Thằng ăn cắp

     hải đòn trận này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp lắm! Ai thương? Ai bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp?
Người ta kháo nhau:
- Quân ấy tinh quái lắm! Ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn vào mặt, vào mình, lử thử làm như thằng ốm, nhưng hễ rình nhà nào vô ý, là thừa cơ thó ngay, rồi lẩn mất, nhanh như cái cắt!
Người ta gớm mặt nó! Người ta sợ nó! Hễ nó lảng vảng đến, người ta ngờ, người ta canh, người ta giữ, coi nó như một con chó đói!
Một hôm, nó vơ vẩn giữa đám hàng bán rong.
Thấy nó, bà hàng rau đứng dậy, quẩy gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn túi tiền. Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán sốt đưa mắt cho bác bán khoai.
Họ thì thào:
- Thằng ăn cắp.
Trông nó đáng sợ thật. Hai mắt trắng dã, lấm la lấm lét. Tóc thì bồng lên như tổ quạ. Da đen thui thủi. Mặt rạn như men lọ cổ.
Hai tay thục vào túi cái áo tây vàng, xơ xác như tổ đỉa, bẩn thỉu như giẻ lau, nó đứng nhích ra chỗ bóng nắng, dún dấy cho ấm.
Nó nhìn gánh bún riêu. Nó nhìn mẹt bánh đúc. Nó nhìn rổ khoai lang. Cơ chừng nó thèm. Nó thèm vì nó đói.
Thấy nó ám, các bà chẳng dám đuổi, nhưng bụng mong nó cút ngay đi.
Nó đứng một lúc. Rỗi quá. Nó chìa bàn tay ra xin, xin bằng những câu văn sách thuộc lòng, chớ không cố lấy giọng nằn nì khốn nạn:
- Cắn cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc thí bỏ cho con đồng cơm bát cháo!
Thấy nó giở giọng, các bà giữ riết ruột tượng, túi tiền, thức hàng.
- Để bận sau, đi mà xin chỗ khác.
Nó nhăn bộ răng trắng như bầu ra cười láu cá.
Gớm chết! Nó cười gì? Ai biết được! Hay là nó chế các bà lần này quá khinh nó? Vì nó tham cơ hội mà xin đó thôi. Nó làm bộ, lắc túi cho các bà nghe thấy tiếng xu kêu loẻng xoẻng! Ranh con thực! Nó lại đứng yên. Nó ngắm. Hai mắt chòng chọc vào cái nồi bún riêu khói bốc lên ngùn ngụt. Vào cái nồi bánh đúc ngon lành. Vào cái rổ khoai tròn trĩnh như “Ông Ỷ”. Nó chảy nước dãi. Nó thèm. Thèm quá, vì nó đói thực.
Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng trinh, và một bát cơm nguội. Bát cơm ấy, chưa đủ sức đền vào chỗ nhịn chiều hôm qua. Nhưng thôi, làm quái gì cái vặt! Ăn không ra bữa, đã quen từ thuở bé. Nó chỉ thấy đói, chứ không thấy cồn cào. Nó ngồi sán vào cô bán bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng. Cô hàng ôm khư khư lấy mẹt vào lòng, xua lấy xua để:
- Chưa bán mở hàng đấy! Khỉ ạ!
Nó lại lê dịch sang kề nồi bún riêu:
- Lạy bà, con ăn mày bà một bát.
- Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đấy! Thôi đi! Dơ!
Nó lại mó vào củ khoai lang, tủm tỉm cười.
Bà ấy vội hất tay nó ra và mắng:
- Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!
Bà hàng lê chắc chẳng đời thuở nào nó dám động đến hàng mình, là thứ xa xỉ phẩm, đùa nói rằng:
- Một hào một quả, bỏ tiền đây, tao bán cho.
Nó cười, lắc đầu.
Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt. Nó đỡ được, bỏ vào mồm, nhai gau gáu!
Rồi nghĩ thế nào, nó đứng dậy, tay nó đếm xu trong túi, nói với bà hàng bún riêu:
- Bà bán cho cháu một bát.
- Mày có tiền không?
Nó gật đầu, mạnh bạo. Rồi đắc chí, nó lắc túi. Bà ấy múc cho nó một bát đầy. Nó ăn. Phù phù! Nóng! Suỵt soạt! Cay! Ngon quá!
Ai cũng yên bụng. Không ai để ý đến nó nữa. Họ nghênh xe đạp. Họ nhìn ô-tô. Họ pha trò. Họ cười ha hả.
Nó vẫn ăn. Ngon quá!

