Kính tặng các chiến sĩ biệt động đặc khu Sài Gòn
PHẦN MỘT

     ấy bữa nay xuất hiện ở trước chợ Vườn Chuối một người đàn ông bán thuốc nam. Nhìn vẻ ngoài anh ta chẳng có gì đáng chú ý. Tuổi anh ta, vì nước da mai mái nên thật khó đoán. Tóc anh ta để dài, rồi xoăn, người tầm thước. Hai con mắt nhìn vừa hiền lành, vừa rụt rè như tất cả những người dân cao nguyên một năm đôi bận xuống thành phố mua bán. Nếu có gì khác chăng, thì là việc các môn thuốc của anh ta thường được nhiều người mua, nhiều người tới ngó nghiêng.
- Cái nhà anh này làm ăn coi bộ thiệt thà.
- Dùng thuốc của anh trị bịnh cho con nít thì khỏi liền.
- Tiền nong ông cũng lấy chừng mực lắm, không mắc như mấy người khác đâu.
Bà con đi chợ thường nói về anh như vậy. Có người khen ngay trước mặt, anh chỉ cười. Cái cười ngượng nghịu như chỉ quen với núi đồi hoang vắng mà không quên phô bày tình cảm ở trước phố chợ đông người, để lộ hàm răng xỉn màu ngồ ngộ như cái cười của đứa trẻ sún răng.
 Dáng ngồi làm lũi của anh thật tương phản với cảnh chợ nhức mắt những sắc màu, những ồn ào chát chúa của hàng rẫy quán tiệm, của những tốp lính người Việt, người ngoại quốc xộc vào, xộc ra, nghiêng ngả và của tất cả những âm thanh hỗn tạp, kì quái vốn có của một cái chợ tràn ngập hàng hóa. Màu áo chàm của anh càng tương phản với tòa cư xá Mỹ cao vòi vọi ở gốc phố bên kia đường. Vào những lúc xế chiều, cái dáng nhỏ nhoi hơi khập khiễng của anh bị bóng rợp tòa nhà làm bạc đi xiêu vẹo. Anh ngước nhìn lên một chút, mặt hơi nhăn lại như bị ngộp thở rồi lại cúi xuống chậm rãi cất từng bước một.
 Người bán thuốc đi tìm chỗ nghỉ đêm.
 Vào những lúc ấy, nếu anh bớt rụt rè đi một chút hoặc giả có ai đó đột nhiên gọi lại đưa nốt số tiền mà anh quên chưa lấy, có lẽ anh sẽ bắt gặp một đôi mắt từ xa đang dọi thẳng vào gáy mình. Dưới đôi mắt ấy là cái miệng mím chặt và phía trên vàng trán vuông căng ra, kéo đôi mắt xếch lên.
 Chỗ nghỉ đêm của anh thường phụ thuộc vào tiết trời mưa hay tạnh. Mưa thì ngồi bó gối thu lu trên sạp hàng, tạnh lại nằm cong queo dưới bất cứ một mái hàng hiên nào. Gặp bữa kiếm được khá tiền, anh thường ghé vào cái quán trọ lợp mái tôn, tường ghép bằng vỏ đồ hộp gần bùng binh. Cũng có đêm trời trở lạnh, những người lính quân cảnh hoặc cảnh sát dã chiến đô thành đôi lúc gặp anh đi thơ thẩn nơi này nơi nọ cũng như tất cả những đứa con bụi bặm của đêm không có mái lá che thân. Tóm lại chẳng có gì đáng lưu tâm.
 Riêng đêm nay anh lại nghỉ ngơi trong một ngôi nhà nhỏ dưới chân cầu xa lộ. Đang trên đường đến bến xe với ý định nghỉ tạm qua đêm để sáng mai xuôi về Thủ Đức bán nốt số thuốc còn lại thì bà má từ trong ngôi nhà đó hớt hải chạy ra nằn nì mời anh vào nhà chữa bệnh cho thằng cháu chưa đầy hai tuổi.
 Thằng bé ba hôm nay sốt cao, lên cơn co giật, người ta mách ở Tân Bình có ông lang zếch chữa các bệnh trẻ con hay lắm. Chưa chạy đủ tiền đưa con đi nhà thương, nghe vậy mừng quá, chị tất tả định đi luôn. Bà mẹ lắc đầu: “Tối rồi. Đường đất bây giờ hỗn độn lắm. Đàn bà con gái một thân một mình đi không có được đâu. Để mẹ chạy ra chợ xem ông thầy thuốc nam còn đó thì rước về”. Nghe má nói phải nhưng nóng ruột, chị không chờ được. Vả lại, ông thầy thuốc nam đó mới nghe nói mát tay chứ thực hư đã biết thế nào.
 Còn lâu mới tới giờ giới nghiêm mà đường phố đã vắng người qua lại. Thời buối nhá nhem này, không ai dại gì ra đường buổi tối. Không gặp phải mấy người cảnh sát, quân cảnh giữ lại hạch xách cũng đụng bọn du thủ du thực làm rầy. Đó là chưa nói đến chuyện mấy cha lính Mỹ nhậu say rồi không cón đếm xỉa gì đến phép tắc giao tiếp với người bản xứ nữa. Tốt nhất là cứ kín cửa cái then, không hay không biết gì cả.
 Chị đi như chạy. Những cơn co giật của đứa con làm ríu chân người mẹ. Chị đi mà không cần biết cái gì đã xảy đến với mình. Tuy nhiên tới đầu một cái hẻm tối hun hút, bước chân chị hơi chựng lại: hẻm Đầu Bò! Cái tên này bao lâu nay thường gây lo âu cho những người qua đường. Người ta nói những dân dao búa tối nào cũng tụ bạ ở đây ăn uống nhậu nhẹt sau một ngày tỏa ra làm ăn trên khắp các ngõ ngách trong thành phố. Và cũng tụ bạ luôn cả những cô gái làng chơi. Hình như cứ ở đâu có du đãng là ở đó có cái loại gái này. Nó tồn tại như bóng với hình, nương tựa, bổ sung cho nhau. Người non gan, ban ngày đi qua đây còn thấy rờn rợn chứ đừng nói ban đêm. Ngay cả cảnh sát an ninh nhiều khi cũng kiếm cớ lảng tránh hoặc phóng xe ào qua cho xong chuyện. Dính với đám này lằng nhằng lắm. Đã từ lâu, hẻm Đầu Bò tồn tại như một vương quốc riêng, ngoài vòng pháp luật.
 Tất cả những điều tồn tại ấy chị đều biết nhưng bộ mặt tái xám của đứa con không cho phép chị phung phí thêm một phút giây nào nữa. Chị đi qua những căn nhà tối tù mù, bước trên những khối gạch, đá, xi măng xù xì, hốc hoắm. Một bóng đàn ông từ trong bóng tối tiến ra:
 - Đi đâu đó? Lại đây cô em!
 Không thèm trả lời, chị vẫn bước, để mặc cái bóng đàn ông ấy chưng hửng giữa đường. Chị đang đi gần tới một cửa tiệm mờ khói thuốc, có ba người đàn ông ngoảnh mặt nhìn đăm đăm ra cửa. Có lẽ họ ngồi đây đã lâu và bây giờ không còn gì để nói với nhau nữa nên âm thầm đốt thuốc. Chai lọ, chén bát nằm ngả ngốn đầy bàn. Người ngồi giữa nhỏ con, chìm trong bóng tối, đầu chùn xuống vai như ông già, chỉ riêng đôi mắt là ánh lên cái vẻ ranh mãnh, lì lợm. Đôi mắt ấy vấp phải người đàn bà và nheo lại.
 - ủa con nhỏ nào kia?
 - Lạ hoắc! - Người ngồi bên trái mặc áo lính Mỹ rộng thùng hơi nhao đầu ra cửa, trả lời. Không phải bọn con gái tao bao ở đây.
 - Chắc vậy không? Con nhỏ này trông được quá!
 - Dạ chắc! Tôi nhớ kỹ mặt từng đứa mà anh Hai.
 - Kỳ hè. Gọi lại đây coi.
 Người thứ ba trung tuổi, thân thể to cao, đen đúa đứng dậy. Tầm lưng đồ sộ của anh ta che lấp cả khuôn cửa sáng đèn, phủ chụp luôn lên cái dáng mảnh khảnh của chị vừa sững lại.
 - Cô kia đi đâu?
 Nhìn lên một chút, không trả lời, chị tránh qua một bên định bước tiếp.
 Cái bóng cao to chặn lại.
 - Phép ở đây đã hỏi là phải trả lời. Đi đâu?
 - Tôi đi mua thuốc cho con - Chị cau mày.
 - Vậy chớ! Sao đi lối này?
 - Đường phố là của chung mọi người. Tôi đi lối nào tùy tôi, ông tránh ra.
 - Ai cha! Nói năng nghe cứng cỏi gớm hà. Thế cô có biết chỗ này là chỗ nào không?
 - Biết! Nhưng có can hệ gì đến tôi? Tôi đi mua thuốc cho con tôi.
 - Thế cô có biết người ngồi trong kia là ai không? - ông ta chỉ vào người ngỗi giữa có cặp mắt ranh mãnh.
 Chị thoáng lạnh người. Chả nhẽ đó lại là Hai Băng Giá? Tay du đãng có tính tình lạnh lẽo mà cả Sài Gòn biết tiếng? Gầy guộc... nhỏ con... u uẩn... Đúng hắn thật rồi. Hắn đang ngồi đó với cái đầu không lay động, đôi vai so lên và đôi mắt nhìn chị mới sắc lẻm làm sao. Còn chị, lúc này toàn thân chị đã lộ ra dưới ánh đèn ống xanh lét, trong bà ba đen bình dị mà đã lâu lắm rồi các cô gái Sài Gòn không quen dùng. Chị chưa đầy ba mươi tuổi, nước da trắng xanh, đôi mắt đã sớm có cái nét buồn buồn, ẩn ức của những người đàn bà ít gặp may trong cuộc đời, song lại khiến cho khuôn mặt của chị toát lên vẻ đoan trang, nhân hậu cũng hiếm gặp ở cái thời buổi đàn bà con gái cứ thích đi diễu ngoài đường với son phấn trét đày mặt mày. Đôi mắt rất đẹp ấy rọi thẳng vào khuôn mặt xương xương của hắn.
 - Biết.
 - Biết là biết thế nào?
 - Một người đàn ông nhiều tai tiếng.
 - Cái gì?
 - Ông đừng quát lên như thể. Để tôi đi! Con tôi đang đau nằm nhà.
 Tên cao lớn giật mình nhìn sang người ngồi giữa. Người này vẫn không nhúc nhích, riêng đôi mắt thì mở to nhìn chăm chú vào người đàn bà pha một chút ngỡ ngàng.
 Chị hất phăng mấy ngón tay nhờn nhờn của gã vừa mơn man lên cầm mình, lặng đi. Một cái gì uất nghẹn lên ngực. Khi bàn tay đó định ngó nguậy vào cằm chị một lần nữa, chị né mặt sang bên rồi tiến tới trước mặt Hai Băng Giá, nhìn thẳng vào tròng mát sâu hút của hắn.
 - Tôi đã nghe nói nhiều về ông nhưng tôi nghĩ ông khá hơn kia, không đến nỗi trắng trợn như thế này. Giữa đêm hôm khuya khoắt, tôi là đàn bà thân cô, thế cô, các ông muốn làm gì chẳng được. Thật yêng hùng! Nhưng các ông không được đụng đến phẩm giá của tôi. Mấy ông đừng tưởng đàn bà con gái chúng tôi ai cũng lòng dạ như các ông cả. Cuộc sống này khiến cho các ông không còn biết phân biệt ngay gian, phải quấy gì hết - Giọng chị trở nên giễu cợt - Nói vậy thôi chứ mấy ông làm chi có phẩm giá mà hiểu được phẩm giá của người khác. Đây! Tôi đã vào rồi đây. Mấy ông định giở trò gì thì giở đi.
 Không khí trong phòng lắng lại. Hai Băng Giá vẫn đăm đăm nhìn chị như nhìn một cái gì lạ lẫm. Tiếng chị lại vang lên, có chiều khẽ khàng hơn.
 - Có thể các ông không có vợ con, các ông không hiểu. Nó đang... Tôi cần mang thuốc về ngay cho cháu. Nếu các ông thử có một đứa con...
 Con mắt Hai Băng Giá hơi xẫm lại, khiến cho khuôn mặt càng thêm u tối. Người mặc áo lính hắng giọng cười nhạt:
 - Đây không phải rạp hát mà diễn tích tuồng cải lương nghe cô. Cô đáo để vừa vừa thôi, ờ, có thể cô là con gái nhà lành thứ thiệt, nhưng đã lỡ đưa chân vô đây là coi như rồi. Không lấm đầu cũng lấm chân. Luật mà. Luật sinh tồn của tụi tôi đó cô Hai. Cô Hai giáng cảm phiền nghen! Lâu lâu mới được nghe một giọng nói ngang ngang, một vẻ người sạch sẽ thế này, cô Hai chớ làm tới để bọn tôi phải lặng tay, tội nghiệp!
