Dịch giả: Phạm Bích Liễu, Vũ Thu Hà
Chương 73
Lễ tang của tử tước Sainte-Hermine

Bây giờ chúng ta đã biết điền sản của tử tước Sainte-Hermine đã sinh sôi, phát triển như thế nào trên Đất Trầu, chúng ta có thể quay trở lại với câu chuyện hiện tại.
Có lẽ tôi không cần giải thích với các bạn độc giả tác động đến hai cô gái trẻ người Pháp, ngài James Asplay và René về một gia đình phục quyền đã thay đổi những phong tục của người A Rập từ thời Kinh thánh hồi đầu thế kỷ XX như thế nào.
Thánh Abraham có lẽ cũng không sùng đạo hơn Rémi, Rébécca có lẽ cũng không đẹp hơn Adda, thánh David và Jonathan có lẽ cũng không tự hào hơn Bernard và Jules, cuối cùng Samson, người xé con hổ bằng cách cầm hai hàm của nó e cũng không gan dạ và dũng cảm hơn Justin.
Khi hai cô gái trở lại phòng mình, hai chàng trai trẻ về phòng của họ, tất cả đều ngạc nhiên trước những gì họ thấy và đều nghiêng mình trước sự vĩ đại khiêm nhường ấy.
Ngày hôm sau, khi Adda đến hỏi hai cô ngủ có thoải mái không và liệu họ có cho phép cha cô đến gặp hai cô chủ trẻ không thì các cô đều trả lời đồng ý. Ông già bước những bước chậm rãi, chắc chắn vào phòng hai cô, tay cầm một cuốn sổ nhỏ để báo cáo.
- Thưa hai tiểu thư, - ông nói - Việc đầu tiên phải làm giữa chủ nợ và người nợ sau hai mươi năm không gặp, đó là người nợ đến nộp tiền nợ của mình.
Hai cô gái ngạc nhiên nhìn nhau.
- Cha chúng tôi chưa bao giờ nhắc đến chuyện này - Hélène nói - Nếu có thì bác là chủ nợ chứ không phải cha tôi, trong trường hợp ấy, việc chúng tôi phải làm là bán chỗ ở này và chia đôi với bác.
Ông Rémi bật cười.
- Tôi không thể chấp nhận điều kiện như thế thưa tiểu thư, như thế là bán sự phục vụ thấp kém của tôi cho ông chủ với giá cắt cổ rồi. Không, thưa tiểu thư, nếu các cô không mệt, hãy đi cùng tôi để tận mắt nhìn chỗ của cải của mình. Nếu các cô cho là sự hiện diện của hai người kia cần thiết tôi sẽ rất vui lòng báo cáo trước càng đông nhân chứng càng tốt.
Hai chị em nhìn nhau và đồng ý là chuyện này chỉ nên biết giữa họ.
- Chúng tôi sẽ đi một mình. - Hélène đáp - Xin bác hãy dẫn đường.
Ông già tiến lên trước họ vài bước, mở một cánh cửa nhỏ và ra hiệu cho hai cô gái bước vào. Đây là căn phòng nhỏ duy nhất trong nhà được xây bằng đá có thanh chấn sỏng bằng sắt ngoài của sổ. Đồ đạc bên trong chỉ có hai chiếc thùng sắt, một cái cao một bộ, một cái cao ba bộ, mỗi thùng được gắn vào tường bằng hai cái xích sắt bao bằng đầu người dựa trên hai thanh sắt gắn vào tường bằng hai vòng tròn sắt.
Ông già rút chìa mở một khoá cho phép mở nắp thùng. Chiếc nắp mở ra trước con mắt kinh ngạc của Hélène và cô em gái với một lượng vô số những thoi vàng nhỏ bằng ngón tay út. Hai chị em ôm nhau vừa nhìn nhau ngạc nhiên.
- Thưa các cô ông già nói - Trong thùng này phải có hơn một triệu.
Hai cô gái rùng mình.
- Nhưng chúng là của ai? Không thể là của chúng tôi được - Hélène nói.
