Dịch giả : Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên
Chương XV
Quá nhiều dự án tốt đẹp

Tại căn cứ Friedenthal, chúng tôi làm việc cực lực. Chắc chắn chúng tôi phải sử dụng đến một nửa thì giờ và năng lực để lâm chiến không ngừng chống lại các bàn giấy tràn ngập giấy tờ và các công sở vẫn so đo nhỏ giọt vật liệu và nhân viên của chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi vẫn có đủ thì giờ để suy tưởng và thiết lập các kế hoạch vĩ đại. Chúng tôi bị kích thích nhiều nhất khi nghiên cứu hồ sơ khổng lồ chứa đựng tất cả các chi tiết về chiến dịch của các cảm tử quân trứ danh dưới quyền Lord Mountbatten. Đây là một cuộc nghiên cứu bổ ích mặc dù có vẻ nản chí. Chúng tôi tái mặt ghen tức khi thấy các cấp chỉ huy cảm tử quân Anh được sử dụng những phương tiện vô giới hạn. Họ có thể tự ý ghi vào các kế hoạch sự yểm trợ bằng tuần dương hạm, tàu phóng ngư lôi, tiềm thủy đỉnh, đó là không nói đến sự hợp tác cố định của nhiều phi đoàn không quân với đủ loại phi cơ tân tiến. Ngược lại, chúng tôi quá nghèo nàn, nghèo dễ sợ và không tưởng tượng được. Chưa bao giờ chúng tôi nhận được “sự sẵn sàng” một chiến hạm nào đó của Hải quân, và phi đoàn 200 chiến đấu phải vật lộn để có từng chiếc phi cơ. Tôi có thể kể một thí dụ: Phi đoàn chỉ có vỏn vẹn 3 chiếc Junker 290, loại phi cơ có tầm hoạt động xa.
Vả chăng, phải thẳng thắn mà nói rằng ưu thế của quân cảm tử Anh không phải chỉ có tính cách vật chất: Mountbatten biết cách chọn mục tiêu, và mỗi lần ra tay, ông đều đạt tới đích. Khi thì tấn công và phá huỷ một xưởng lọc dầu cá nằm trên một hòn đảo thuộc Thụy Điển, lúc khác, một chiến dịch được quan niệm tuyệt vời, dựa vào đó, quân Anh tiến chiếm một đài Ra đa do Đức vừa thiết lập trên bờ biển nước Pháp gần Dieppe; hoặc giả là một cuộc đột kích nhắm vào bản doanh của tướng Rommel tại Phi châu - hoạt động này đã thất bại, nhưng chỉ vì một sự tình cờ, có lẽ do một tin tình báo thiếu chính xác, quân Anh đã tấn công vào các cơ sở quân nhu.
Tuy nhiên phía Đồng minh cũng có nhiều điểm tầm thường nhất là trong một khu vực rộng lớn do họ kiểm soát tại Trung Đông. Chúng tôi quyết định khai thác và tấn công vào các chỗ yếu đó. Mặc dù tình hình đã trở nên nguy ngập đối với quân đội Đức, chúng tôi vẫn khích động bởi niềm phấn khởi - nếu không nói là niềm lạc quan - đến nỗi nhiều khi dành tuần này qua tuần khác để thiết lập kế hoạch, chuẩn bị cho chiến dịch nhưng sau cùng lại chịu thất bại, mà luôn luôn vì mỗi một lý do: vấn đề chuyên chở.
Vì không thể tìm đủ số phi cơ Junker 290, loại phi cơ Đức độc nhất có tầm hoạt động xa và chắc - loại Henkel 117, theo các chuyên gia, chỉ là một sản phẩm hư hỏng – chúng tôi phải xoay trở khắc phục khó khăn. Tại sao chúng tôi không sử dụng một lần nữa dụng cụ mà quân địch đã cung cấp cho chúng tôi? Chúng tôi nghĩ là có thể sửa chữa lại một vài chiếc phi cơ 4 máy của Hoa Kỳ mà trước đây đã bị bắt buộc đáp xuống Đức hay các khu vực do Đức kiểm soát. Dự định của tôi đã làm cho Bộ Tham Mưu Không quân thích thú. Nha vật liệu hứa sẽ thành lập ngay toán chuyên viên có nhiệm vụ thu hồi và sửa chữa các “pháo đài bay” đó. Tiếc thay công việc này tiến hành quá chậm. Mãi đến cuối mùa thu 1944, tôi mới được thông báo rằng 6 chiếc đã sẵn sàng. Vài ngày sau, một tin tức khác đã dập tắt hoàn toàn nguồn hy vọng của chúng tôi: trong một trận oanh tạc nặng nề, cả 6 chiếc đều bị tiêu huỷ. Tất cả lại trở về với số không.