 - Không!... Các ông để tôi đi - Tiếng nói của chị đã chớm có cái vẻ chờn chợn và chị ngoắt mình đi ra đường.
 - Ý! Đâu có được! - Gã cao lớn vội đưa tay chặn lại. Gã nhìn hau háu vào ngực chị.
 Trong thoáng chốc, chị cảm thấy như nút áo mình bị bật tung ra. Chị co người lại và lóng ngóng đưa tay che ngực. Không! Chính cái câu nói của gã mới làm chị nổi gai lên.
 - Sẽ có người đi mua thuốc cho thằng nhỏ con cô. Bây giờ cô cứ bình tâm ở lại đây. Cần thiết, thằng nhỏ sẽ được chở đi bệnh viện hoặc gọi bác sĩ riêng tới nhà. Cô ngồi xuống đây. Nhậu! Nhậu lai rai. Nhắp chút cũng được. Đừng ngại chi hết. Tối nay ông Hai có nỗi buồn, cô có thể giúp cho ông vui lên được đó. Chỉ một đêm thôi, sớm mai cô sẽ thấy con người mình khác hẳn đi, thèm khát yêu, thèm khát sống hơn, và cô lại có mặt bên thằng nhỏ với đầy đủ thuốc men, tiền bạc trong tay. Tuyệt! Ráng chiều lòng ông, cô sẽ có lợi.
 Trông dáng dấp cô, chác cũng không khá giả gì, người nghèo ta giúp lẫn nhau. Nào ngồi xuống đi! Ngoan đi!
 Chị vẫn đứng im, mắt nhìn xuống, bàn tay xanh xao bấu chặt vào cạnh bàn. Tư thế ấy khiến gã đàn ông to con không thể không đặt bàn tay gân guốc vào eo ếch chị với ý định kéo sát vào mình. Mắt gã mờ đi... Bỗng gã ngật mặt, lặng người lùi trở lại. Chính những ngón tay nhỏ nhắn kia đã văng vào giữa mặt hắn một cái tát rất gọn. Rất đỗi kinh ngạc, gã trẹo miệng không ra mếu, không ra cười rồi với một cái khịt mũi trơ trẽn, gã lại nghêu ngoao vươn tay tới nữa. Rõ ràng cuộc đời gã đã không ít lần bị sưng mặt như thế này. Lúc ấy, mặc dù trên tay chị, chai rượu rỗng đã được đặt trước ngực để sẵn sàng vung lên tự vệ nhưng những người xung quanh vẫn không khỏi thầm lo cho cái thân hình nhỏ nhắn của chị khó mà thoát được sự nghiến ngấu bởi cánh tay đồ sộ của gã đàn ông đang cay đòn. Gã lại khịt mũi cái nữa to hơn, phả cả mùi rượu lẫn mùi hành tỏi vào mặt chị... Đúng lúc chị cầm lấy cái chai định vung lên thì Hai Băng Giá lặng lẽ đứng dậy.
 - Thôi đủ rồi!
 Nghe tiếng nói ấy, gã khổng lồ sững lại rồi len lét đi về chỗ. Chị hơi giật mình: đến lúc này chị mới nhận ra người này còn quá trẻ, chỉ trạc tuổi chị hoặc hơn một chút. Chân tay mảnh dẻ như một thần ký. Khi anh đứng dậy, tất cả vẻ ủ dột, già nua gần như truội xuống nằm ở chỗ cũ, cái còn lại là một khuôn mặt cân đối, thư sinh, thậm chí khá đẹp nếu không tiều tụy, u sầu quá, giống khuôn mặt của người đau bao tử kinh niên.
 Anh ta khẽ hất cằm. Hai gã đàn ông ngoan ngoãn đi ra không nói một lời nào. Riêng gã đàn ông cao lớn còn quay lại nhìn chị trong một cái cười hiểm ác “Nhẹ không ưa. Nào! Bây giờ đối mặt với ổng mi còn đáo để được nữa thôi”. Anh ta lại hất cầm cái nữa. Đám người tò mò lố nhố đứng bên ngoài cũng vội vã tản ra.
 Trong phòng chỉ còn một mình chị với con người ghê gớm ấy. Ngõ vắng lại trở về sự vật vờ bình thường như mọi tối khác, ông trùm trẻ tuổi vẫn nheo nheo mắt nhìn chị không nói. Trước cái nhìn của con đười ươi ngắm nghía con mồi để chuẩn bị xé xác ấy, chị bất giác thấy lạnh buốt chân tay và toan tìm đường tháo chạy. Nhưng phía sau, cánh cửa sắt đã đóng lại từ lúc nào. Chị lùi lại, dựa lưng vào tường chờ đợi...
 Người ấy chỉ tiến thêm lên về phía chị một bước rồi dừng lại. Thế rồi, không có một chút xao động trên nét mặt tưởng như cả đời phiền muộn, anh ta nói nhỏ, tiếng nói mềm mại lạnh lẽo như của một người nào khác.
 - Chị có thể đặt lại cái chai ấy trên bàn được không?
 - Không đặt! - Chị quác mát trả lời và càng xiết chặt cái chai trong tay hơn. Trời! Chị nghĩ - Thà hắn cứ quát toáng lên như thằng vừa rồi lại đỡ sợ hơn.
 - Chị đi mua thuốc ở Tân Bình phải không? - Anh ta vẫn nhẹ nhàng hỏi.
 - Không! - Chị càng nép sát vào tường. Hắn định giở trò gì đây? Chị cán chặt môi và càng chú ý phòng ngừa.
 - Chị đừng sợ - Anh ta lắc đầu thiểu não rồi đứng lui lại - Chả nhẽ tôi lại đáng sợ đến thế sao? Thôi được! Tôi sẽ không cần nói gì nữa. Bây giờ ta đi!
 - Đi mua thuốc cho thằng nhỏ con chị - Anh ta trả lời bình thản - Tôi sẽ đưa chị đi cho nhanh, vả lại đi một mình qua ngõ này không tiện.
 Không cần chờ chị trả lời, anh ta uể oải lấy từ dưới gối một vật gì đó nhét vào túi áo khoác rồi vẫn uể oải bước tới chiếc Vespa đậu ở lề đường. Trong nhà, chị vẫn đứng im, mát mở to, cái chai trên tay từ từ hạ xuống...
 Khi trước Vespa tháng lại trước nhà, chị đã nghe thấy trong nhà đang vang lên tiếng nói lơ lớ của ông thấy thuốc nam mà chác má chị đã đón được về. Chị khẽ thở phào, quay lại người đàn ông.
 Tới nhà rồi. Cám ơn ông Hai. Thiệt phiền ông quá!
 Tôi tên Lầm. Phan Hồng Lẩm. Cùng quê Bến Tre với chị. Chị cứ gọi như vậy tiện hơn.
 - Dạ! Anh Lầm cho tôi hoàn lại số tiền mua thuốc hồi nãy.
 - Không có chi. Mai mốt nếu có gì cần chị cứ cho gọi. Đất Sài Gòn này không sừng sỏ không sống được, chị đừng ngại, ở đây tôi không có ai là người thân thuộc. Lúc mới gặp chị, nhìn vào mắt chị, tôi đã thấy có cái gì khác với... Thôi tôi về. Chị vô với cháu đi.
 Chiếc Vespa đã phóng vút đi. Chị đứng lại một chút, tần ngần. Hai Băng Giá... Hai Băng Giá là con người này sao?... Nhưng tiếng khóc của con đã đẩy nhanh chị vào nhà.
 Trong nhà thằng Chu Anh đang oằn người trong lòng bà nó và cạnh bên, ông thầy thuốc nam đang bón từng thìa thuốc sóng sánh như mật ong vào cái miệng nhỏ xíu có đôi môi nóng đỏ của nó. Thấy tiếng động, anh ta quay ra gật đầu chào chị rồi lại quay vào gượng nhẹ với thìa thuốc, nhưng ngay sau đó anh lại quay ra và lần này thì thìa thuốc trên tay anh chao đi...
 - Chào chú! Chú mới tới - Chị sà đến cạnh con - Má ơi, con đã mua thuốc rồi đây. Toàn loại tốt cả.
 - ừa - Bà má gật đầu - Bay đi lâu về, tao lo quá. Cứ để trị đủ liều thứ thuốc này đã. Từ tối tới giờ có vẻ êm.
 Người bán thuốc vẫn đứng sững nhìn chị. Thấy chị nhìn lại, anh vội chớp mắt quay đi. Cặp mắt ấy hấp tấp dán vào khuôn mặt thằng bé. Từ vầng trán anh, có một cái gì như một sự bàng hoàng dội lên. Có vẻ mỏi, anh không còn cầm vững thìa thuốc trên tay nữa, đành đứng dậy.
 Chị... Chị bón cho cháu. Từ giờ tới sáng uống hai lần nữa. Mỗi làn hai thìa... Tui...
 Tui...
 Chị quay lại, hơi ngạc nhiên. Chao! Một người miền núi mà sao có giọng nói ngọt ngào làm vậy. Và hình như... Cũng không có vẻ gì lơ lớ cả.
 - ô, thằng nhỏ bị đau cái phổi mà - Bắt gặp cái nhìn hồ nghi của chị, anh nói vội - Đau nặng đấy nhưng không sao đâu. Cái thuốc của tôi nó thiêng lắm, chỉ mai là đỡ liền thôi.
 Chị nhẹ người. Không hiểu nhẹ vì bệnh tình của con có chiều thuyên giảm hay vì tiếng nói ngồ ngộ vừa rồi đã xóa đi hết cái băn khoăn của chị.
 Thằng Chu Anh bỗng ợ một cái rồi quần quại ho mấy tiếng khô khỏng, mặt nó đỏ vang. Nhanh hơn cả chị, anh nhao ngay người tới bế xốc nó lên cho thuốc khỏi trào qua miệng. Nét mặt anh giây phút ấy nhăn nhúm lại trông thật khổ sở. Cánh tay bế đứa nhỏ lập cà lập cập. Trong thoáng chốc rất nhanh, chị thấy anh ghì sát đứa nhỏ vào ngực, mắt tối đi trong tiếng lắp bắp nơi cửa miệng không rõ câu gì. Thấy người lạ âu yếm, quý yêu con mình, người mẹ nào không mát ruột. Chị định lại đỡ lấy con nhưng như bị một làn sóng vô hình ngăn cản, chị chững lại. Trời! Bàn tay... Bàn tay trái... Sao lại giống bàn tay trái của anh thế? Bàn tay có những ngón vuông bè bè, có ngón trỏ bị lụi đốt trên cùng. Chị vội nhìn lên. Rờn rợn... Nhưng không! Không phải khuôn mặt ấy. Kia chỉ là một khuôn mặt thật thà, xa lạ và nước da xạm cháy. Không! Làm gì có chuyện ấy. Chị lại thấy nhẹ nhõm và cười thầm mình sao độ này cứ hay ám ảnh vu vơ. Chị đưa tay đỡ lấy con. Cũng lúc ấy, chị bắt gặp ánh mắt của anh. Ánh mắt cháy bỏng, hun hút, thẫn thờ. Tim chị chợt đập rộn lên. ôi! Con mắt... Sao giống con mắt... Không! Ngay lúc đó, đôi mắt kia đã dài dại đi rồi. Lại bậy nữa. Lần thứ hai chị tự trách mình. “À ơi! Ngủ đi con. Đừng ho nữa... Con ho má thương lắm! Con đừng trách má không dòm ngó nhiều đến con, không đi kiếm kịp thuốc cho con... Bây giờ má chỉ có mình con, má không thương con thì thương ai. Ngủ đi! Đừng ho nữa, sớm mai ngủ dậy là con của má sẽ khỏi liền thôi. À ơi...“
 Tiếng nựng con của người mẹ như có sức hút kỳ lạ khiến người bán thuốc chao đảo, cứ muốn nhao về phía hai mẹ con, nhưng bằng một sự gắng gượng nhọc nhằn, anh lại lùi dần về phía cửa. Nhìn tinh thấy khuôn mặt anh méo xệch đi.
 - Tui... Tui xin phép bà và cô tui... tui đi.
 Anh hấp tấp vơ quàng lấy túi thuốc.
 - Ý, đâu có được ông thầy! - Tiền nong tôi đã trả đâu.
 - Dạ thôi... Mai mốt tôi lấy cũng được mà. Tiền chút chút mà... Dạ, tui đi!
 Lần này bà má giằng cái tay nải lại, vừa năn nỉ vừa kiên quyết.
