Dịch giả: Ngọc Phương Trang
Chương 14

Sau bữa tối thanh đạm, ông linh mục ngồi một mình trên chiếc ghế băng trong nhà thờ, chờ ông thị trưởng sẽ phải đến trong vài phút nữa.
Ông linh mục đưa mắt nhìn bốn bức tường sơn loang lổ, gian thờ, nơi chưa từng mảy may có đến một tác phẩm nghệ thuật gọi là đáng giá, mà toàn thấy treo những bức phiên bản rẻ tiền vẽ các vị thánh xa xưa đã từng sống ở miền đất này. Dân chúng ở Viscos chưa bao giờ đặc biệt thể hiện lòng nhiệt tình sùng đạo – mặc dù chính nhờ tháng Savin, thị trấn mới có được sự hồi sinh của mình. Nhưng người ta đã quên điều này, trong khi đó lại hay nhớ đến Ahab hơn, đến những người Celte, đến những trò mê tín dị đoan quê mùa từ nghìn năm trước và dường như không hiểu rằng, để được cứu vớt hoàn toàn chỉ cần thừa nhận Chúa Jesus là Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại.
Vài tiếng trước đây, ông linh mục đã tình nguyện làm người tuẫn tử. Đây là một nước đi mạo hiểm, nhưng ông sẽ không lùi bước và từ chối sự hy sinh thân mình, chỉ cần nếu như mọi người không nông cạn đến thế và nếu như họ không giở thủ đoạn lộ liễu đến thế.
"Không phải vậy. Họ nông cạn, nhưng họ giở thủ đoạn không lộ liễu đến thế đâu" – ông tự phản bác chính mình. Bằng sự im lặng hay những lời nói khôn khéo, mọi người muốn buộc ông phải nói ra cái điều họ muốn nghe: lễ hiến sinh sẽ chẳng phải là vô nghĩa, sự hy sinh sẽ phụng sự cho việc cứu độ, sự suy tàn sẽ được thay thế bằng sự phồn vinh. Khi ấy ông đã vờ đồng ý để mọi người sử dụng ông, nhưng bản thân ông lại tin vào điều mình đã nói.
Phụng sự Chúa là sứ mệnh thật sự của ông và ông đã bước vào con đường này rất sớm. Năm 21 tuổi, ông đã thụ phong chức cha xứ rồi mau chóng nổi danh nhờ tài hùng biện và biết điều hành xứ đạo của mình. Ông cầu nguyện hàng đêm dài không nghỉ, chăm sóc những người ốm đau, thăm hỏi đám tù nhân, nuôi những kẻ bị đói, hành động đúng theo những lời dạy trong Thánh Kinh. Dần dần, ông trở nên nổi tiếng khắp vùng và những câu chuyện về ông đã đến tai đức giám mục, một người thông thái và chính trực.
Cùng với các linh mục trẻ tuổi khác, ông đã được mời đến ăn tối cùng đức giám mục. Trong bữa ăn, mọi người bàn luận về các đề tài khác nhau, và đến cuối bữa, đức giám mục già yếu lẩy bẩy đứng lên, khó nhọc cất từng bước đi quanh bàn đến mời nước từng người khách một. Tất cả đều không dám nhận và chỉ có ông xin rót đầy miệng ly.
Khi đó, có một người trong số khách mời nói khẽ, nhưng cũng đủ để đức giám mục nghe thấy.
Tất cả chúng ta đều không dám nhận ly nước, vì tự cho mình không xứng nhận nó từ tay đức cha thánh nhân. Chỉ có một người trong chúng takhông hiểu đức giám mục phải chịu hy sinh đến thế nào khi người đi quanh bàn với chai nước nặng thế kia.
Quay về chỗ ngồi, đức giám mục mới nói:
Các con tự cho mình là đức hạnh, không nhún mình nhận sự ban tặng của ta, và chính như thế là các con đã lấy mất đi niềm vui sướng được ban tặng của ta. Chỉ có một người đã cho phép cái thiện được thể hiện.
Và liền đó vị giám mục giao cho ông làm linh mục trông nom xứ đạo quan trọng nhất.