Trong khi chờ đợi - một cách vô ích - sửa chữa phi cơ, chúng tôi phải giải quyết hai vấn đề khác do kế hoạch hành động đặt ra. Trước hết là vấn đề đáp gần mục tiêu. Vì gần như chắc chắn rằng không thể tìm đâu ra chỗ có thể chịu đựng được sức nặng của các con khủng long đó, chúng tôi dự tính dùng một phương cách khác: chiếc phi cơ 4 máy sẽ kéo một số máy lượn, loại này đáp ở đâu cũng được. Khốn thay, các máy lượn của chúng tôi chỉ chịu đựng được tốc độ tối đa 250 cây số/ giờ, trong khi đó tốc độ của phi cơ Mỹ trung bình là từ 350 đến 450 cây số/ giờ. Chính nhờ giáo sư Georgi, bạn thân của Hanna Reitsch, chúng tôi mới vượt qua được trở ngại này. Giáo sư đã chế tạo một loại máy lượn chịu được tốc độ đó và chở được 12 người với đầy đủ trang bị.
Vấn đề thứ hai, trầm trọng hơn, đó là việc đưa người của chúng tôi trở về. Thoạt nhìn, các cảm tử quân sau khi hoàn thành sứ mạng, chỉ có hai cách: hoặc là họ đầu hàng quân địch và chờ chiến tranh chấm dứt trong một trại tù binh, hoặc là tìm cách trở về phòng tuyến bạn, điều này có nghĩa là phải vượt hàng trăm cây số - ý định táo bạo quá nếu không nói là tuyệt vọng quá. Thế mà tôi vẫn tin rằng muốn cho họ hăng hái hơn, chiến đấu say sưa hơn, phải đảm bảo một sự may mắn được trở về. Làm sao cho họ sự may mắn đó? Lẽ tự nhiên ý tưởng của tôi là sẽ dùng phi cơ kéo các chiếc máy lượn mang theo quân cảm tử trở về.
Các kỹ sư hàng không bèn tìm cách giải quyết khó khăn này. Tại phi trường Ainring, họ đang thử nhiều cách giúp một phi cơ kéo một chiếc máy lượn chở nặng mà không cần đáp xuống đất. Sau nhiều lần thí nghiệm có cả tôi chứng kiến, chúng tôi thấy chỉ có một cách xếp đặt có thể áp dụng được: dây cáp của máy lượn sẽ trải dưới đất nhờ các cột sắp xếp theo hình bình hành, ở một đầu, dây sẽ treo trên một cột cao chừng ba thước. Một chiếc móc đặc biệt, do phi cơ bay là là và thả xuống, sẽ móc vào điểm này và kéo chiếc máy lượn lên cao.
Lần thí nghiệm đầu tiên, với loại máy lượn nhẹ, có kết quả khích lệ. Nhưng để áp dụng kỹ thuật đó với loại máy lượn to lớn nặng nề hơn, chúng tôi cần điều chỉnh lại. Nghĩa là cần thì giờ và xăng nhớt thêm, mà cả hai thứ, chúng tôi đều hoàn toàn thiếu hụt. Tình trạng này càng ngày càng nghiêm trọng đưa đến đổ vỡ hoàn toàn.
Tôi thường tự hỏi tại sao tại Đức, các cuộc thí nghiệm kiểu này chỉ được thực hiện vào phút chót, vào lúc nguy kịch nhất, khiến cho chúng tôi không còn đủ thì giờ hoàn thiện các sáng kiến và phương pháp mới được nữa. Hiện tại tôi vẫn chưa tìm được câu trả lời thoả đáng cho cái “quá chậm” tai hại mà tôi thường phải đương đầu trong những năm cuối cùng của cuộc chiến.