 - Ông thầy đi đây giờ này? sáp giới nghiêm rồi, quân cảnh họ bắt đó.
 - Không có bắt đâu. Tui quen hết rồi mà.
 Anh xin lại cái tay nải, mát nhìn dáo dác như kẻ định chạy trốn. Anh tránh không nhìn vào mắt chị nhưng tiếng chị đã khẽ khàng cất lên:
 - Chú làm ơn ở lại với gia đình tôi một đêm, mai hẵng đi! Lỡ nửa đêm về sáng, cháu nó trở chứng, tôi biết đi gọi ai? Nghe má con tôi một chút đi chú.
 Câu nói khiến anh đứng im, tay thõng xuống. Anh nhìn đứa bé giây lâu rồi gật đầu.
 Cùng với người bán thuốc, chị cũng không ngủ.
 Tối nay sao nhiều việc xảy đến với chị quá. Thái độ bí hiểm của Hai Băng Giá, bệnh tình thằng nhỏ - nỗi lo láng tới tuyệt vọng của chị mấy bữa nay - bỗng như được trời phật phù hộ mà đỡ đi trông thấy, rồi cả sự tận tâm cũng như cung cách đối xử lạ lung của ông thầy thuốc người Thượng nữa... Cái mắt nhìn... Bàn tay thiếu đốt... Cố xóa đi mà cứ thấy đầu óc nôn nao, cố quên đi mà quãng đời cũ cứ thấp thoáng hiện về. Bên kia vách, chị đoán biết người thầy thuốc cũng chưa ngủ. Lát lát, anh ta lại khẽ khẽ cựa mình. Mỗi lần thằng bé lên cơn ho, tiếng cựa mình lại mất đi, như con người ấy đang nín thở và để rồi tiếng cụ cựa lại vang lên mạnh hơn. Rõ ràng chị cảm thấy có cái gì đó vừa vô hình vừa cụ thể cứ lớn mãi lên, sắc nét mãi ra, giống như sợi giây hư ảo nối liền giấc ngủ của đứa bé vào giấc ngủ của người ấy. Có phải như vậy không? Nhiều khi chị cũng nín thở... Chị bỗng sợ nghe tiếng cựa mình của người đó. Nó khơi dậy trong chị biết bao nhiêu điều chị đang cố quên đi. Nó đang hiển hiện ở bên kia vách, gần lắm! Sao ông không ngủ đi, hay ráng mà nằm im cũng được. Chao! Con mắt... Bàn tay...
 Ngài đô trưởng bỗng thấy sáng nay trong người vui vẻ. Đêm qua ngài đã ngủ được một giấc ngon lành. Viên bí thư tin cẩn của tổng thống, người anh em đồng hao với ngài, trong buổi họp báo chiều qua đã nói riêng với ngài rằng: ý định đứa ngài về làm tư lệnh một sư đoàn đóng ở vùng I của tướng Tổng tham mưu trưởng (vốn không ưa gì ngài) đã bị tổng thống phế bỏ. Cha! Chút nữa thì binh nghiệp của ngài tiêu ma đó. Từ ngày thụ huấn ở Mỹ về đến giờ, cả năm năm nay, ngài đâu có quen xông pha trận mạc. Đưa nhau ra đấy để mà nướng nhau ư? Chà! Cái lão đại tướng này thiệt... Ngài đã quen công việc ở đây rồi. Với cái đô thành chói chang ánh điện này, ngài đã từ từ, tất nhiên phải tốn biết bao công sức và lọc lõi, leo lên từng nấc để có cái chức tư lệnh thành phố mà bạn bè cùng lứa với ngài có ước mơ cũng không dám. Chính vì cái tin hết sức thú vị đó mà sớm nay, một tớ báo đã cho chạy trên trang nhất câu tuyên bố trong lúc cao hứng của ngài: “... Tôi cho rằng, trong khoảng từ ba đến năm năm tới đây, thành phố của chúng ta sẽ hoàn toàn được đảm bảo an ninh. Những bóng ma Cộng sản trước kia thường lấn quất ở đây, bây giờ, sau cái tết ghê gớm vừa qua, có thể nói chắc rằng đã bị quét hết ra nghĩa địa, rừng rú...” Ngài lắc lắc đầu mỉm cười. Được đấy chứ! Nói trong khi ngà ngà mà nghe cũng được đấy chứ. Nói thiệt! Làm đô trưởng một thủ đô như vầy mà để cho một thằng cha võ biền nào nói năng cục mịch đâu có được. Ngoài cái đảm lược về điều binh khiển tướng, đô trưởng còn là sinh khí, là bộ mặt của toàn thành phố. Không phong lưu mã thượng, không lịch duyệt thông thái, bọn có học nó có coi ra cái gì. Ngài ngắm nhìn khuôn mặt sáng sủa, bộ tóc chải cao và tẩm thân mạnh mẽ ẩn sau bộ quân phục cấp tướng với vẻ hài lòng. “Có một nụ hồng hé nở ngoài kia. Tôi muốn ngắt tặng em nhưng e lại mất đi một chấm đỏ vào trời xanh”. Nếu không có ông bạn giáo sư ngồi bên thì có lẽ ngài hứng chí đọc to lên mấy câu thơ ấy của Hai-nơ rồi. Tuy vậy, sự có mặt của giáo sư lúc này thật tuyệt! Đã bị quét hết ra rừng... Chà! Dùng chữ quét vào đây thật gọn. Nó bao gồm cả thế lẫn lực mà nghe không sao. Tuy nhiên, không nên nói ba năm, một năm, hai năm thôi là vừa. Ba năm là hơi bốc. Nhưng cũng chẳng sao. ông Thiệu còn nói tới những năm năm kia mà.
 - Anh Luân! Anh uống đi chớ - Ngài vui vẻ - Tôi biết anh xưa nay vẫn bị bệnh đau bao tử, nhưng không sao đâu. Rượu nhẹ, đàn bà uống còn lắc đầu mà.
 Ngài ngồi hẳn xuống, dáng bộ trân trọng - Tóm lại là thế này. Tôi rất rõ anh đang bận bù đầu với cái công trình: “Sự tồn tại dai dẳng của các cộng đồng dân tộc vùng Đông nam Á”. Nhưng cũng xin anh nể tình bằng hữu giữa tôi và anh, anh bới ra ít ngày viết cho tôi cái “quân sử” về Sài Gòn của chúng ta trong và sau Mậu Thân. Tư liệu và phương tiện, anh sẽ có đủ. Còn công sức? Cái này chẳng nên nói với anh nhưng người Mỹ rộng rãi lắm. Cần phải cho thế giới biết về thực lực họ và thực lực của ta. Tất nhiên cả sức mạnh và khả năng quân sự của người Mỹ nữa. Anh cười đó à? Đừng, xin anh đừng cười. Anh vẫn giữ được cái kiểu cười chết người như ngày trước. Nhưng tôi yêu cái lối cười đó. Nó thông minh lắm. Thế nhé! Phải chính tay anh nhúng bút mới được. Không gì vinh hạnh cho những người lính chúng tôi một khi chiến công của mình được một giáo sử học danh tiếng như anh động bút vào. Chậc! Kể ra mặc cho tên Tổng cục chiến tranh chính trị họ làm cũng được, nhưng cái thằng cha đại tá trưởng phòng quân sự ấy dở ẹc. Lại khô khan, hời hợt toàn số liệu chết cứng cho coi. Uống! Đúng ra phải điều lão ta trở về đơn vị cầm súng mà choảng nhau. Ngồi ở trung tâm mà chẳng có một chút đầu óc nào cả. Kìa! Anh lại cười nữa rồi. Bao giờ đứng trước anh tôi cũng có cảm giác mình đang làm một điều gì quê kệch.
 Giáo sư Luân chậm rãi đi ra cửa sổ nhìn xuống mặt đường. Ngược lại với ngài đô trưởng, ông thấy không vui. Trong thâm tâm, không muốn nhưng được mới gọi hai, ba lần, cực chẳng đã ông đành tới căn nhà đầy lính gác rần ri này. Xưa nay ông vốn không thích nhìn những bộ quân phục màu tráng hay màu xám, dù ở bên này hay bên kia. Và vả lại... ông cũng có một chuyện riêng tư của gia đình có thể cần phải nhớ đến tiếng nói của người bạn đeo lon tướng này.
 - Người ta chỉ đưa vào sử những cái đã qua, không lặp lại trong hiện tại. Anh tin rằng vùng đất này không còn lộn xộn nữa sao? - Giáo sư hỏi mà không quay lại.
 - ít nhất cũng được mươi năm không có lộn xộn lớn.
 - Tức là anh hoàn toàn tin ở người Mỹ?
 - Về tâm địa thì không. Nhưng về lực thì trước hết phải thừa nhận họ biết làm ăn.
 - Phải chăng quân đội các anh không bao giờ biết làm ăn?
 - Anh vẫn có những câu hỏi phản đề khó trả lời.
 - Như vậy, anh mặc nhiên thừa nhận phía bên kia họ mạnh hơn các anh.
 - Thôi! Thôi! Tôi là con nhà võ, anh tha cho tôi. Hồi còn đi học, có bao giờ tôi nói lại anh đâu. Tôi thèm cái đầu óc của anh. Bây giờ tôi cần anh giúp tôi trong chuyện này. Anh bằng lòng chớ?
 - Tôi đã trả lời rồi thôi.
 - Tôi không hiểu.
 Viết lại thực trạng những ngày Mậu Thân tôi không làm được. Đó là công việc của báo chí, thông tin. Còn viết sử, tôi sẽ chắc không làm anh hài lòng đâu. sử phải trung thành với mọi sự kiện nhỏ nhất, trung thành với sự thật. Sự thật bên trong các hiện tượng chứ không chỉ là kết quả. Nghĩa là tôi sẽ chứng minh rằng thắng lợi của ông Thiệu vừa rồi là vô nghĩa. Và nếu cho rằng họ thất bại thì cũng hết sức thiếu khoa học. Cái còn lại là sự hiện hữu của người Mỹ trên đất nước này. Sự hiện hữu của một lực lượng khách quan không nằm trong mối quan hệ nội tại của cộng đồng dân tộc. Lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này không thể thừa nhận người Mỹ như là một động lực phát triển chính thống. Vậy thì sự thắng và sự thua cũng chưa có luận cứ để khẳng định. Điều này sử học bất lực. Có lẽ đó là một phương diện đơn thuần về chính trị với tất cả những ưu thế của nó: lạnh lẽo, quay ngoắt và vụ lợi.
 - Được! - Ngài đô trưởng thoắt trở nên hào hứng - Tôi xin được tranh luận với giáo sư. Giáo sư muốn nói kết quả của sự biến cố Mậu Thân vừa qua thành bại còn đang nằm trong hư thực phải không?
 - Không phải một mình tôi nghĩ thế.
 Thật là ngây thơ... Xin lỗi! Tôi muốn nói, anh Luân ạ, anh vẫn trong tráng và tốt bụng như trước. Anh nhìn vấn đề bao giờ cũng tròn trịa. Sau cái đòn này, ít nhất phía bên kia cũng choáng váng rất lâu mới gượng lại được. Ví dụ tình hình an ninh khả quan của thành phố chúng ta những tháng qua. Điều đó thua thắng thuộc về ai đã được lý giải rồi. ít nhất cũng là về mặt quân sự.
 Nhưng tôi biết chính phủ còn rất lâu mới hết giật mình. Choáng váng hay giật mình chỉ là hai mặt của một tâm trạng. Và tâm trạng chiến tranh mới quyết định kết quả chiến tranh. Nếu anh không cáu, tôi xin nói thật: Ngay buổi họp báo chiều qua của anh cũng là dấu hiệu của sự giật mình. Người thực mạnh không bao giờ đại ngôn. Họ tỉnh táo nhìn nhận cú đấm của đối phương khá nặng, thậm chí gây đau nhức không chịu được nhưng họ cũng biết nện lại những quả đau nhức không kém, hoặc đau nhức hơn. Theo tôi, thắng lợi của biến cố vừa qua và cái trật tự an ninh hiện nay thực chất chưa lấy gì làm đảm bảo. Anh không cho tôi là ảnh hưởng tư tưởng biện chứng của Mác chớ?
 - ô không! Sự thật dù phũ phàng vẫn thích nghe hơn lời ngọt ngào dối trá. Anh cứ tự nhiên. Dân chủ mà. Tôi rất thích nguyên tác này. Nó có tác dụng mở rộng tầm nhìn. Tốt lắm.