Hai nó bắt đầu thường xuyên gặp nhau và nhanh chóng trở nên thân thiết. Mỗi khi trong lòng tràn ngập những mối hoài nghi, linh mục trẻ tuổi đến cầu xin chỉ giáo của đức giám mục, người mà linh mục gọi là "Cha tinh thần" của mình và thường nhận được những câu trả lời cặn kẽ. Như có lần ông hoàn toàn không tin là những việc làm của mình khiến Chúa đẹp lòng, và rất buồn. Sau khi kể hết những nỗi đau khổ cho đức giám mục và hỏi xem cần phải làm gì, ông đã được nghe:
Khi Abraham tiếp nhận những người ngoại bang, Đức Chúa Trời đã vui lòng. Khi Eli không yêu thương những kẻ ngoại bang, Đức Chúa Trời cũng vui lòng. Khi David tự hào với những việc đã làm, Đức Chúa Trời lấy làm đẹp lòng. Khi viên quan thu thuế ăn năn trước bàn thờ về những việc đã làm, Đức Chúa Trời cũng lấy làm đẹp lòng.  Khi John Baptist bỏ hoang mạc, Đức Chúa Trời đã hài lòng. Khi Paul đi khắp các thành phố của đế quốc La Mã, Đức Chúa Trời cũng hài lòng. Chúng ta không biết được điều gì sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa. Hãy hành động theo lời mách bảo của con tim mình và Người sẽ vui lòng.
Ngày hôm sau, Đức Giám mục đột ngột từ trần bởi một cơn đau tim. Linh mục coi sự qua đời của người thầy tinh thần của mình như một điềm báo và bắt đầu nhất quyết làm theo lời khuyên cuối cùng của ông tức là lắng nghe tiếng nói của con tim mình. Với một số người đến cầu xin, ông phát chẩn cho, với số khác – ông khuyên nên đi làm. Đôi khi, ông làm lễ misa rất trang trọng, đôi khi – hát cùng giáo dân trong xứ...Phẩm hạnh của ông đã đến tai Đức giám mục mới và linh mục được mời đến gặp ông ta. Và ông hết sức kinh ngạc khi nhìn thấy người ngồi trên ghế đức giám mục là vị linh mục nhiều năm trước đây đã trách cứ ông về chuyện nước uống.
Cha biết nay con đang làm cha xứ ở nhà thờ của một xứ đạo lớn và quan trọng – nói xong, ông ta nhìn linh mục với vẻ giễu cợt – Và trong ngần ấy năm, con đã là người bạn thân thiết với người tiền nhiệm của cha. Chắc hẳn con đã hy vọng chiếm được cái chức phận này.
Không, con hy vọng có được sự hiểu biết.
Vậy thì con, có lẽ, đã thấu hiểu hết sự đời. Nhưng cha được nghe những lời đồn đại rất kỳ lạ, người ta nói, hình như có lúc con phát chẩn, nhưng có lúc lại từ chối giúp đỡ những người mà nhà thờ ta có trách nhiệm phải cứu giúp.
Con có hai cái túi và con vào mỗi túi một mảnh giấy, còn tiền luôn chỉ ở túi bên trái mà thôi.
Vị giám mục nổi cơn tò mò bởi những lời kể này và muốn biết xem trong những mảnh giấy ấy viết gì.
Ở mảnh giấy này, con viết "Ta – chỉ là tro bụi" và cho nó vào túi bên phải, túi không. Ở mảnh kia – "Ta – là sự hiển linh của Chúa nơi Trần thế" và cho nó vào túi bên trái, có tiền. Khi thấy một người hành khất và sự bất công, con cho tay vào túi bên trái và cứu giúp. Khi thấy vẻ lười biếng và vô tích sự, con cho tay vào túi phải và thấy rằng, con chẳng có gì để cho. Vậy là bằng cách này, con giữ được sự cân bằng giữa thế giới vật chất và tinh thần.
Vị giám mục mới cảm ơn linh mục vì cách thức thể hiện lòng nhân từ rất đặc trưng này và nói.
Ông có thể trở về xứ đạo của mình.