Bên cạnh đó, phe Đồng minh cũng thực hiện các cuộc thí nghiệm tương tự, tuy nhiên điểm khác biệt là luôn luôn họ đạt tới các kết quả thực dụng. Họ lại còn chứng tỏ hiệu năng của các phương pháp áp dụng trong vụ đưa nguyên cả một phi đoàn máy lượn hạ cánh sau phòng tuyến của chúng tôi tại Arnhem ngày 17 tháng 9 năm 1944 (1). Từ cuộc hành quân vĩ đại đó, tôi luôn luôn run sợ trước ý nghĩ Đồng minh có thể không vận hàng Sư đoàn cho đến ven thành phố Bá linh là nơi vẫn tập trung tất cả cơ quan lãnh đạo kể cả Tổng Hành Dinh của Fuhrer. Với một cuộc tấn công chớp nhoáng, các đơn vị này chắc chắn có thể chiếm toàn bộ cơ sở đầu não của quân lực Đức. Có lẽ chỉ vì các lý do chính trị mà Anh Mỹ chưa thực hiện một cuộc đổ bộ bằng đường hàng không như thế. Dầu sao, đối với quân cảm tử Anh và đối với cơ quan hành quân chiến lược của Thiếu tướng nổi danh William T. Donovan thuộc quân lực Mỹ, một chiến công như thế không phải là không thực hiện nổi. Một cuộc hành quân loại này dám đã có sẵn trong hồ sơ của Bá tước Mounbatten và ông “Wild Bill” cũng không chừng.
 
°
Như tôi đã nói trên đây, mặc dù tất cả các đề án to lớn của chúng tôi cuối cùng đều bị bỏ dở hết, tôi muốn trình bày vắn tắt vài đề án:
Từ lâu, chúng tôi mơ ước một chiến dịch phá hoại các ống dẫn dầu: khởi đi từ các giếng dầu ở Irak, hai đường ống dẫn chất lỏng quí báu đến các nhà máy lọc ở Haiffa và Tripoli nằm trên bờ biển Địa Trung Hải. Chúng tôi biết rằng các đồng chí Ả Rập của chúng tôi, đã đặt chất nổ liên tục phá các ống dẫn dầu này. Tuy nhiên việc tuyển mộ cảm tử quân Ả Rập quá mắc, mà năng suất lại không được bảo đảm. Một mặt các chỗ bị phá hoại được sửa chữa ngay, mặt khác, chúng tôi không kiểm soát nổi kết quả mà người Ả Rập cho là đã thực hiện được. Trái lại nếu phá hoại được nhiều địa điểm bơm dầu, chúng tôi mới hy vọng một sự ngưng trệ toàn diện việc cung cấp dầu nguyên chất trong vài tháng.
Từ hơn một năm nay, cơ sở kỹ thuật của tôi cố moi óc tìm cách giải quyết vấn đề này. Ngay từ năm 1943, các kỹ sư của chúng tôi nghĩ ra một loại mìn nổi được, có tỷ trọng bằng dầu hoả. Trái mìn này được thả vào ống dẫn dầu bằng một lỗ hình quả trám do một chất nổ đặc biệt khoét thủng, và ống dẫn dầu được vá lại ngay. Theo ý tôi, các quả mìn loại đó có kích thước nhỏ bé quá, chỉ có thể phá hư một vài nắp an toàn là cùng, do đó tôi bác bỏ ý kiến này. Các chuyên viên khác lại đề nghị dùng bom phát nhiệt lượng để nung chảy một vài đoạn ống dẫn dầu đúng vào chỗ đất lõm sâu. Khốn thay, các cuộc thử đã không mang lại kết quả. Sau cùng, Không quân đề nghị dùng bom từ tính để phá huỷ nhiều đoạn ống dẫn dầu thật dài. Tuy nhiên kinh nghiệm của chúng tôi không bao giờ vượt quá giai đoạn nghiên cứu chuẩn bị.