- Tuy nhiên đây hoàn toàn là sự thật - ông già đáp - Gần hai mươi năm qua tôi đã điều hành số tài sản này cho nó sinh lời, đến 50 hay 55 nghìn phăng thì tôi không đếm nữa, lẽ ra phải cân đong đo đếm cẩn thận nhưng trừ những chi phí ăn ở chắc phải còn gần 900 nghìn phăng.
Hai cô thiếu nữ lại nhìn nhau.
Ông già rút chìa thứ hai trong túi mở một chiếc thùng nhỏ hơn được cất giữ không kém phần chắc chắn so với chiếc thùng trước. Chiếc thùng này đựng một nửa đầy đá rubi, hồng ngọc, saphia, ngọc bích, vàng thoi, đá quý, những thứ dùng làm tiền tệ ở Miến Điện. Ông già thọc tay đến đáy hòm rồi thò xuống một dòng vàng bạc sáng lấp loá.
- Đây là cái gì? - Hélène hỏi - Bác tìm thấy kho báu của Haroun Al-Rachid à?
- Không - ông già đáp - Nhưng tôi nghĩ rằng vàng có giá trị khắp nơi chỉ dựa vào trọng lượng của nó trong khi số đá quý này dù thế nào cũng đắt gấp đôi nếu bán ở Pháp. Ở đây, chỗ này giá gần 300 nghìn phăng.
- Bác định đưa chuyện này đến đâu? - Hélène mỉm cười hỏi.
- Tôi muốn thông báo cho các cô chủ yêu mến của mình rằng không những mảnh đất này, những con người này, súc vật, mùa màng thuộc về các cô mà ngay cả số vàng và đá quý này cũng thuộc về các cô.
- Người bạn tốt của tôi - Hélène nói - Tôi có nghe nói đến thoả thuận giữa bác và cha tôi: "Rémi vì anh muốn ở lại đây, tôi sẽ để anh ở lại, hãy xây dựng một nơi chốn để giữ liên lạc giữa điều kiện ít ỏi tôi có thể để cho anh, chừng nào tôi hay ai đó trong gia đình trở lại đây, anh sẽ chia đôi anh và tôi". Tôi thật bất hạnh là người thừa kế đến nhân danh cha để đòi phần chia ấy với bác, bác Rémi yêu quý ạ: một nửa của tất cả những gì của bác sẽ là của tôi và em Jane nhưng nửa kia sẽ phải là của bác.
Những giọt nước mắt lăn dài trên má ông già.
- Không! - ông nói - Không, có thể ý ông chủ không nói như thế hoặc khi nói như thế với tôi, ông không nghĩ mảnh đất này lại thịnh vượng như vậy. Hãy nghĩ chúng tôi chỉ là những trang phục nghèo khó, quá sung sướng khi được các cô giữ lại tiếp tục cho kiếp sống và phục vụ mọi người nếu các cô đảm bảo cho con cháu tôi cũng được như cha ông chúng.
Hélène nhìn thẳng vào ông Rémi bằng ánh mắt nghiêm nghị.
- Bác Rémi, bác quên là mình đã quá rộng rãi với chúng tôi và tỏ ra bất công với con của mình hay sao. Các con bác đã làm việc như bác, thành quả chưa lâu bằng bác nhưng đã làm hết sức vì số tài sản chung của chúng ta, như vậy tôi phải là người chịu trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn quyền của họ chứ!
Ông Rémi định nài nỉ nữa nhưng lúc đó đã có báo hiệu đến giờ ăn trưa, đó là ba tiếng kẻng Trung Quốc thông báo bàn ăn đã dọn sẵn.
Hélène đưa Jane ra trước rồi khoác tay ông Rémi. Ông Rémi khoá cửa lại và cả ba đi xuống.
Chưa bao giờ bàn ăn của bậc vua chúa cũng được thịnh soạn hơn thế: nào là những con công Ấn Độ, những con gà lôi vàng Trung Quốc hay những con gà Miến Điện bày la liệt trên bàn. Về món tráng miệng, mọi loại quả ngon nhất đều có: Xoài, ổi, chuối ngự, dứa, sầu riêng, mít. Đồ uống thì không có gì khác ngoài vang đỏ và rượu bưởi. Những thức uống này được chôn rất sâu trong lòng đất nên tươi và mát như đồ uống có đá vậy.