Ít lâu sau ông nhận được lệnh đến Viscos. Ông hiểu ngay ra cái lý do ẩn giấu sau sự thuyên chuyển này: đức giám mục đã bị thói đố kỵ xui khiến. Tuy vậy, ông linh mục đã nguyện thề phụng sự Chúa, dù có bị cử đi bất cứ đâu, và nhẫn nhục đến Viscos, cần phải đáp lại sự thách thức này một cách xứng đáng.
Một năm trôi qua, rồi hai năm...Trong suốt năm năm trời, dẫu ông đã cố gắng bằng đủ mọi cách vẫn không thể làm tăng con số tín đồ, cái di sản của quá khứ do Ahab bày đặt ra vẫn rất nặng nề ở Viscos. Không có thánh lễ nào, bài thuyết giảng nào có thể lấn át được những truyền thuyết và dị đoán được lưu truyền ở đó.
Mười năm đã trôi qua. Và đến cuối năm thứ mười, ông mới hiểu ra sai lầm của mình là ở đâu: lòng khao khát hiểu biết của ông đã bị biến thành tính kiêu ngạo. Ông đã quá tin vào sự công bằng của Chúa đến mức không biết làm cho nó cân bằng với nghệ thuật ngoại giao. Ông cho rằng, mình đang sống trong một thế giới – nơi Chúa hiện hữu ở khắp mọi nơi, nhưng hoá ra ông lại ở trong cái thế giới mà con người ta có những lúc không để cho Chúa đặt chân vào đó.
Sau mười lăm năm thì ông đã hiểu rằng mình vĩnh viễn không bao giờ thoát khỏi Viscos: đức giám mục thâm thù với ông đã là Hồng Y giáo chủ, chiếm một chức phận trọng yếu ở Vatican, thậm chí còn có cơ ngồi vào ghế Giáo Hoàng và có lẽ không bao giờ cho phép linh mục thoát khỏi cái xứ đạo tỉnh lẻ, để có cơ hội kể hết chuyện ông bị nhét vào chốn thâm sơn cùng cốc vì tính đố kỵ và ganh ghét.
Đến giờ thì ông linh mục không còn một động lực nào nữa. Vả lại có ai ở vào địa vị của ông mà có thể ngần ấy năm chống chọi lại được với sự lãnh đạm bao quanh mình? Ông đã có ý nghĩ nên chăng đến lúc rũ  bỏ chức phận của mình. Như vậy sẽ có ích hơn nhiều cho Chúa, song lại luôn trì hoãn quyết định này, với hy vọng tình thế sẽ thay đổi, nhưng lúc này thì đã quá muộn – ông đã đánh mất mọi mối liên hệ với thế giới xung quanh.
Và rồi hai mươi năm sau, có một đêm ông choàng tỉnh giấc, tuyệt vọng nhận ra rằng, cuộc đời ông hoàn toàn vô nghĩa. Ông biết mình có khả năng làm bao điều cay đắng và thực hiện được chẳng đáng là bao. Ông nhớ đến hai mảnh giấy đã mang trong túi và hiểu ra. Giờ đây ông chỉ luôn cho tay vào túi bên phải. Ông đã muốn là một nhà hiền triết, nhưng lại không là một chính khách. Đã muốn là một người công chính, song lại không là một nhà hiền triết. Đã muốn là một chính khách, tuy nhiên lại không đủ tính quyết đoán.
"Lạy Chúa! Lòng khoan dung của Người ở đâu? Sao Người nỡ đối xử với con như với Job vậy? Không lẽ mọi khả năng đã tiêu tan hay sao? Xin Người hãy ban cho con thêm một cơ hội nữa!"
Đêm hôm ấy, ông vùng dậy, cầu may mở cuốn Kinh Thánh, như mọi lần, mỗi khi cần tìm một lời giải đáp. Lần này, ông vô tình mở đúng trang tả lại việc Chúa Kitô trong buổi họp kín yêu cầu kẻ phản bội chỉ điểm cho đám lính tìm bắt Người.
Linh mục ngẫm nghĩ mãi, tại sao Chúa Jesus lại yêu cầu kẻ phản bội phạm tội?
"Vì phải thực hiện lời tiên tri" – các nhà thần học sẽ nói vậy. Nhưng điều này chưa giải thích được tại sao Chúa Jesus lại xô đẩy một người phạm tội và phải chịu sự nguyền rủa muôn đời.