Sau nhiều thất bại liên tiếp, chúng tôi chỉ còn một cách: chiến dịch cảm tử tấn công trạm bơm dầu. Các không ảnh cho thấy cạnh mỗi địa điểm có một phi trường nhỏ, dành cho máy bay của Đồng minh tuần tiễu không ngừng dọc theo các đường ống dẫn dầu, có chỗ đáp khi khẩn cấp. Bên cạnh đó một pháo đài nhỏ được dùng làm nơi trú ẩn cho nhân viên kỹ thuật khi bị một bộ lạc địa phương tấn công. Trạm bơm dầu đích danh, với các máy móc và động cơ Diesel thì ở cách đó hàng trăm thước. Nhờ các không ảnh, chúng tôi lập được kế hoạch khá chính xác:
Sáu phi cơ 4 máy đáp xuống phi trường. Hoả lực của đại bác và liên thanh trên phi cơ sẽ bắn che cho quân cảm tử cố vô hiệu hoá tiểu pháo đài, giúp cho tiểu đội phá hoại chạy nhanh đến phá huỷ trạm bơm dầu. Tất cả mọi chi tiết đều được dự trù trước. Chúng tôi còn nghĩ đến việc trang bị cho phi cơ một bộ phận đặc biệt, nhờ đó, khi đến gần phi đạo, có thể nhổ cả dây trời ngăn không cho quân canh giữ kêu cứu bằng các máy vô tuyến. Làm như vậy, chúng tôi tin rằng địch sẽ bị bất ngờ hoàn toàn. Dầu sao vẫn còn một yếu tố mà chúng tôi chưa biết: liệu các phi trường có đủ lớn để loại phi cơ bốn máy có thể đáp được? Các không ảnh chụp từ năm 1941 chỉ cho thấy một phi đạo ngắn, nhưng theo tin tình báo mới đây, chúng đều đã được nới rộng. Đằng nào chúng tôi cũng sẵn sàng chấp nhận rủi ro này. Than ôi! - Mặc dù hết sức nỗ lực chuẩn bị, chúng tôi không có đủ máy bay có tầm hoạt động xa!
Một điểm yếu khác của phe Đồng minh là kinh Suez hay nói đúng hơn, một vài lối đi trên con kinh. Nếu kinh Suez bị phá hoại, các đoàn tàu đi Viễn Đông phải chạy vòng quanh mũi Hảo Vọng, mất thì giờ hơn. Chúng tôi đã huấn luyện các chiến sĩ bơi lội hay nói theo người Anh, các người nhái để sử dụng trong sứ mạng này. Thế nhưng, chúng tôi đã ở vào cuối năm 1944, ưu thế Không quân của Đồng minh trên biển Địa Trung Hải mạnh đến nỗi chúng tôi phải bỏ rơi kế hoạch dù chết điếng trong lòng. Một lần nữa, quá chậm mất rồi!
Một kế hoạch khác, cũng được soạn thảo tỉ mỉ, dự trù một cuộc tấn công vào khu vực dầu hỏa Bakou. Lẽ tất nhiên là không thể nào tấn công được các giếng dầu hay các nhà máy lọc dầu với một nhóm người nhỏ nhoi. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ cả khu vực, chúng tôi thấy có một vài điểm then chốt – vì các lý do dễ hiểu, tôi không nói rõ chi tiết được – mà nếu bị phá hủy, sẽ kéo theo sự giảm thiểu khổng lồ, gần như đình chỉ hoàn toàn công cuộc sản xuất. Lại một lần nữa, và luôn luôn cùng một lý do, chúng tôi phải bỏ dở kế hoạch.
Trái lại, một chiến dịch khác bị thất bại vào phút chót chỉ vì lòng ganh tị của một trong các tướng lãnh của chúng tôi. Từ năm 1943, các đảng viên Cộng Sản Nam Tư đã quấy phá chúng tôi dữ dội đến nỗi Bộ Chỉ huy khu vực Ba Nhĩ Cán của chúng tôi hết sức lo ngại. Trong một vùng mà địa hình hoàn toàn thuận lợi cho hoạt động du kích qui mô, quân kháng chiến Nam Tư đã cầm chân nhiều đơn vị Đức và trong vô số các cuộc giao tranh, đã gây cho quân đội Đức những thiệt hại nặng nề. Nếu khám phá được Bản doanh của Tito, và nếu chiếm được nơi này, chúng tôi hy vọng có thể giảm thiểu đáng kể áp lực đè nặng trên quân đội Đức. Đó là đại khái nội dung sứ mạng mà Bộ Tư Lệnh tối cao Quân lực Đức giao phó cho tôi vào đầu năm 1944.
Rõ ràng là phía chúng tôi đã ước lượng sai giá trị của các toán quân mà Tito cho tập trung chung quanh Bản doanh của ông ta. Chúng tôi cũng hoàn toàn không biết gì về nơi ẩn náu và tất nhiên là người lãnh tụ kháng chiến phải ngụy trang để đánh lạc hướng Bộ Tư Lệnh tối cao Quân lực Đức. Vậy thì thoạt tiên chúng tôi phải tổ chức một thứ cơ quan tình báo với mục đích là tìm các chỉ dẫn chính xác về hai điểm nêu trên. Để được chắc ăn, mỗi khi một nhân viên điểm chỉ một vùng nào đó có thể là nơi đặt G. Q. G. của Tito, tôi ra lệnh tổ chức nhiều đường dây khác nhau để kiểm chứng lại nguồn tin. Chỉ khi nào có ba nguồn tin cùng báo cáo như nhau, chúng tôi mới mở cuộc hành quân thực sự. Chúng tôi không được phép bất cẩn: nếu vạn nhất bị thất bại, Tito sẽ được canh gác kỹ hơn và chúng tôi không thể nào bắt được ông ta nữa.