*

Năm phút...
Mười phút...
Bỗng chốc:
- Ối ông đội xếp ơi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi!
Bọn bán hàng nhổn nháo. Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người ngã. Hàng đổ. Bát vỡ.
- Bắt lấy nó!
Thằng ấy cắm đầu cắm cổ chạy, nhanh như mũi tên.
- Trời ơi! Nó kia kìa! Ai đuổi hộ tôi!
Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi ba bốn người! Sáu bảy người...
- Bắt lấy thằng ăn cắp!
Rồi hàng chục người. Rồi không đếm được bao nhiêu người nữa. Họ chạy huỳnh huỵch. Họ làm như bắt giặc!
Ai cũng kéo cả ra đường để nhìn theo!
Một thằng chạy. Mấy trăm người đuổi. Bụi mù!
Bà ấy chạy sau rốt! Áo lấm. Khăn xổ. Tóc rũ. Ngửa mặt lên mà kêu:
- Ối ông đội xếp ơi!
Mọi người hỏi nhau:
- Ai mất gì?
Người bảo:
- Nó cắt đứt ruột tượng của người kia.
Người bảo:
- Nó lần túi người ta! Chà thằng oe con gớm thật!
Rồi lại thêm mấy chục người nữa đuổi theo thằng ăn cắp.
- Thằng ăn cắp! Bắt lấy nó! Ối ông đội xếp ơi! Nó ăn cắp của tôi!
Kìa, ông đội xếp đến thực! Bỏ mẹ!
Ông ấy cắm cổ, gò lưng, bấm chuông liên thanh, đạp xe đuổi theo.
Nó vẫn chạy như khoàng cả hai cẳng lên vai. Chạy hăng quá!
Nhưng người đuổi chạy nhanh hơn.
Bà ấy thì lạch đạch như con vịt, kêu không ra tiếng, mỗi lúc một xa nó, xa nó đến sáu bảy mươi thước tây.
- Khổ thân tôi, trời đất ơi!
Đến ngã tư.
May quá: một ông chẳng hiểu đầu cuối ra sao, nghe tiếng kêu, đâm bổ ở trong nhà ra, túm được cổ nó. Nó cúi xuống, mồ hôi trơn, suýt trượt. Nhưng ông ấy vớ được cánh tay nó.
Nó giằng ra. Ông ấy khỏe như con vâm, quật ngay nó xuống đánh oách, ngã sấp xuống đường đá, sây sát cả người, máu mê bê bết. Ông ấy vồ được nó.
- Nó ăn cắp gì?
- Nó giật khăn!
Ức! Một cái đá vào mạng mỡ.
- Chạy nữa đi!
Hự! Một cái tống vào ngực.
Nó méo mặt không thở được! Chịu nằm yên.
Người ta chạy tới dần. Nắm chặt lấy nó. Nhưng chẳng nắm, nó cũng chẳng chạy được.
Huỵch! Huỵch! Bốp! Bốp!
- Này chừa này! Ăn cắp này!
Ai cũng phải giã cho cẩn thận, để bõ lúc chạy mửa mật bắt nó!
Nó lạy! Nó van! Nhưng ai tha? Dại gì mà tha thằng ăn cắp?
Họ càng ghét, túm lại, đánh như mưa.
- Cho đáng kiếp! Nó giật đôi khuyên vàng của người ta!
Họ lại đánh túi bụi, không tiếc tay.
- Mười ba mười bốn tuổi đầu, đã dám lần lưng, lấy của người ta năm đồng bạc, rồi lại đánh người ta!
Họ lại tức dữ. Lại cho trận nữa.
Nó đau quá. Nằm sóng soài, không nói được nữa. Hai mắt lừ đừ khốn nạn như con chó bị trói giật bốn cẳng ra đằng sau lưng.
Họ khám túi nó. Tang vật nó tẩu đi đâu rồi?
- Mày để đồ ăn cắp đâu?
- Nó có đảng!
Nó mở mắt ra nhìn. Họ lại uỵch. Họ lại thụi. Họ lại tát. Họ lại đá. Không tiếc tay! Rồi lại hô:
- Đánh chết nó đi!
Nó cũng gần chết thực.
Những mũi giầy, những gân bò, những quả đấm, những ngọn gậy, làm đau ê cả mình nó. Phen này sống cũng thành tật! Nó cựa. Nó nhăn. Nó ôm bụng.
Đám đông càng ùn lên. Xe pháo tắc tị không đi được. Ông đội xếp lôi tay nó dậy:
- A lê! Lên Cẩm!
Nó mềm như sợi bún, không dậy được.
- Nó giả vờ đấy!
Lại mấy cái móng giò. Lại mấy cái tát, để đợi người khổ chủ còn đương ì ạch chạy theo ở đàng xa.
Bà ấy mệt quá. Không lê được một bước! Không kêu được một tiếng! Cơ chừng tiếc của. Cơ chừng hết sức. Cơ chừng hết hơi. Không biết mất cái khăn, đôi khuyên, hay năm đồng bạc? Không biết bị nó đánh có đau không? Chờ bà ấy đến sẽ rõ.
- Ông... bà... giữ... lấy... nó... cho... tôi!
- Có thả nó cũng không chạy được, mau lên!
Bà ấy vẫn chạy. Bà ấy vẫn kêu. Bà ấy vẫn thở.
Thảm quá!
Vòng người đứng giãn ra. Bà ấy đến.
Hổn hển thở chẳng được:
- Phải nó đây rồi.
Bà ấy vồ lấy nó, vả lấy vả để.
Bà ấy đánh, cứ tưởng mạnh. Nó cũng không biết đau. Nó mê lên rồi.
Bà ấy kiệt sức, ôm chầm lấy nó, rồi ngã sóng soài ngay cạnh.
- Trả... tao... đây! Trả... tao... đây!
Nó không thở được. Nó nhăn.
- Nó lấy gì của bà?
- Các ông đưa... nó lên... Cẩm... hộ... tôi!
- Bà mất gì?
Bà ấy cố trả lời, nói rời rạc như người sắp tắt:
- Nó ăn... của... tôi... hai xu... bún riêu... rồi... nó quỵt... nó chạy!
17 Septembre 1932