họ gắn máy ảnh tý hon vào dương vật cao su rồi làm động tác giao hợp mô phỏng để chụp ảnh sự biến động ở âm đạo.
Lúc đầu nghiên cứu của Mastess không được xã hội tán thưởng và công nhận. Bà đưa các số liệu nghiên cứu được tới Hiệp hội bác sĩ phụ khoa, đa số các học giả đều từ chối không ủng hộ và còn khuyên bà nên từ bỏ việc nghiên cứu này. Các tác phẩm nghiên cứu của họ gặp đủ mọi trở lực, nhiều tạp chí y học danh tiếng không chịu đăng bài viết của họ. Đến tận năm 1962 việc nghiên cứu của họ mới được những học giả dự hội nghị tâm lý học hàng năm ở Mỹ cảm thấy rất thích thú. Năm 1966 tác phẩm đầu tiên của họ "Phản ứng tình dục của loài người” ra mắt bạn đọc, trong đó đã trình bày kết quả nghiên cứu phản ứng tình dục ở 382 nữ và 312 nam. Đó là lần đầu tiên sự biến động trong cơ thể nam nữ qua các giai đoạn của toàn bộ quá trình phản ứng tình dục được trình bày tỉ mỉ. Sách xuất bản ra đã gây nên một cơn chấn động, 30 vạn cuốn in đóng đẹp đã bán hết sạch trong một thời gian rất ngắn. Năm 1970 họ lại xuất bản cuốn "Cơ năng tình dục thất thường của loài người”, sáng tạo ra một giai đoạn mới trong trị bệnh tình dục. Họ còn lập ra một viện nghiên cứu mang tên mình, cả hai vợ chồng đều làm viện trưởng, chuyên nghiên cứu giải phẫu học và sinh lý học trong phản ứng tình dục của con người bình thường.
Hai vợ chồng Mastess đã chấn chỉnh lại nhận thức lệch lạc về nhiều mặt đối với tình dục của con người. Ví dụ trước đây thường người ta cho rằng do phương pháp kích thích hưng phấn tình dục khác nhau nên cao trào hưng phấn của nữ cũng khác nhau, phản ứng tình dục của nam khác xa phản ứng tình dục của nữ. Qua thực nghiệm hai ông bà phát hiện bất kể dùng phương pháp gì để kích thích tình dục thì đặc điểm biến đổi trong cơ thể nữ cũng đều cơ bản giống nhau. Tuy phản ứng tâm lý tình dục của con người có khác nhau nhưng sự phản ứng của cơ thể đều diễn ra theo một trình tự nhất định, phản ứng tình dục cua nam nữ theo một trình tự nhất định và phản ứng tình dục của nam nữ cực kỳ giống nhau. Thêm một ví dụ nữa, từ thế kỷ 18 đến nay rất thịnh hành cách nói "Thủ dâm có hại" của nhà y học Pháp Tissot, về sau Frend lại nói phản ứng tình dục của nam nữ chia làm hai giai đoạn cao trào âm đạo và cao trào dương vật, cho rằng nó có thể gây ra nhiều hậu quả không tốt. Hai vợ chồng Mastess đã dùng các kết quả thực nghiệm không thể bác bỏ được để giải thích và sửa lại các điều đó.
Trên cơ sở nghiên cứu tình dục đó, hai ông bà Mastess đã sáng lập ra một phân khoa của y học tình dục gọi là trị liệu tình dục. Trị liệu tình dục khác với trị liệu bệnh tinh thần phân lập, nhấn mạnh việc trị liệu tích cực, trực tiếp khả năng tình dục. Còn bệnh tinh thần phân lập lại chú trọng việc chuyện trò thời gian dài với bệnh nhân, tìm hiểu điều sâu kín trong tâm lý của họ, giải quyết vấn đề tâm lý. Ví dụ phần lớn các nhà sinh lý học và tâm lý học đều cho rằng bệnh "thờ ơ tình dục" ở phụ nữ là do quá e thẹn, lo lắng mà sinh ra. Vợ chồng Mastess lại cho rằng bệnh đó thường là do sự vô tri về tình dục hoặc thao tác tình dục không ổn của hai bên nam nữ gây ra, chỉ cần cố gắng xoá bỏ sự lo lắng trong thao tác tình dục, thay đổi thái độ tiêu cực trong tình dục, dạy cho hai bên nam nữ hiểu rõ kiến thức về kỹ thuật tình dục là có thể thu được kết quả khả quan. Hai ông bà cũng dùng phương pháp giống như vậy để chữa bệnh di tinh ở nam giới, xác suất thành công đạt suýt soát 100%.
Rosso đã từng nói. "Tuyệt đối không có hứng thú tình yêu đối với những người trước đây có điều cấm kỵ, sau này có điều lo sợ, vừa có lời lẽ chê trách lại vừa có sự trầm lặng của nỗi kinh sợ". Tình dục đúng là như vậy. Khoa học tình dục đã mở toang cánh cửa thần bí, nặng nề cuối cùng để nhân loại tự nhận thức bản thân.  Nó đang xoá bỏ những điều cấm kỵ, mê tín, chê trách, trầm lặng đó. Nó dùng khoa học thay thế cho sự ngu muội, dùng văn minh chân chính thay thế văn minh giả tạo, khiến cho loài người có thể sinh hoạt tình dục bình thường, hạnh phúc. Ý nghĩa chân chính của khoa học tình dục là ở chỗ đó.
Tình dục, con quái vật này, dưới ánh sáng của khoa học đã không còn làm cho con người cảm thấy nghi hoặc nữa.