 Vâng! Tôi vẫn muốn được nghe nhắc lại: điều hệ trọng hơn hết là tâm trạng. Tâm trạng của con người. Và con người luôn luôn gắn với môi trường nó tồn tại. Môi trường bây giờ xáo trộn quá! Mọi giá trị luân lý đều bị đảo ngược, mọi nề nếp, chuẩn mực đều bị lật nhào. Đâu đâu cũng thấy đồng tiền, đồ vật và sắt thép chế ngự lên tất cả. Hoang mang và bất lực, con người sống cấu thả, sống bừa phứa. Một khi đã mất tin ở tương lai, tất yếu sẽ sống vội trong hiện tại.
 - Anh đang nói về đức tin?
 Đúng! Do không yêu và không tin vào một cái gì cả nên hàng ngày con người tự tước bỏ đi cái phần người nhất của mình là hoạt động. Chỉ sống không thôi thì chưa phải là con người anh ạ! Sinh vật nào mà chả sống. Do đó thật khó nghĩ rằng những con người nhợt nhạt như thế lại gánh được những trọng trách, bảo vệ được sự sống còn ở chính thể mà các anh trải qua bao cuộc đảo chính, cách mạng mới thiết lập nên được. Tất nhiên con người ở phía bên kia tôi không được rõ lắm. Có thể họ cũng là những kẻ cuồng tín đang lao theo một mưu đồ chính trị mà quên đi cái lý tưởng nhân văn. Nhưng xét đến cùng, bất cứ một dân tộc nào để xảy ra nội chiến vì những bất đồng của một cá nhân, của một nhóm người thì hết sức phản lịch sử. Nhất là dân tộc lại chấp nhận để cho một kẻ khác đứng ngoài xúi bấy, thậm chí tiếp sức. Anh thử lang thang ra đường phố một ngày coi! Nhô nhuế không còn ra cái gì nữa. Như thành phố của một quốc gia khác. Điên đảo. Quay cuồng. Một quốc gia mà cái nền nã nhất của dân tộc đang mất đi. Một lối hiện sinh bản năng đang ngự trị. Chính vì thế mà tôi không tin vào sự ổn định trong vòng hai, ba năm lại đây của anh.
 Ngài đô trưởng giơ hai tay lên trời cười vang tỏ vẻ thú vị. Nhưng ngay sau đó, ngài bỗng tràm ngâm.
 - Xưa nay tôi vẫn biết anh không ưa thích chính trị. Nhưng quả thật, tất cả những lập luận của anh vừa rồi khiến tôi chông chiêng. À, những ngày lộn xộn ấy anh ở đâu? - Ngài quay đi búng tàn thuốc, làm như vô tình hỏi câu đó.
 - Ngay tại đây thôi. Viết sách, nghe súng nổ, ngắm nhìn thời cuộc và nếu có thể thì rút ra một vài kết luận. Chức năng nhân chứng mà.
 - Tóm lại anh không muốn cộng tác với tôi trong chuyện viết sử này?
 - Để... Để tôi suy nghĩ thêm - ông đắn đo một chút rồi nói khẽ - Độ này tôi đang bận tâm vì thằng Hải, thằng con độc nhất của tôi, chác anh còn nhớ?
 - Hả?... Không! Có! Có nhớ chứ - Đột nhiên ngài tỏ ra lúng túng - Sao lại không nhớ. Môt nhac sĩ thời danh.
 - Tên tuổi vì nghệ thuật thì ít, vì chơi bời xả láng thì nhiều. Suốt đêm ngày chỉ đắm nhìn trong nức nở và ái tình. Một thằng đàn ông cạn khô, mất hồn người, thiệt là rầu. Anh ạ! Tôi...
 - Tôi hiểu - Ngài đô trưởng thân mật vỗ vỗ vào tay ông, cắt ngang - Thì ra chính vì cậu con nghệ sĩ mà ông bố mất tin ở con người, ở xã hội. Chết thật!
 - Không hẳn như vậy, nhưng... Cũng rất có thể như vậy. Vì nó là sản phẩm của môi trường. Với môi trường này, tôi e rằng nó sẽ không lấy lại được bình thường. Ngày trước, nó là một thằng bé khá, có tâm hồn, trung thực và nhiều khát vọng lành mạnh. Bây giờ nó sống vật vờ như cái bóng. Nó không cần biết nó là ai, không hoàn toàn làm chủ được bản thân mình. Một thế hệ trôi nổi và dựa dẫm. Anh ạ! Tôi có một chuyện muốn...
 - Anh lại rơi vào bi lụy rồi - Ngài đô trưởng cát ngang - Tôi thì nghĩ khác. Cậu con anh đang thực hiện cái phần tự do nhất, cái phần người nhất của nó. Giai đoạn này con người cần phải có lối sống thực dụng. Lối sống này sẽ tạo nên sức mạnh cần thiết cho quốc gia. Chà! Nếu anh biết được lối sống ép xác của những người phía bên kia? Thật là kinh khủng.
 - Tôi chưa thật tin - ông nói và nghĩ rằng mình không nên đem chuyện riêng ra nhờ vả lúc này - Xã hội ta bây giờ đang sao chép lối sống Mỹ một cách sống - sít thì đúng hơn. Có quốc gia nào tự tồn tại bởi những con người chuyên đi bắt chước những cái bên ngoài. Thà cứ sống khổ hạnh như phía bên kia lại giữ được bản ngã của mình. Anh hiểu dùm, đây tôi không nói chuyện chính trị. Thú thực tôi không hiểu những người cách mạng lắm và tôi cũng chưa có ý định tìm hiểu.
 - A! Thiệt vừa dịp - Ngài đô trưởng bật ngón tay đánh tách một cái - Ngay bây giờ tôi sẽ cho anh tiếp xúc với một mẫu người cách mạng. Hắn là một sĩ quan đặc công có một thời đánh đấm khét tiếng. Nhưng rồi hắn vẫn là hắn. Tức là hắn vẫn thèm làm một con người ăn uống, ngủ nghê, như mọi người bình thường khác. Một con người hoàn toàn đánh mất lòng tin. Nói chuyện với hắn anh sẽ thấy thú. Còn cái mục kia... Hả? Tùy anh, tôi không ép đâu.
 Ngài đô trưởng bấm chuông. Một đại úy còn rất trẻ, có ria mép hiện ra ở ngưỡng cửa.
 - Thiếu tá Xanh còn chờ ngoài đó không anh Thuần?
 - Dạ còn.
 - Tốt lắm! Anh mời hộ thiếu tá vào đây.
 Có tiếng giầy bước rất êm đi vào. Giáo sư Luân nhìn lên. Đó là một người đàn ông tầm thước, Bộ âu phục màu xám nhạt cát rất khéo, vầng trán vuông lúc nào cũng căn g ra như muốn kéo đôi mắt xếch lên. Cái miệng anh ta nhỏ, mỏng, luôn mím lại như sắp bật nói ra một điều gì mà cũng không bao giờ định nói ra điều gì cả. Kín bưng và buông thả. Và đôi mắt nữa, mặc dù trong phòng sáng choang ánh điện nhưng nó cũng không sáng lên được chút nào. Một thứ mắt dõi nhìn vào trong. Mỏi mệt, man dại và căng thẳng. Tóm lại, thoạt trông, người đàn ông tầm thước này dễ gây ấn tượng, mau khêu gợi sự tò mò của người khác.
 Giáo sư chăm chú nhìn anh ta. Còn anh ta không nhìn ai. Với cái dáng của một người đã quá quen những con mắt lạ lẫm nhìn vào mình, anh ta ung dung đi lại bàn, ngồi xuống. Và cũng rất ung dung, rút một điếu thuốc đưa lên miệng. Giáo sư quay mặt đi. Hình như ông đã gặp con người này ở đâu một lần rồi thì phải? Ngài đô trưởng tự tay rót cho anh ta một ly rượu mạc-ten đầy. Anh ta đỡ lấy uống một cách thận trọng hơi có phần lơ đễnh nhưng không dấu được cảm giác ngon lành. Đây là một kiểu người khép kín, biết tận hưởng khoái lạc cuộc đời nhưng... không tập trung vào một cái gì chính yếu cả. Bằng con mắt nghề nghiệp, giáo sư thầm đánh giá. Và bất giác ông lảng tránh tia nhìn của anh ta đột ngột phóng tới. Cái nhìn rờn rợn này, hình như ông cũng thoáng gặp ở đâu.
 Như giới thiệu một người bạn tri kỉ, lại như khuếch trương một món hàng quý, ngài đô trưởng quàng tay ôm lấy một bên vai anh ta rung nhẹ.
 - Đây! Thiếu tá Xanh đây, người hùng của Việt Cộng và bây giờ cũng là người hùng của chúng ta. Một người thức thời. Hy vọng tới đây anh sẽ phụ giúp giáo sư một cách đắc lực để hoàn tất cuốn quân sử độc đáo này. Một tài liệu sống vô giá đó anh Luân!
 Thiếu tá Xanh chợt đứng dậy:
 - Thưa thiếu tướng! Tôi có chuyện cần trình gấp lên ngài.
 Chắc không phải chúng ta sắp mở một cuộc tổng tấn công nữa chớ? ồ! Vậy thì cứ chậm rãi. Ngày rộng tháng dài, lo gì. Hình thành cho được một bộ quân sử lúc này là cần nhất.
 “Cần cho cái ghế của ông chứ gì”, viên thiếu tá nghĩ.
 - Dạ! Tùy thiếu tướng.
 Rõ ràng anh ta tỏ ra khó chịu khi có mặt vị giáo sư gầy yều ngồi đây. Giáo sư Luân đọc được ý nghĩ đó và ông nhận xét: một phong độ giả tạo, một giọng nói giả tạo, không thật. Ông đứng dậy cầm lấy ba toong.
 - Các ngài cứ luận bàn công việc. Tôi phải đến Vạn Hạnh. Bữa nay có tiết giảng.
 - ủa! Còn cái chuyện tôi nhờ anh?
 - Mấy bữa nữa tôi sẽ “phôn” cho anh.
 - Thế anh không ở lại dùng cơm trưa với tôi sao? Đã lâu lắm rồi chúng ta... Bữa cơm gia đình, có cả thiếu tá Xanh đây nữa. Tôi đảm bảo tiếp xúc với ông ta, giáo sư sẽ thay đổi được khá nhiều quan niệm.
 Ngài đô trưởng bắt tay giáo sư thật chặt.
 Ra tới cửa, ngài nói nhỏ vào tai giáo sư:
 - Tình hình này phải biết giữ mình. Không phải ai cũng hiểu anh được như tôi đâu.
 - Tôi nói vậy chác anh hiểu.
 Giáo sư Luân nhún vai không nói và đi luôn. Ra tới đường ông mới vỡ lẽ ra rằng mình chưa hề gặp con người tên Xanh ấy bao giờ cả, nhưng vẻ mặt anh ta thì ông không lạ, tất cả những kẻ tráo trở đều có những nét hao hao giống nhau. Và ông mừng thầm đã không đưa việc cậu con trai ra lúc ấy.
 Ông không đi đến đại học Vạn Hạnh mà lộn trở lại nhà. ông thấy có chuyện cần phải nói với đứa con trai. Nói ngay hôm nay chứ không thể để một buổi nào khác. Nếu vẫn thế thì đầu tuần sau nó đã phải đi rồi. Điều ấy... Đau đầu vô cùng.
 Cùng lúc đó, trên căn phòng có tường cách âm ông vừa rời khỏi, ngài đô trưởng nghiêng hẳn đầu về phía thiếu tá Xanh để nghe cho rõ.
 - Nó đã xuất hiện được bữa nay. Thằng Xuân! Dạ thằng Xuân! Tôi không thể lầm được, mặc dù nó đã cải trang trông giống hệt một gã người Thượng.
 - Một gã người Thượng? ông không nhầm đấy chớ?
 - Đối với người khác thì nhầm nhưng với tôi thì dù cho nó có cải trang thành quỷ tôi cũng nhận được. Đây là một thủ đoạn cải trang hoàn toàn mới lạ của chúng nó. Một gã người Thượng ngồi bán thuốc nam giữa phố chợ nghẹt người! Chà. Thoạt đầu tôi cũng không để ý vì nó khác quá! Khác hẳn. Một bộ mặt được là ủi kĩ lắm mới có thể được như thế. Nhưng dần dần tôi thường thấy nó hay làm bộ lảng vảng ở khu cư xá Mỹ. Một thằng bán thuốc thông thường thì chỉ muốn bán chác cho nhanh rồi lo cuốn xéo về nhà ôm vợ. Thằng này buôn bán khủng khỉnh, không có vẻ gì ham lời ham lãi cả. Nhưng tới khi tôi nhìn thấy bàn tay nó đếm tiền, hai bàn tay có chín ngón thì tôi đã ngờ ngợ. Và đến lúc nhìn vào mắt nó thì... Con mắt lạ lắm! Chỉ có nó mới có thể có con mắt kì lạ như vậy.
 - Sao anh nói sau khi trốn tu nó đang bị... A, bị treo giò ở hậu cứ?