Vì trong khu dân cư không có vườn cây ăn quả nên tối hôm trước ba anh em đã đi hái quả ven vùng đất hoang. Justin đi ngược dòng sông đến hai dặm để tìm vải, thứ chỉ mọc ở ven sông và nhận ra trong rừng rậm bên bờ dòng Sittang có dấu vết của nhiều hổ.
Tin tức này làm năm chàng trai hưng phấn lên, họ quyết định vài ngày tới sẽ tổ chức một cuộc đi săn cùng với để các cô gái cũng có thể đi cùng các thợ săn.
Chính Jane là người đưa ra đề xuất ấy và được đa số ủng hộ. Chỉ duy Hélène nhìn em buồn bã lầm bẩm:
- Tội nghiệp em gái.
Thật ra Jane đâu có bạo gan đến thế, nhưng không có gì đáng sợ hơn là để René đi một mình trong chuyến săn khủng khiếp ấy giữa những rình rập đáng sợ ba bốn ngày không gặp anh.
René cố gắng thuyết phục cô những anh chỉ làm cô gái thêm buồn mà không thay đổi được. Thế là Hélène quyết định rời cuộc đi săn ấy vào một thời điểm khác. Mọi người đang từng ngày chờ thi thể của tử tước và tang lễ phải được cờ hành trước khi người nào nghĩ đến chuyện vui chơi.
Khi rời bàn, Hélène gọi ngài James và René đến, kể cho họ nghe chuyện gì vừa xảy ra giữa họ và ông già và mặc dù ông già nài nỉ nhưng cô vẫn yêu cầu điều kiện giữa ông và cha cô phải được thực hiện ra sao. Cả hai cùng đồng tình với quyết định của cô gái trẻ.
- Như vậy - Hélène tươi cười nói - bây giờ nhân lúc em tôi không nghe được chúng ta nói gì, vậy là Jane cũng trở thành người thừa kế thì dù ở nơi vắng vẻ này cô ấy cũng không khó tìm được một đấng phu quân.
- Nhưng cô ấy cũng cần thận trọng như nàng, Hélène yêu quý của tôi. - James nói - và nên dẫn cho cô ấy một anh chàng người châu Âu.
Những con mắt đổ dồn về René nhưng chàng trai trẻ không lay động, chỉ một nụ cười buồn thoáng hiện trên môi.
Đúng lúc đó, sự chú ý của họ bị cuốn đi bởi một công việc do ba anh em con ông Rémi thực hiện: Dưới bóng một cây bao báp tuyệt đẹp, họ đào một chiếc bể với ý định sẽ dẫn nước từ sông vào. Dòng nước cuộn lại trong bể sâu sẽ làm thành một phòng tắm tuyệt vời cho các cô gái. Họ chỉ cần đi ra khỏi nhà một trăm bước là có thể đến bồn tắm. Vậy là mọi công việc của gia đình đều vì mục đích tốt đẹp cho những vị khách của họ.
Lúc trở lại ngôi nhà, ba chàng trai bắt gặp Jane đang ngồi bên bậc cửa mắt lơ đãng nhìn Adda chải lông cho hai con ngựa nòi Miến Điện. Chúng được dành cho Hélène và Jane đi dạo.
Ở Pégou có hai giống ngựa rất khác nhau. Ngựa ở miền hạ lưu Pégou, sinh ra trong miền đất ngập nước và sình lầy trải dài từ Arakan đến tận Tenassenm. Chừng nào người ta còn ở miền châu thổ này chừng đó người ta chỉ thấy những con ngựa nhỏ thô kệch và yếu nhưng khi lên miền đất khô Henzad, người ta sẽ thấy nòi ngựa nhỏ nhưng dáng đẹp và dai sức.