Để có thể tiếp xúc với các giới chức quân sự và Cảnh sát của chúng tôi tại Nam Tư, tháng 4 năm 1944 tôi mang theo một sĩ quan của đơn vị đi Belgrade. Sau hai ngày thảo luận kịch liệt, tôi dùng xe đi Agram. Tất cả mọi người đều khuyên tôi huỷ bỏ chuyến đi này vì xe sẽ chạy ngang qua một vùng bị quân du kích xâm nhập. Tuy nhiên trong ngày không có chuyến phi cơ nào mà tôi thì lại được người ta chờ ở Agram sáng hôm sau. Mặc kệ - tôi cứ thử đi, tin tưởng vào tốc độ của chiếc xe Mercedès và ngôi sao bổn mạng thật tốt. Mặc dù vậy, để gọi là có hộ tống, tôi đem theo hai hạ sĩ quan do một tướng lãnh cho mượn.
Chúng tôi khởi hành lúc rạng đông. Đến trưa, chúng tôi dừng lại trong vùng núi Fruska Gora, nơi đây có một đơn vị của Đức đồn trú với nhiệm vụ giữ an ninh trong vùng. Trong khi ăn, viên sĩ quan trưởng đồn cho tôi biết vài tin tức thích thú:
- “Không có tuần nào là không đụng độ với quân du kích. Vả lại, không bao giờ có thể kết thúc các cuộc giao tranh được, bởi vì giữa hai cuộc chạm súng, quân du kích lại bình yên trở về làng và nông trại, dấu vũ khí vào một đống rơm và đóng vai trò một nông dân thường, trong nhiều ngày liên tiếp. Chuyện vui nhất liên quan đến nhu cầu cứu thương. Cho đến nay, chúng tôi không thể xin quý ông ở Belgrade một y sĩ. Chúng tôi đành phải gọi ông lang tây trong làng, mặc dù biết ông này cũng săn sóc cho cả quân du kích. Ông ta cũng không dấu điều đó, nếu từ chối, quân cộng sản sẽ bắt toàn gia đình ông ta ngay - điều này chẳng liên hệ gì đến chúng tôi. Phải nói ngay rằng chúng tôi rất bằng lòng về ông ta”.
Chúng tôi lại lên đường, ngang qua một vùng trù mật, rải rác nhiều nông trại thật đẹp. Mỗi lần thấy một nông dân cày bừa, tôi tự hỏi hắn dấu súng ở đâu. Nhưng cuộc hành trình của tôi rất bình thường, chẳng ai bắn vào chúng tôi cả, con đường thật an ninh. Đến tối chúng tôi dừng lại trong một làng để hỏi một dân quê mua vài quả trứng. Lúc lên xe, chúng tôi thoáng thấy một vài người ăn mặc rách rưới có võ trang, lảng vảng trong chợ. Tôi đã sẵn sàng đặt tay lên súng lục, nhưng khi xe tiến ngang qua họ, họ nhăn răng cười và còn làm một vài cử chỉ như chào chúng tôi nữa! Một lát sau, Chỉ Huy trưởng đồn binh ở Brcka cho tôi biết là quân du kích đã chiếm trọn vùng và vì thế, rất nguy hiểm cho các xe Đức không được hộ tống. Tại Agram, không ai tin rằng chúng tôi đã đến bằng xe trên con đường này. Hình như từ nhiều tháng qua, chúng tôi là những người đầu tiên đã đến nơi một cách an toàn. Khi nghe kể lại vô số các cuộc tấn công vào các đoàn xe và khi xem bản đồ ghi chú các chỗ tập trung quân của các chiến khu Nam Tư, tôi mới sợ cho cuộc hành trình vừa qua. Cuối cùng, tôi không còn nghĩ ngợi đến điều đó nữa, bởi vì mọi chuyện đều êm xuôi. Có một điều chắc chắn là tôi đã thoát nạn, trong đường tơ kẽ tóc.