 - Dạ! Chính thế mà tôi vẫn chưa đoán chắc.
 - Lúc này nó đang ở đâu?
 - Đêm qua nó vào một gia đình ở chân cầu xa lộ cho thuốc một đứa bé bị bệnh rồi ngủ luôn đấy. Sáng nay nó lên xe lam ngược xa lộ đi đâu không biết. Tôi đã cho bám.
 - ô kê! Anh tinh nhanh lắm. Nếu không có những người từ trong ruột chúng nó chun ra như anh thì quỷ mới biết được. Chà! Lảng vảng ở khu cư xá Mỹ à? Chuyện không còn đơn giản nữa rồi. Một tuần nữa cuộc lễ quan trọng sẽ diễn ra ở đó. Nè! Có thể ở đâu đó phía bắc xa lộ nó có cơ sở? Và ngay cả cái gia đình hôm qua biết đâu cũng là một thứ trạm cung cấp tin tức? Phải đặt ra nhiều giả thuyết, phải tung lực lượng phong tỏa khắp nơi và phải hết kín đáo. Nhưng mà... Sao có thể nhanh thế được? Tôi chưa thật tin lắm. Hay là...
 - Ngài cứ yên tâm - hắn chau mày - Bằng cách nào đó tôi sẽ đích thân kiểm tra lại.
 -Tôi tin ở thiếu tá. Thế còn gia đình ở chân cầu đó là gia đình nào? Chắc là thân cộng hay người nhà Việt cộng chớ?
 -Thưa ngài! Một gia đình máy may bình thường mới dời nhà từ Bến Tre lên được gần năm nay. Để tôi điều tra thêm.
 Thiếu tướng đi lại trong phòng, đầu gật gù.
 - Chà! Bán thuốc! Bán thuốc à? Ghê gớm thật. Coi chừng ông bạn trí thức của tôi lại có lí hơn chúng ta, ông Xanh! ông toàn quyền hành động, không cần phải viện đến bên Tổng nha nữa, chậm chuyện, ông nên nhớ: coi như nó có mặt ở Sài Gòn này giờ nào là giờ đó không yên đâu.
 Hoàng Xanh cúi thấp đầu xuống nói nhỏ như nói với riêng mình:
 - Dạ! Cái đó thì tôi hiểu...
 -Còn cái ông bạn giáo sư của tôi nữa? Cũng thật là khó hiểu. Có lẽ tôi phải qua bên ông đại tá cảnh sát trưởng một chút. Tất cả đều có thể xảy ra.
 Tới nửa đường, Thiếu tá Hoàng Xanh ghé vào một tiệm cà phê váng vẻ, kiếm chỗ kín đáo ngồi. Ngồi chưa ấm chỗ, hắn lại đứng dậy. Li cà phê bốc khói vừa mang đến, hắn móc túi trả tiền rồi đi luôn. Tưởng con người này đang có gì vội vã nhưng ra đến cửa, hắn đứng lại nheo nheo mắt nhìn người qua lại một lúc rồi chặc lưỡi đi tát qua đường. Rõ ràng điểm hắn định tới chỉ mới xuất hiện trong đầu. Một chiếc xe lôi phóng qua phun khói vào người hắn. Mặt Hắn nhăn lại: Nhăn lại không phải vì khói mà vì tiếng động cơ rền rĩ như một tràng đại liên bắn gần xoi xói vào óc. Hắn lững thững đi đến căn nhà nhỏ nằm khuất trong một ngõ váng có nhiều bóng me. Dừng lại một chút ở cách cổng phủ đỏ bông giấy, hắn tiếp tục bước đi. Đến đầu ngõ không hiểu ngẫm nghĩ thế nào hắn lại lộn lại. Tiếng chuông rè rè nghe lạc lõng. Một thiếu phụ không còn trẻ trung nhưng khá đẹp ra mở cửa. Thấy Hắn thiếu phụ reo khẽ lên một tiếng rồi vội đuổi con chó Nhật sắp xù lông ra sủa.
 ... Hắn ngả người trên sa lông, chân duỗi thẳng, mắt nhìn dính vào tấm gương to treo ở giữa phòng. Điếu thuốc không được rít, khói cay xông lên làm Hắn chớp mắt. Thằng người trong gương chợt hiện ra. Hắn đấy ư? Trông cũng được đó chớ. Trán cao, vai rộng, mặt cương nghị. Có lẽ mình mặc bộ này hợp hơn mặc quân phục? Hắn nhướng mắt to lên rồi lại vội nhíu lại ngay. Lâu nay hắn không quen nhìn thẳng vào mắt mình. Hắn đứng lên đi ra cửa sổ rồi lại quay vào, ngồi xuống. Hắn thấy trong lòng sao cứ bồn chồn. Đôi mắt ấy... Phải chính đôi mắt ấy cứ lửng lơ ở trước mặt hắn. Đi một mình ngoài đường không được, hắn phải đến đây cũng như sau mỗi lần thấy có điều gì bất ổn trong đầu, hán lại tìm tới ngôi nhà này. Thiếu phụ đang cúi xuống nhìn hắn, đôi mắt mơn trớn. Hắn lầm lì đứng dậy đi những bước ngắn và chậm trong phòng.
 Đến cạnh thiếu phụ, hắn chững lại, không chủ đích. Một thoáng tần ngần... Bằng một động tác cũng rất quen thuộc và thành thạo, Hắn nhẹ nhàng xoay vai thiếu phụ vào lòng mình... Nhưng đúng vào cái lúc đáng lẽ đưa bàn tay ám khói ra phía đầu giường tắt đèn thì hắn lại từ tốn đứng dậy, rồi cũng rất từ tốn hắn lặng lẽ đi ra khỏi phòng.
 Thiếu phụ mở bừng mắt không hiểu... Hồi lâu, thì vật mình xuống nệm, mặt vẫn còn đỏ lựng.
 - Thằng điên!
 Hắn nhìn đồng hồ.
 Chưa tới giờ nhận báo cáo. Đi đâu bây giờ? Hắn thật không muốn ngồi vào cái bàn sắt nặng nề màu xám trong phòng làm việc của hắn một chút nào. Hắn định tạt vào tiệm ăn gọi mấy món đồ nguội song không thấy đói. Mấy hôm nay, kể từ lúc tình cờ gặp người bán thuốc ở chợ, Hắn cứ thấy nôn nao như sắp gặp một điều gì ghê gớm. Song có lúc, chính cái điều ấy, hắn lại cảm thấy như mình đã trải qua rồi. Rượu không làm cho hắn bình tâm. Từng bước một, đế giầy Hắn tỉ mẩm đếm gạch trên hè phố.
 Vậy là hắn đã trở về cái thành phố này gần trọn năm rồi. Một năm trôi qua kỳ lạ đến nỗi nhiều đêm thức dậy, hắn bàng hoàng không hiểu mình đang ở đâu. Lí lịch hắn cũng khúc khuỷu như tâm trạng hắn. Ba năm làm thư ký cho chủ tịch nghiệp đoàn Taxi, hai năm thoát li ra rừng, lại ba năm vào thành với danh nghĩa một kí giả trẻ tuổi và tháo vát. Hắn đã mặt hầu hết ở tất cả các trận đánh và chưa hề thất bại lần nào. Hồi ấy cách mạng dâng cao như thác lũ. Với chỗ đứng của một chiến sĩ biệt động đô, đã có một thời kì hắn là tượng trưng cho lòng quả cảm, trí sáng tạo, và ý chí không khoan nhượng với kẻ thù trước con mắt đồng đội. Cấp trên tin cậy năng lực chiến đấu của hắn. Toàn bộ phẩm chất người chiến sĩ biệt động cũng hàm chứa trong cái năng lực đó. Người ta tiếp tục trao cho hắn những nhiệm vụ ngày một nặng nề hơn. Hắn hoàn thành trót lọt. Có đợt, Hắn nằm lì ở thành tới cả nửa năm trời để theo đuổi một mục tiêu. Không sao! Thế nào rồi con người ấy cũng sẽ tìm được một cách đánh mới lạ. Họ không từ chối bất cứ một lời yêu cầu nào của hắn. Đồng đội cũng không tiếc gì, kể cả tính mạng, tù đày để hắn chú tâm vào công việc.
 Cũng chính trong thời gian đó, hoàn toàn vượt ra ngoài ý muốn của hắn, cái tâm bên trong hắn dần dần bị mềm đi. Thành phố như một cái xoáy nước khổng lồ làm cho hắn chóng mặt. Những lần trở về hậu cứ, bạn bè thấy Hắn ít nói hơn. Và những khó khăn trong các trận đánh qua miệng hắn cũng nhiều dần lên. Ai có thể, kể cả hán, ngờ được rằng, trong quá trình tẩn công vào kẻ thù, người lính ấy đã từng phút bị bản chất kẻ thù tiêm nhiễm trở lại mà không hay. Từ nhức óc với nhịp điệu cuồng loạn của phố phường, đến chỗ thấy Dần dần quen tai. Từ xót xa với lối sống đàng điếm, mất hết sinh khí đến chỗ hắn bỗng thấy thương cảm để rồi chặc lưỡi: “Biết làm sao khác được! Chân lí còn nằm ngoài tầm tay của họ”. Lạ lùng hơn nữa, những thằng mặc áo lính Quốc gia, áo lính ngoại quốc, những thằng người mà trước đây mỗi lần thoáng nhìn thấy là hắn muốn xiết cò ngay, bây giờ trong hắn chỉ nảy sinh một cảm giác xa lạ. Xa lạ thường là cái đi của sự gần gũi. Và nổi lên trên tất cả là những trận đánh nối tiếp mãi không thôi, biết chừng nào mới là trận cuối? Tuổi tác hắn cũng không còn trẻ nữa, lại thêm những vết thương sau mỗi trận lại nhiều hơn. Rồi cuộc đời sẽ đi đến đâu? Đám sương mù ảm đạm ấy lờn vờn trước mắt hán. Thế là hắn quên. Quên dàn màu lá rừng, quên dần khúc sông nước lớn lại ròng nuôi hắn bằng cá bằng rau, quên luôn cả những khuôn mặt xanh xao thiếu nắng của đồng đội. Nếu nhớ thì hắn chỉ còn nhớ bộ mặt lạnh như tiền của người đội trưởng, cấp trên trực tiếp của hắn. Trong một trận đánh, hắn tự động bác bỏ phương án của viên đội trưởng này. Đó là một lối đánh thí mạng, không có hiệu quả và phơi bày toàn bộ bí quyết binh chủng. Hắn nói thế và bộ mặt lạnh như tiền kia trút xuống đầu Hắn cả một đống quan điểm, lỗi lầm này nọ “Tôi không hèn trước chúng nó thì tôi cũng không thể hèn trước anh. Mệnh lệnh của Đảng, tôi xin chấp hành”. Hắn nuốt giận lao vào trận... Trận đánh thất bại, hai người không trở về. Chính Hắn cũng bị thương. Hôm sau hắn làm lì nhận một kỉ luật tạm đình chỉ công tác sau khi đã giáng thẳng cánh vào mặt người đội trưởng ấy một cái tát. Nửa tháng sau, bộ tư lệnh thành xác minh phương án của hắn là đúng và quyết định điều viên đội trưởng ấy về phía sau. Nhưng muộn rồi. Lại thêm một sự u uất vào trong cái bã bời đang hình thành trong hán. Hắn sống trầm đi, tách biệt mọi người. Mưa bao giờ cũng gợi mung lung. Mưa trong rừng càng mờ mịt. Còn phải sống cảnh này đến bao giờ nữa? Kẻ thù sao sống dai thế? Giết được thằng này nó lại mọc thêm thằng khác, ác ôn hơn. Bạn bè cũ quay đi quay lại hy sinh phần lớn. Bao giờ đến lượt ta? Thôi thì cứ đến cho xong. Chờ đợi điều bất hạnh còn ghê gớm hơn chính sự bất hạnh. Nhưng nó chưa đến thì hắn phải nghĩ cách thức làm sao tránh được nó. Đêm chụp xuống, hắn đã nghĩ đến chuyện vín vào sức khỏe để được về phía sau. Hoặc cố tạo ra một vết thương trầm trọng nào đó để có cớ lên cơ quan hậu cứ ngồi. Hay là... Hắn đã nghĩ loáng thoáng đến chuyện nếu bị bắt? Nhưng sáng ra, khi trên sông tràn ngập ánh nắng, hắn lại không làm gì cả. Hắn thấy mình tỉnh táo hơn và dưới kia, Sài Gòn với những mục tiêu, với những con người, phố xá... lại kích thích trí tưởng tượng của hắn. Nhưng rồi chỉ vài ngày sau, những ý nghĩ u ám ấy lại trở về. Những trận đánh không còn hiệu quả. Những tin tức thưa dần đi. Bạn bè thông cảm với hán. Cấp trên cũng chẳng nghĩ gì. Kẻ thù ngày càng có kinh nghiệm hơn, nghề đánh giặc đâu phải chỉ toàn có chiến công. Nắng trong rừng thật mỏng. Số phận Hắn sao mỏng manh. Số phận tất cả những người trong rừng đều mỏng manh. Dằng dặc quá. Những tòa nhà cao tầng, những âm thanh phố phường lẻn về ùa ngọp trong cái đầu trống rỗng của hán. Hắn thèm được sống cái cuộc sống đời thường, không lo láng, sáng dậy uống li cà phê nhàn tản, đêm lên giường nằm nghe sương rơi.