Chúa Jesus không đời nào lại làm như thế. Chính Người và cả kẻ phản bội cũng hoàn toàn chỉ là vật hy sinh. Cái Ác phải hiện hình và thực hiện vai trò của mình, để cho cái Thiện giành thắng lợi cuối cùng. Nếu như không có sự phản bội, không có việc đóng đinh lên cây thập tự, thì thánh ý sẽ không thành hiện thực và tấm gương hy sinh sẽ chẳng giành cho ai.
Ngày hôm sau, người khách lạ xuất hiện ở Viscos – chuyện thường ngày. Linh mục không để tâm đến điều này và cũng không hề gắn nó với lời cầu nguyện của mình, cũng như với các đoạn ông đã đọc trong sách Phúc Âm. Khi nghe câu chuyện về những người làm mẫu để Leonardo da Vinci vẽ những nhân vật của Buổi họp kín, ông nhớ đã đọc một chuyện tương tự như thế trong Kinh Thánh nhưng chiều tối hôm đó, ông nghĩ đó hoàn toàn chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên
Và chỉ sau khi Prym thông báo về vụ thách đố giữa cô với người khách lạ, thì linh mục mới hiểu rằng lời cầu nguyện của ông đã được nghe thấu. Cái Ác phải hiện hình và được thực thi, để rốt cuộc cái Thiện có thể làm xúc động con tim dân chúng vùng này. Lần đầu tiên trong suốt toàn bộ thời gian ông làm linh mục ở Viscos, nhà thờ chật cứng. Lần đầu tiên, các nhân vật quan trọng nhất của thị trấn họp lại với nhau trong phòng áo lễ.
"Cái Ác phải hiện hình và được thực thi, để mọi người hiểu được giá trị của cái Thiện". Với những con người ở đây cũng sẽ xảy ra cái việc đã xảy ra với kẻ môn đồ phản bội. Cái kẻ mà sau khi thực hiện hành động của mình mới hiểu hắn đã làm gì. Họ sẽ hổ thẹn và hối hận ghê gớm tới mức Thánh đường sẽ trở thành nơi nương náu duy nhất với họ. Và Viscos cuối cùng cũng  biến thành nơi của những con chiên ngoan đạo.
Còn ông, vị cha xứ vùng này, sẽ trở thành công cụ của cái Ác, ông sẽ nhận về mình cái vai trò này. Liệu còn cách nào có thể chứng tỏ đầy đủ hơn và sâu sắc hơn cho Chúa thấy sự ẩn nhẫn của mình hay không?
Ông thị trưởng đã đến theo đúng hẹn.
Thưa cha, hãy nói xem tôi phải làm gì?
Tự tôi sẽ tiến hành việc tập họp – câu trả lời rành rọt vang lên.
Ông thị trưởng thấy không ổn. Ở thị trấn này ông là người nắm quyền hành tối cao và ông hoàn toàn không muốn để người ngoài công khai trước dân chúng can thiệp vào một vấn đề quan trọng như thế. Mà linh mục dẫu đã sống ở Viscos hơn hai mươi năm vẫn không phải là người gốc gác ở đây, không hiểu hết mọi truyền thuyết và những điều mê tín của vùng này. Trong huyết quản của ông ta, không có dòng máu của Ahab.
Tôi cho rằng, trong các tình huống hết sức nghiêm trọng, việc kêu gọi dân chúng dù sao cũng vẫn phải thuộc về tôi – ông thị trưởng nói.
Thôi được, vậy cứ theo ý ông. Như thế thậm chí còn tốt hơn bởi nếu có xảy ra chuyện không hay, Nhà thờ sẽ vô can. Tôi sẽ thông báo cho ông kế hoạch của mình, còn ông cứ việc mà nhận lấy về mình cái nghĩa vụ công bố nó.
Tuy nhiên, nghĩ đi nghĩ lại tôi mới hiểu, nếu kế hoạch đã là của cha thì sẽ chính đáng hơn và chí lý chí tình hơn nếu để cha trình bày về nó.
"Vẫn là sự sợ hãi muôn thuở" – linh mục nghĩ – "Muốn kiếm người phục tùng mình, hãy bắt hắn phải nếm mùi sợ hãi!"