Một tháng sau, tất cả đều sẵn sàng. Những tin tức được phối kiểm và tái phối kiểm thận trọng, cho chúng tôi biết rằng Bản doanh lưu động của Tito sẽ đóng gần Dvar, tại miền tây Bosnie, trong vài tuần. Hiện nay, cần kết thúc công cuộc chuẩn bị để có thể tung ra cuộc hành quân mà chính tôi sẽ chỉ huy. Tôi cho Tham mưu trưởng là Đại uý Foelkersam đến Banka Luka, thủ phủ của vùng trên, để đặt liên lạc với vị Tướng lãnh Chỉ huy quân đội Đức tại Bosnie. Lúc trở về, Von Foelkersam kể lại rằng ông Tướng và các cộng sự viên thân cận của ông đã dành cho anh ta một cuộc tiếp xúc hờ hững xa cách, nếu không nói là lạnh lùng. Ngay lúc đó, tôi không chú ý đến sự kiện này; vả chăng, tôi cóc cần thiện cảm hay ác cảm mà quý ông đó dành cho tôi. Đối với tôi, chỉ có sứ mạng là quan trọng.
Ấy thế mà vài ngày sau – lúc đó là cuối tháng 5 năm 1944 – trung tâm tình báo của tôi tại Agram gửi cho tôi một tin kinh ngạc: “Quân đoàn X sửa soạn một cuộc hành quân đánh Tổng Hành Dinh của Tito. Ngày J được ấn định là 2 tháng 6”. Sự kiện này đã giải thích thái độ câm nín của các sĩ quan. Họ chỉ nhìn tôi như là kẻ cạnh tranh đáng ghét và vì thế, họ dấu kín ý định. Trước hết, cung cách thiếu điệu nghệ này đã làm tôi nổi giận, nhất là khi nó quá lố bịch: Tôi đã tình nguyện hợp tác với họ và sẵn sàng đặt dưới quyền chỉ huy của vị tướng lãnh. Nhưng tôi nuốt giận và cố gắng cứu vãn tình thế thật nhanh. Nếu nhân viên của tôi ở Agram mà biết được kế hoạch hành quân thì gần như chắc chắn rằng người của Tito cũng biết được kế hoạch ấy. Tôi gửi ngay một mật điện truyền thanh để lưu ý quý ông ở Bosnie. Lúc trở về Friedenthal, tôi còn nhận được thêm nhiều tin tức xác nhận quan điểm của tôi: chắc chắn cuộc hành quân dự liệu sẽ gặp thất bại. Tôi nhắc lại lời báo động, nhưng không có gì (đáng?) tiếc hơn là kẻ không muốn nghe. Tướng X đã không chịu huỷ bỏ cuộc hành quân của ông.
Đến ngày ấn định, một Tiểu đoàn dù thuộc đơn vị Waffen SS nhảy xuống một thung lũng thuộc vùng bị quân du kích kiểm soát hoàn toàn. Nhiều máy lượn đưa lực lượng tăng cường đến tham gia trận chiến. Sau một cuộc chiến đấu cam go và đẫm máu, quân du kích rút lui, bỏ lại ngôi làng và thung lũng. Khốn thay, những điều tiên liệu bi quan của tôi đã thể hiện: Tổ chim trống rỗng, con chim đã bay đi. Để xác nhận đúng là Tổng Hành Dinh, binh sĩ của chúng tôi chỉ tìm thấy hai sĩ quan liên lạc Anh mà Tito bỏ lại, có lẽ để rứt khỏi họ. Trông một ngôi nhà, chúng tôi còn khám phá được một bộ quân phục Thống chế còn mới. Chắc Tito mới rời khỏi làng vài giờ trước để đến một địa điểm khác. Và thế cũng chưa hết – còn phải gởi các đơn vị bộ binh, bằng một cuộc điều quân khó khăn, đến giải tỏa quân nhảy dù bị vây trong thung lũng.
Như vậy, vì lòng ganh tị đê hèn của một sĩ quan khao khát được thăng thưởng mà một kế hoạch lớn, nếu thành công, sẽ có tầm ảnh hưởng đáng kể, phải chịu thảm bại – điều đáng tiếc hơn nữa là sự thất bại này đã làm giảm thiểu gần như hoàn toàn hy vọng bắt được Tito của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi theo dõi được dấu vết Tổng Hành Dinh của Tito, di chuyển dọc theo bờ biển Adriatique và từ đó, đến đảo Vis, nơi mà ông ta thiết lập hẳn cơ sở chính quyền. Chúng tôi cũng có dự tính một cuộc tấn công chớp nhoáng đảo này – nhưng, một lần nữa các biến chuyển dồn dập đã vượt qua chúng tôi.