 Hắn khát khao được sống như những con người yên hàn trong kia. Khao khát được gần gũi, được làm chủ hoàn toàn cô người tình của hắn. ôi chao! Sao ở đời lại có một người đàn bà ghê gớm đến thế được? Thị đã từng sống với hai đời chồng Mỹ. Và cứ sau vài năm, thị lại trở thành góa phụ. Nhưng số tài sản dành cho một góa phụ Mỹ lại nhân lên. Những cuộc nhân duyên ấy đến nay đối với hắn vẫn còn là điều bí mật. Hắn cũng chẳng cần biết làm gì. Miễn là mỗi làn gặp thị, hắn được chiều chuộng, được âu yếm. Thị là tất cả, là khát vọng, là bù đắp, là nơi nương tựa linh hồn của hán. Tòa nhà một tầng xinh xắn ở ngõ vắng với rượu, thuốc thơm. Con chuồn chuồn không bứt nổi ra khối nhựa mít nữa. Không hề gì. Nhiệm vụ và ái tình là hai cái khái niệm tách rời, không có khả năng tác động đến nhau. Hắn biện luận thế.
 Ngày trước, hắn muốn trở về sau trận đánh sáng rực như một vị anh hùng. Nhưng núi rừng u tịch không có chỗ cho hắn phát sáng. Và làm sao mà sáng mãi cho được. Thật là ấu trĩ! Hãy sáng cho chính mình là đủ rồi. Cuộc đời có ai thương mình ngoài mình thương mình ra. Anh hùng và ti tiện, kẻ tháng và người thua cũng đều bình đẳng với nhau dưới mồ. Cuộc đời ngắn ngủi. Bản thân cuộc đời không có giá trị gì. Người thông minh là người biết tạo ra cái vui trên cái không có giá trị ấy. Đày đọa thân mình làm gì cho nhọc xác. Mát bên trái hắn nhìn sự vật rạch ròi ra, nhưng mắt bên phải lại tối xầm lại. Trái tim hắn cũng chia hai phần nóng lạnh không rõ ràng.
 Và rồi sự giằng xé ấy hứng đón cả cuộc tổng tấn công Mậu thân. Như một chi tiết máy, hắn vận động cùng với guồng. Vận động vô tri và xọc xạch. Đồng đội ngã xuống nhiều. Hắn vẫn sống. Kẻ thù phản kích ác liệt. Hắn vẫn sống. Nhưng cái buổi sáng quái ác hắn và đội trưởng ba Xuân, người thay thế viên đội trưởng cũ, bị bủa vây bốn phía không còn một tấc sắt trong tay thì cái chi tiết mấy ấy bị văng ra. Những ngày trong khám tối, phần lạnh đen trong tim hắn đã hoàn toàn ngự trị. Hoảng hốt, không còn biết phải bám víu vào một cái gì nữa, hắn chỉ cần sự hiện diện của mình trên mảnh đất này, hiện diện dưới dáng vẻ nào cũng được, miễn là tồn tại. Và tối hôm ấy, để mặc người đội trưởng bê bết trên vũng máu của những trận đòn thù, hắn gõ cửa xà lim để xin được bước sang một thế giới khác. Giây phút cuối cùng, hắn còn kịp nhận thấy đôi mắt của người bạn tù trân trân nhìn mình. Đôi mắt...
 Bước chân hắn vẫn đếm ngạch trên hè đường. Đã tới giờ hắn cần có mặt ở công sở để nhận báo cáo. Có lẽ tới đây phải xin thiếu tướng đặt một trụ sở riêng hoặc tự chọn địa điểm liên lạc với tay chân cho tiện làm việc. Hắn rất cần đơn độc. Hay nói đúng hơn, hắn không muốn tiếp xúc nhiều với những nhân viên an ninh cùng phòng. Họ cười đó, nói đó, tâng bóc hắn om xòm đó nhưng vẫn thấy giả tạo thế nào. Không ít làn hắn đã thấy những ánh mắt càu cạu thoáng chút giễu cợt hướng về mình. Láo trung tá trưởng phòng có lần vỗ vai Hắn thật mạnh: “Chú mày làm ăn khá đó. Mới nhập cuộc có hơn nửa năm mà đã có vẻ con nhà lắm. Ráng lên! Cứ đà này chỉ vài tháng nữa là chú mày vượt đàn anh dễ ợt”. Hắn bỗng thấy tê tái. Sao hắn có thể vỗ vai mình như vỗ vai một kẻ làm thuê như vậy được? Mình có phải em út của hắn đâu mà đàn anh với chẳng đàn em? Mà lại rặt một bọn giỏi chơi gái hơn giỏi đánh đấm nữa chớ. Mình trở về đây như trở về với một chính kiến kia mà. Ngấm ngầm, hắn một bên và đám người kia một bên, khinh ghét lẫn nhau. Hắn còn tím ruột với câu nói của đại úy Thuấn, nghe nói sắp là con rể của tướng đô trưởng “Cốt cách của người lính, dù ở phe phái chính trị nào, là ở cái bền. Thiếu tá ráng ở với chúng tôi bền bền một chút nghe”! Quái! Nó ám chỉ gì vậy? Bất cứ một thằng oắt con nào cũng giám giở giọng dạy bảo, xỏ lá ra với Hắn sao? Hắn hụt hẫng nhưng Hắn nén nhịn. Thực tâm hắn chỉ muốn về với căn nhà trong ngõ vắng ấy làm một người chồng bình thường. Nhưng ngay ngày hôm sau khi trở về hắn được đủ các quan chức gặp mặt, báo chí hỏi han. Thế rồi sau một tháng được du hí thỏa thích ở Cấp, ở Đà Lạt, người ta mời hán về Sài Gòn làm việc. Còn từ chối sao được nữa. Chỉ cần một cái nhăn trán bướng bỉnh thôi là Hắn tức khắc phải quay lại khám tối để suốt đời nghe chin chít tiếng chuột gặm những vấy máu trên tường, ừ, thì nhận, chậm rãi tính toán sau. Nhưng người ta đâu cho hắn thì giờ tính toán. Một tuần sau hắn lại trở thành một chi tiết trong guồng máy khác, cồng kềnh hơn. Thỉnh thoảng vào những đêm trằn trọc, Hắn mới thảng thốt nhớ lại những năm tháng ở rừng. Hắn giật mình và cố không bao giờ để suy nghĩ của mình buông trôi như thế nữa...
 Chính lúc này, Hắn gặp ông thầy bán thuốc nam. Hắn bỗng rùng mình. Và cố tự biện hộ rằng đó không phải là Xuân, người đội trưởng có đôi mắt kì lạ cùng bị bắt với hắn. Rằng đó chỉ là một gã người Thượng mặt mày nhăn nhúm không hơn không kém. Xuân đang bị treo giò trong rừng già núi thẳm kia mà. Đến khi biết gần như chắc chắn là Xuân rồi (gần thôi) hắn lại muốn lẳng lặng bỏ đi. Hắn sợ con người này như sợ chính cái bên trong u uất của con người hắn. Anh, với vẻ người lam lũ, đã như một bóng ma phủ chụp lên giấc ngủ của hắn. Không! Hắn không muốn biết sự có mặt của anh trong thành phố này. Hắn đã từ bỏ tất cả để không nghe, không nhìn thấy gì cả rồi kia mà. Tại sao anh lại cứ xuất hiện trước mặt hắn với đôi mắt như thế. Hắn thật sự không muốn chạm trán với anh, dù cho hắn chỉ cần búng tay một cái là cái hình hài méo mó kia sẽ bị bầm dập tan tành ngay. Nhưng cái bóng ấy vẫn ngày ngày lởn vởn trước mặt hắn. Đã nhức nhối lắm rồi, hắn muốn quên đi tất cả kia mà. Mi không cho ta cái quyền được quên nữa hay sao? Thế là hắn nổi điên lên và nhất quyết phải tiêu diệt con người này như tiêu diệt chính cái bất ổn trong con người hắn. Bỗng nhiên hắn cho rằng tất cả những nỗi khổ sở vừa qua, không ai khác, chính là do anh gây ra.
 Giữa khu chợ đã vắng người, anh tỉ mẩn thu dọn đồ đạc để đi kiếm một bữa ăn trưa. Nước da anh nhăn nhúm, cặp môi anh thâm đen và bàn chân to bản cóc cáy những vết nứt rạn. Với cái cười chất phác, anh lầm dầm đếm lại số tiền kiếm được từ sáng đến giờ ở cái chợ Thủ Đức này. Vuốt thẳng lại những đồng tiền năm chục, một trăm tờ cũ tờ mới. Anh lơ láo xò xét xung quanh rồi đút tụt vào túi áo trong. Vậy mới ổn. Lơ mơ kẻ gian nó lấy mất. Vẻ thỏa mãn hiện lên trong mắt anh. Cũng cẩn thận như thế anh lôi từ túi áo bên trái một gói thuốc rê lôm xôm xanh lè đưa lên mũi hít hít. Định xé một miếng giấy cuốn nhưng chợt nhớ ra, anh lấy từ trên mang tai một điếu thuốc thơm không rõ loại gì lóng ngóng gắn lên miệng. Rõ ràng điếu thuốc sâu kèn đầu to đầu mút nó quen thuộc với anh hơn. Anh thận trọng đốt lửa rít một hơi và ngửa cổ thở ra khoan khoái. Bà má bán hàng bên cạnh nhìn anh tủm tỉm. Anh gửi bà mấy bó lá cây thuốc rồi phủi tay đứng dậy.
 Ngơ ngác trước một quán ăn nhỏ nhất, bày biện sơ sài nhất nhưng lại đông khách nhất, anh rụt rè đi vào tìm một cái bàn ở góc phòng đày những vết nhờn nhẫy của biết bao lưng người tì chịn ở trên tường, ngượng ngập ngồi xuống, ông chủ quán dáng cao, có hàm râu rất phong trần cười như lệnh vỡ:
 -Cha! Bữa nay bộ ông bán hàng chạy hay sao mà ghé quán tôi vậy? Nào! Xài thứ gì cho biết? Làm bậy một xị nghe.
 -Dạ. Tui còn phải đi mà - Anh trả lời bẽn lẽn, mặt đỏ trước những cái nhìn thích thú của mọi người - Chú cho tôi xin đĩa cơm.
 -Được! Không sao. Quán này bình dân mà. Ăn cỡ nào cũng được hết. Lát sau ông mang đến cho anh một đĩa cơm đày ụ, trên có mấy miếng thịt heo rán vàng rộm, thêm một chút nước rưới và vài củ hành non búng.
 -Ông có mang theo cho tôi lạng sa nhân tôi dặn không đó?
 -Dạ! Có chớ.
 -Ngon heng! Mụ nhà tôi mà mê thứ thuốc tiêu mỡ của ông bạn lắm đó. Còn, để cho liều nữa đi. Giá cả khỏi bàn - Dựa vào những tiếng náo nhiệt đang nổi lên khắp phòng, ông đổi giọng trong khi thoăn thoát thu bát đĩa trên bàn - Tư Thanh đến rồi đó. Chút nữa ông quay lại - ông vung tay - Bộ ông bạn muốn lấy vợ Thủ Đức hay sao mà bữa nay ăn vận dòm chững chạc “dậy”?
 -Vợ con chi nữa chú. Tồi vầy ai thèm ngó.
 Anh ngúc ngoắc đầu trước một vài tiếng cười vui vẻ và vẫn ăn ngốn ngấu từng thìa cơm đầy, thỉnh thoảng lại cắn một miếng ớt to. Anh ăn ngon lành không để ý gì đến xung quanh như nhịn đói đã lâu. Mùi xào nấu từ trong bếp bay ra ngào ngạt khiến anh nhỉnh nhỉnh cái mũi. Chỉ đến lúc đó có một người đi qua đụng khẽ vào chân, anh mới ngẩng lên. Đó là một người trung tuổi ăn mặc quý phái, trán hói, nước da hồng hào, đeo kính trắng, dáng bộ bệ vệ như một chủ hãng buôn ở Sài Gòn ghé qua. Thấy người này, ông chủ quán vội vã chạy ra:
 - Thưa ông! Chúng tôi đã làm xong món nem. Mời ông vào nhà trong. Tôi đã cho cháu đi lấy la-de.