Vả lại ở Miến Điện, ngựa là phương tiện di chuyển của các bậc chức cao vọng trọng, xe có lọng che là loại dùng cho quãng đường ngắn do trâu hoặc bò kéo. Do đó, ngựa trở thành thứ đồ xa xỉ ở khu dân này có năm hay sáu con ngựa thuộc nòi này nhưng chỉ những chàng trai và Adda con ông Rémi mới trèo lên chúng, không người nào khác được phép sử dụng hay nói đúng hơn là không ai dám trèo lên chúng.
Adda như có trong mình một dòng máu hoang dã không hề nghĩ đến chuyện thắng yên như các cô gái châu Âu, cô trèo lên lưng ngựa như cách của đàn ông, chiếc váy của cô bó và xẻ ra hai bên, cô còn mặc một chiếc quần chẽn dài đến mắt cá chân. Cơ thể mềm mại không mặc áo lót ngả người theo cử động của con ngựa mái tóc cô lượn theo gió, nhìn cô như gợi lại những người phụ nữ Tét xa ly của Hy Lạp mà Phèdre đã nói tới.
Hai chị em Hélène thừa nhận vẻ duyên dáng của cô gái chủ nhà song họ không bao giờ lên ngựa theo cách đó.
Adda cho rằng chuyện ấy không ngại, chỉ cần René hay James vẽ bộ yên kiểu Pháp là anh trai làm thợ sắt của cô sẽ chế tạo được ngay.
Nhưng khi ấy người ra nhìn thấy một đoàn người bao gồm một con voi, bốn con ngựa và hơn chục người đi ra khỏi rừng. Con voi phủ một tấm vải đen.
Nghe tin ấy và nhất là khi trèo lên chòi gác cao hơn mái nhà, hai cô gái không nghi ngờ gì nữa, đó chính là thi thể của cha họ đã đến.
Người ta khua chiêng để tập hợp mọi người rồi mở cổng chờ đoàn đưa linh cữu ấy. Khi con voi mang cỗ quan vào trong sân, hai chị em Hélène quỳ gối xuống và tất cả đều làm theo.
Vị Shabunder ở Pégou vốn muốn lo mọi việc mai táng đã nảy ra ý định gửi hai cha cố đi nhờ theo đoàn người này qua miền đất rừng hiểm nguy đầy thú dữ. Đổi lại hai cha cố sẽ đọc lời cầu nguyện trên linh cữu của tử tước Sainte-Hermine.
Cỗ quan tài được chuyển đến tiểu giáo đường. Vì không có nến, những đoạn gỗ nhựa đã cháy suốt hai mươi bốn tiếng cho thật giống nơi quàn quan tài. Rồi những bài kinh cầu siêu cho người chết vang lên long trọng nhất. Cuối cùng, thi thể của tử tước được đặt trong hầm mộ gần thi thể của Ève.
Trong suốt vài ngày, toàn bộ trang trại đều đau buồn do nhớ lại những kỷ niệm về cái chết bất ngờ và tàn khốc ấy. Cũng trong suốt vài ngày ấy, Jane có thể khóc thoải mái mà không ai hỏi cô lý do tại sao.
Ngày hôm sau nữa, hai vị linh mục tiếp tục con đường của họ sang Trung Quốc.

Truyện Hiệp Sĩ Sainte Hermine Giới thiệu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chương 62 Chương 63 Chương 64 Chương 65 Chương 66 Chương 67 Chương 68 Chương 69 Chương 70 Chương 71 Chương 72 Chương 73 Chương 74 Chương 75 Chương 76 Chương 77 Chương 78 Chương 79 Chương 80 Chương 81 Chương 82 Chương 83 Chương 84 Chương 85 Chương 86 Chương 87 Chương 88 Chương 89 Chương 90 Chương 91 Chương 92 Chương 93 Chương 94 Chương 95 Chương 96 Chương 97 Chương 98 Chương 99 Chương 100 Chương 101 Chương 102 Chương 103 Chương 104 Chương 105 Chương 106 Chương 107 Chương 108 Chương 109 Chương 110 Chương 111 Chương 112 Chương 113 Chương 114 Chương 115 Chương 116 Chương 117 Chương 118 Phần II - Claude Schopp Chương 119 Chương 1 Chương 2 Chương Kết