 Người này lặng lẽ gật đầu đi vào căn phòng nhỏ dành riêng cho loại khách sộp.
 Phòng ngoài, người bán thuốc đã vét đến thìa cơm cuối cùng, Miệng nhai chóp chép, anh đứng dậy móc tiền ra đếm.
 - Tui trả tiền chú!
 Ông chủ quán quay lại xua tay:
 - Thôi! Ăn uống chút chút vậy, tiền bạc cái nỗi gì. Cái công chữa bệnh cho con nhỏ con tôi còn chưa trả được đây. Bữa nào đi qua cứ ghé vô, ăn nhậu thoải mái, đừng ngại gì hết trơn.
 -Dạ!... Chú cứ cho tui trả mà. Tui có tiền, nhiều tiền.
 -Rồi! Muốn trả thì còn nhiều dịp. Bây giờ chú vô trong nhà nghỉ đỡ đi, nhân tiện chờ bà nhà tôi về xem có nhờ cậy chú thuốc men gì không. Nói thiệt! Nhờ thuốc của chú mà mụ trông đỡ lắm. Hà! Hà.
 Người bán thuốc lưỡng lự một chút rồi xách túi đi vào. Sau anh, khách ăn uống vẫn tấp nập vào ra. Dân buôn ở xa đến ghé vào tiệm ăn nghỉ cũng là chuyện thường, không ai để ý, ông chủ quán mồ hôi đã vã đầy mặt nhưng không ngớt nói cười rổn rang. Có lẽ người ta ưa cái giọng cười sảng khoái của ông hơn chính những món nhậu ông làm.
 Phòng trong này nhỏ, thông với phòng ngoài bằng một tấm rèm ni lông ken xít. Người từ trong nhìn thấu tận đường nhưng người ở ngoài nhìn vào mù tịt. Góc phòng có một khuôn cửa nhỏ ăn ra sân, từ đó có cái ngách một người đi lọt dẫn tới phía sau chợ, có ruộng vườn kín bưng.
 Đến trước ông đeo kính, người bán thuốc hỏi luôn:
 - Sao chú Tư? Mong chú hoài.
 -Ngồi xuống đi! - Người này nói nhỏ nhưng rành rẽ - Bộ tư lệnh đã thông qua phương án đánh vào khu cư xá sĩ quan không quân Mỹ của cậu. Nhưng có một điểm cần xem lại: đóng giả một tổ quân cảnh rượt bắt du đãng qua cửa cư xá có ổn không?
 -Ồn! Rất ổn. Hàng ngày bọn quân cảnh thường chia từng tốp tuần tra quanh cư xá, thậm chí có thằng còn mời thuốc bọn Mỹ đứng gác cửa nữa mà.
 -Mình biết. Mình cũng đã có đi qua. Nhưng cách đó cũ rồi. Thằng phản bội có cách đánh nào của ta mà nó không nám được.
 -Chính thế mà tôi dùng cách này. Trong khi thằng Xanh dấn sức đề phòng một cách đánh khác, mới hơn mà nó chưa trải qua thì ta bất ngờ quay lại cách đánh thô sơ, nhất định nó không kịp đề phòng.
 -Táo bạo nhưng còn phiêu lưu. Rất có thể kẻ thù cũng suy nghĩ trùng với ta. Nên nhớ đây là trận đánh lớn, phải thắng mới gây được lòng tin trong quần chúng, mới tạo đà cho những trận sau. Cậu thử nghiên cứu kĩ lại coi.
 Xuân hỏi nhỏ:
 - Đâylà ý kiến của chú hay của Bộ tư lệnh?
 -Của Bộ, tất nhiên trong đó cớ tôi.
 Tiếng nói của Xuân chìm đi:
 - Đảng vẫn chưa tin tôi.
 -Nè! Cậu nói cái gì vậy?
 -Tôi biết tổ chức vẫn chưa tin tôi. Chính ra tôi không nên xung phong đánh trận này và chú cũng đừng ủng hộ tôi. Một thằng vừa ở tù ra mà.
 -Đừng có nói tầm bậy! Tin hay không, không phải ở cái dám đánh hay không dám đánh mà điều chính yếu là phải đánh tháng.
 Nhà ngoài, có tiếng ông chủ quán nói to:
 -Chu cha! Bữa nay lại có cả mấy thầy ghé quán. Hân hạnh quá! Mấy thầy dùng chi cho biết, tôi xin hầu tiếp. Nhỏ đâu! Chạy sang bà Tư mập lấy một lít đế thiệt ngon nghe mầy!
 Chú Tư lấy kính đeo vào mắt.
 - Ngồi lâu đây bất tiện, sáng mai cậu gặp tôi ở căn nhà số 1 tại Búng bàn thêm. Có thể cậu nói đúng.
 Nói xong, ông đứng dậy nhón một cái tăm rồi thong thả đi ra. Xuân cũng lẹ làng tuồn theo ngách nhỏ ra bưng.
 Nắng xế trưa gay gắt, cả đồng bưng không còn có một ai. Tìm một vạt cỏ khuất dưới lùm cây lúp xúp, anh đặt lưng nằm xuống. Trên cao, một vài đám mây trắng xốp lững lờ trôi. Anh nhắm mắt lại. Phải như khi khác thì anh đánh thẳng luôn một giấc tới chiều. Ngủ ở đây hoàn toàn bảo đảm cũng như ngủ ở đầu hè xó chợ mọi khi. Nhưng anh làm sao mà ngủ được. Có đúng vậy không? Mấy anh không tin mình hay phương án mình đưa lên không chuẩn? Ngày trước có đâu đến nỗi phương án hai, ba lần đưa lên đều bị gạt như thế này. Ngày đó anh là một đội trưởng có uy tín, phụ trách hai vùng Tây và Nam đô thành. Bây giờ anh chỉ còn là một trinh sát viên bình thường, phải nằn nì mới được vào trận. Cái buổi chiều quái ác trong đợt tiến công cuối cùng ấy, giá anh không bị thương! Giá thằng Xanh đừng rời vị trí hỏa lực của nó, giá mà... Nghĩ đến cùng, những ngày bị đưa đi hết nhà tù này đến nhà tù khác, anh chưa có một câu nào, một cử chỉ nào làm tổn thương đến cách mạng, đến đồng đội. Biết anh là người chỉ huy biệt động, chúng đã không từ một thủ đoạn nào hòng làm anh lung lạc, kể cả sử dụng tên phản bội Hoàng Xanh. Nghị lực và ý chí của anh vón cục lại, ấn chìm lắng sâu, cái còn lại là một thân xác tả tơi, rách nát và bình thản. Chỉ có một làn anh đã không nén được sự uất hận khi thằng phản bội mang non thiếu tá sáng sớm vào khám mời anh lên lầu uống cà phê. Cũng may, nếu không có hàng rào cHắn B40 cản lại thì cả nó và anh đều lăn xuống mặt đường cao 50 mét rồi. Tên phản bội không chết thì anh phải chết. Luật trả giá đó tưởng áp dụng vào anh khi chuyến tàu chở tù đi Côn Đảo đã há mõm chờ ở bến. Chính cái quân cảng lộn xộn lính tráng và ngổn ngang sát thép ấy đã giúp anh nhảy vào lòng nước trốn chạy. Đằng nào cũng chết. Nhưng lại sống để ngày hôm sau đã lẻo khẻo có mặt ở hậu cứ. Màu xanh cây rừng và hơi thở nồng ấm của dòng sông đã nhanh chóng hồi phục thể lực trong cái thân hình ọp ẹp của anh. Chính vào cái nhức nhối khác ập đến. Cuộc tẩn công vừa rồi đã bộc lộ gần trọn các lực lượng biệt động trong thành phố, nay thằng Xanh lại điên cuồng dẫn lính đi triệt phá những cơ sở còn lại. Sự tổn thất đau xót đó khiến cho một số người, ngay cả trong bộ phận chỉ huy, bắt buộc phải nhìn lại những ngày trong tù của anh. Và quyền đội trưởng đội biệt động của anh bây giờ là một cán bộ đứng tuổi tạm bổ sung từ bên quân báo sang. Buồn, anh treo võng suốt ngày thở khói thuốc rê vào vòm lá. Một mình sống sót trở về, biết ai làm chứng cho bây giờ. Một chiều nước lớn, chú Tư Thanh tìm đến lán của anh và như những ngày xưa, chú chân tình tâm sự với anh tới tận lúc con nước bắt đầu ròng. Chú buồn bực báo rằng dưới đó độ rày chúng kiểm soát gắt gao quá, để làm ăn nhưng không lọt, nhiều người đã không trở về. Không thể ngờ thằng Xanh lại phát huy được bản chất xấu xa của nó đến cao độ như vậy. Trong thành đã lâu lắm rồi không còn nghe được một tiếng nổ lớn nào nữa. Bà con thất vọng, kẻ thù càng được dịp tuyên truyền khoác lác. Chú nói bằng giá nào cũng phải tạo nên một tiếng nổ ra trò. Rất có thể lần này, chính chú sẽ đi thử một chuyến. Ngồi trong rừng hoài, đau đầu. Nghe vậy Xuân chồm dậy.
 - Chú còn tin ở tôi không?
 -Tin chớ!
 -Tại sao các chú lại xử tệ với tôi như vậy?
 Đừng nóng. Nguyên tắc là nguyên tác. Làm cách mạng là phải có gan chịu sự chi phối nguyên tắc cách mạng. Nguyên tắc đó có khi thuận, có khi nghịch, người thực sự là cách mạng phải biết vượt lên trên nó. Đừng vội vì một chút cái thuận, cái nghịch đó mà hí hửng hay kêu rên. Bản lãnh thằng lính biệt động cũng là ở chỗ đó. Trong cuộc đời nhiều khi cũng nên chịu sự vấp váp nhọc nhằn một chút, con người sẽ chững chạc lên. Cái gì cũng thuận cả có khi hỏng người. Nhất là những lúc gian nan, ai cũng đầy áp những tâm tư như thế này. Cứ tạm nghỉ ngơi đi! Kẻ thù còn đó, cậu còn dư thời gian chứng minh lòng dạ của mình. Có một điều: cậu không được nghĩ tụi mình đánh đồng cậu với thằng Xanh nghe! Một bài học đau xót cho tất cả chúng ta. Chúng ta còn dốt quá! Vùi đầu vào đánh giặc, ta chỉ thông thạo quy luật chiến tranh mà ngây thơ về quy luật tình cảm con người.
 Thôi nhé! Mắc võng thấp xuống cho đỡ kích.
 Xuân đốt thuốc liên miên để mặc cho cái chân xương xẩu của chú Tư đặt ngoéo lên bụng mình... Không chờ cho trời sáng, cùng với tiếng chim kêu, anh lay người tư lệnh phó dậy.
 - Tôi nghĩ kĩ rồi chú Tư. Để cho tôi đi. Tôi sẽ có cách đối phó với chúng nó, với tâm địa của thằng Xanh. Tôi sẽ gây được tiếng nổ. Xin chú nói với Bộ hãy giao việc cho tôi. Nguyên tắc cao nhất lúc này là gây được tiếng nổ vô sọ chúng nó. Đảng có thể còn nghi ngờ tôi nhưng Đảng đừng bắt tôi ngồi không. Bằng chính cuộc sống của tôi và của vợ con tôi, tôi xin đảm bảo với Đảng.
 - Có tin gì của má con nó không? Chú Tư trầm ngâm hỏi.
 -Nghe nói nhà cũ bị bom phá hư, bây giờ chuyển đi đâu không rõ. Không hiểu có bị bắt bớ giết chóc gì không? Mà thôi, đừng tính tới chuyện đó nữa. Gặp vợ con lúc này đâu có lợi. Để làm ăn cho được một trận rồi tính. Chú Tư cũng ngồi dậy, nhìn mãi ra cái vạt lau mọc cô đơn bên sông.
 Trở về chỗ ngồi, lòng dạ anh cứ rối bời như thế. Đến nỗi mấy bà, mấy cô bạn hàng phải nháy nhau chăm chú nhìn. Sao vậy cà? Chắc lại bị thằng khốn nào đó lừa rồi. Thiệt khổ! Con người hiền lành tốt bụng thế cũng không ở yên được với cái thời buổi này. Hay là bị móc túi? Họ chép lưỡi, thở dài nhìn anh thương cảm. Chợt bắt gặp những cái nhìn đó, anh vội rảo bước, trên môi lại thoáng hiện một cái cười ngờ nghệch.
 Tới bên bà, má bán bánh trôi nước, anh nói lí nhí:
 - Má cho tôi xin lại mấy bó thuốc. Có ổ bánh mì, má mang về cho thằng nhỏ ăn chơi.
 Bà má níu anh ngồi xuống.
 - Cám ơn chú! Bữa nào gặp là cũng quà bánh. Chú ngồi xuống ăn chén bánh rồi đi.
 -Dạ, tui ăn hết nổi rồi. Cái bụng nó nhỏ, đĩa cơm nó lớn mà.
 -Nè chú! - Bà má nhìn anh sang bên kia đường, nói nhỏ - Tôi không biết chú ngay hay gian nhưng từ lúc chú đi đến giờ, có mấy người ngồi ở tiệm cà phê bên kia đường cứ ngó lom lom sang. Ráng cẩn thận nghe!
 Một chút nữa thì anh quay phát đầu nhìn lại đằng sau.
 - Ráng cẩn thận nghe chú! Bà má lại dặn - Tôi cũng không biết họ là loại người nào nhưng giữ mình vẫn hơn. ôi chao! Tháng trước cũng ở chợ này, họ dẫn qua một người nói là Việt cộng hay phá hoại gì đó, máu me đày mặt.
 -Cám ơn má. Nhưng không sao đâu má - Anh đứng dậy vươn vai nói to. Bánh của má ngon, muốn ăn nhiều. Nhưng tui phải đi đây. Nhớ cái nhà, nhớ con vợ nhiều hơn.
 Nói xong, anh xoay lưng bước thấp bước cao đi dọc chợ, cái tay nải đập đập vào tấm lưng ố nhòe mồ hôi.
 - Mua kí lô bánh về làm quà cho sắp nhỏ ông thầy ơi!
 -Vải bền lắm. Mua ít thước về làm quà cho bà xã ở nhà đi.
 - Thứ nón nỉ này rẻ lắm chú.
 Anh chỉ dạ dạ đáp lại lời mời chào của những người bán hàng mà không dừng lại. Giả đò cúi xuống thát lại nút tay nải, rõ ràng anh nhìn thấy có những con mắt người, có những con mắt kính đang bám nhằng theo mình thật. Chẳng lẽ chúng nó lại phát hiện ra? Mình có để xảy ra điều gì sơ suất không? Hay là lại thằng Xanh? Thằng Xanh... Đáng nhẽ anh phải bóp chết con chó ghẻ ấy khi bất ngờ đụng nó ở chợ. Phải chăng... Bao nhiêu câu hỏi quay lộn trong đầu anh. Đến một đám đông xúm quanh một người đang nuốt kiếm, anh lách nhẹ vào và lợi dụng những cái đầu đang ngó nghiêng, phóng mắt nhìn trở lại. Từ trong tiệm cà phê bên kia đường, có hai gã đàn ông nhao ra, nhớn nhác nhìn về phía anh.
 Lộ thật rồi! Thế có khốn nạn không? Anh lặng người. Biết chắc hai gã đàn ông đang đi nhanh lại phía mình, anh khéo léo chen sát vòng người trong cùng và ngồi thụp xuống tỏ vẻ thích thú tột độ khi nhìn lưỡi kiếm sáng loáng đang từng nấc chui tụt vào bụng người mãi võ. Chờ cho tiếng hò reo tán thưởng vang lên, anh lết sang phía đối diện, bên kia vòng người và lách luôn ra ngoài. Chắc chúng nó đang tìm ở chỗ cũ! Anh đi thẳng vào chợ.
 Sự việc này khiến anh thay đổi kế hoạch. Gấp rồi, không cần trinh sát lại mục tiêu nữa. Sáng mai gặp chú Tư, anh đề nghị cho đánh ngay. Đành phải đánh trước ngày lễ kỉ niệm “Một năm ngày chiến thắng Mậu Thân” của chúng nó. Cứ đánh theo phương án đó. Lúc này mà còn chần chừ là đổ bể hết.
 Ngồi trên chiếc xe lam chật ních người xuôi về Sài Gòn, anh cứ trừng trừng nhìn xuống mặt xa lộ, quên cả hiện trạng của mình. Anh không thể hay biết rằng, trong cái đám người lố nhố ngồi ăn bưởi ở ngã tư Hàng Xanh có một kẻ vụt đứng dậy trèo lên Hon đa, nổ mấy bon theo.
 Sao bây giờ hè? Anh vẫn loay hoay chưa quyết được. Có thể nhảy xe ở Ngã Bảy lên Lái Thiêu nghỉ tạm đêm nay rồi sớm mai, nếu yên ổn được đến chỗ hẹn. Nhưng... Còn thằng nhỏ và người mẹ ấy? Thằng bé bị sưng phổi! Anh đã nhận lời với má nó tối nay quay lại nhà cho thuốc lần cuối. Trời! Cái thân hình nhỏ nhoi nóng hầm hập... Tiếng ho non nớt đến não ruột... Anh cần phải quay lại! Bằng giá nào cũng phải quay lại. Biết đâu ngày mai... Anh mềm người ra. Thế là đáng nhẽ phải xuống ở ngã Bảy, anh lại xuống luôn ở đầu đường Phan Thanh Giản, sau khi biết chắc không có ai bám theo mình. Nhưng kẻ thù khôn khéo không để rớt mục tiêu. Nó đang đậu ở cây sáng cách đó không xa.
 Đáng nhẽ anh không nên đến đây. Không nên đến ngôi nhà này.
 Đêm qua anh đã tự vượt được mình, còn đêm nay? Anh không biết. Anh không muốn biết. Đáng nhẽ trưa nay trong tiệm ăn, anh phải thú thật tất cả với chú Tư. Nhưng anh đã im lặng, đúng hơn là cần phải im lặng. Anh không muốn cấp trên thêm nghi ngờ nọ kia. Im lặng đến đây và bây giờ im lặng lãnh đủ những giằng xé tưởng không chịu đựng nổi.
 Gian bên, chỉ cách một tấm vách mỏng ghép bằng vỏ đồ hộp, chị vẫn bế con đi lại lặng lẽ. Thằng bé đã đỡ nhiều, tuy vậy gian nhà hầm hập nóng cũng khiến nó ọ ẹ thức giấc luôn. Ngoài đường, xe hủ tiếu bán muộn nhất đã lọc cọc đẩy về nhà. Thỉnh thoảng một chiếc xe quân sự phóng vút qua hoặc tiếng giầy của lính quân cảnh gõ uể oải trên mặt đường. Đèn pha từ quân cảng quét những lưỡi sáng dai dẳng lên bầu trời, liếm qua những kẽ hở vào trong phòng loang loáng. Ngột ngạt. Mỗi làn xe rền bánh, đứa bé lại bật khóc. Tiếng chân người mẹ bước nhanh hơn. Đứa bé lịm dàn trong tiếng ru dịu ngọt...
 -... À ơi... Cha con đánh giặc phương nào - Nắng mưa bao bận mẹ thao thức chờ... À ơi!
 Lời ru quấn chặt lấy ngực anh xiết mạnh. Anh vùi đầu xuống chiếu. Tiếng ru vẫn lan tỏa vô tình.
 -... Ngày ngày ra đứng bờ bưng - Nhìn sông sông chảy, nhìn rừng rừng xa...
 Anh lật người trở lại. vết đòn tra cũ trên đầu nhức ong ong. Không có gì đâu. Không sao đâu. Trở trời đó thôi. Anh tự nhủ và cố nhám nghiền mát lại. Nhưng mí mắt cay sè.
 -... Bao giờ con biết gọi cha - Bao giờ con biết ba ơi ba về... À à. Ngủ đi con. Ngủ ngoan đi con. Má thương! Má thương con nhiều mà. Sớm mai má mua cháo nè! Mua kẹo nè! Mua bánh nè! Mua thật nhiều thứ cho con ăn. Ăn no mau lớn, ba về...
 Tiếng nói của bà mẹ khoan sâu vào lòng anh. Lại như cơn gió lớn thổi đầu óc anh bay lên chơi vơi. Bằng giấc ngủ, anh cố xua đi những vùng hồi ức ủ dấm trong người từ lâu cứ dồn dập hiện về, rõ nét...
 ... Chiếc xe chở thuốc nổ lừ lừ áp sát vào tòa nhà đang tỏa ra ánh đèn trắng lóa. Ngồi trước tay lái, anh hất đầu ra hiệu. Hoàng Xanh với bộ rằn ri lính dù, bật người đứng thẳng trên thành xe lia những loạt tiểu liên ngán. Bóng những thằng Mỹ to cao đứng trước cổng tòa nhà rạp xuống. Anh giật nụ xòe, phóng người nhào xuống đường. Đạn găm chiu chiu xung quanh. Chiếc xe vẫn lừ lừ tiến đến như con trâu say. Xanh vừa lùi vừa nhả đạn, miệng cười tươi. Bóng Xanh đã khuất ở đầu phố. Thoát! Men theo những gốc cây, anh chạy mang theo nỗi chờ đợi đến mụ người. Một tiếng sét giáng xuống kinh hoàng. Vỡ đổ ầm àm. Anh bị bốc lên cao, rồi quật mạnh xuống đất. Nổ rồi! Trời! cả trăm thằng chứ ít đâu. Vùng dậy. Một thân xác nặng nề chồm lên. Khét nồng. Tiếng còi rú lộng óc. Khói cay sộc vào mũi. Vùng dậy. Hai bóng đen từ phía trước bổ tới. Lẩy cò. Một bóng không động đậy, một bóng tạt vào vườn hoa. Chát! bả vai trái anh sả xuống. Máu trườn xuống đầu ngón tây buồn buồn, ủa! Xanh đâu rồi? Phải yểm trợ cho mình chứ. Cụp cụp! cốp cốp! Một đám đen ngòm đang ào tới phía sau. Cắc! Bỏ mẹ, hết đạn! Anh móc từ ngực ra khối sắt hình cầu lạnh buốt. Reng! Chốt an toàn bung ra, trái tạc đạn bay tới. Lửa bùng lên. Đám đen vợi đi. Tiếng rên la rống rít trộn vào tiếng xi măng gạch ngói rơi vỡ. Anh đã thoát ra ngoài quầng sáng lửa. Máu vẫn trờn xuống, cửa mở! Một bàn tay mềm ấm kéo tuột anh vào nhà. “Má ơi! Má đừng đuổi người này đi. Anh đang bị thương... Ảnh vừa phá sập nhà hàng sĩ quan Mỹ đó”. Giọng ai? Im lặng. Mái tóc bạc lung lay. Bàn tay già nua lẩy bấy gài then cửa. Bàn tay mềm dìu anh vào phòng. Anh đã nằm trên giường mùi chăn chiếu thơm nồng. Tiếng màn buông sột soạt. Tiếng thở mạnh ở mép giường “Ráng nằm im nghe anh. Chịu đau đừng rên. Chút nữa em băng cho” Giọng ai? Im ắng... Đế giầy đảo ngược xuôi trong ngõ. Ánh đèn pin bấm xeo xéo, xanh lét rờn rợn. Đế giầy dừng lại nặng nề “Mở cửa! Mở cửa! cho xét nhà”. Thân hình ai mềm mại nép sát vào anh. Hơi thở nóng ran trong tấm đáp. Nhà ngoài bàn ghế xô nhau. “Bà có thấy ai chạy vô đây không? Hả? Xét nhà!” cửa phòng bật tung. “Ai nằm trong mùng kia?” Có ai đâu, con nhỏ con tôi”’ “Sao lại có hai người? “Dạ, thằng chồng nó đi lính dù về phép”. Giọt đèn dừng lại trong màn xăm xoi nóng như giọt thép. Cánh tay mềm ghì chặt lấy anh. Nín thở... Nếu mày hất chăn ra... Anh nghĩ đến những cú đẩm, cú đạp. “Lính dù à? Má nó! Thằng thì lộn ngược lộn xuôi, thằng thì ôm vợ. MẹiCũng là kiếp lính. Thôi đi! Đừng nói lạp xạp mày. Đừng có dính vào mấy thằng lính dù mà dại. Đi! Đi sang nhà khác” Lặng tờ... Cánh tay mềm luống cuống rời ra. Nửa đêm về sáng, bà má gói cho anh hai ổ bánh mì, cô gái đưa anh bằng lối tát ra sân banh. Anh nhìn cô không nói...
 -... Bao nhiêu cái lạ cái quen Anh mang đi hết còn em một mình...
 Tiếng ru của người mẹ chìm đi trong đêm tối như một lời tâm sự không thể không nói ra. Đứa bé đã ngủ rồi mà sao chị vẫn còn ru? Có phải anh đó không? Sao anh không nói! Người dưng nước lã có thể lầm nhưng đã là chồng là vợ thì sao có thể lầm được anh. Sao anh im lặng. Anh sợ má con em làm hư công chuyện của anh sao? Anh nhẫn tâm quá! Người mẹ ôm con ngồi nhẹ xuống giường...
 ... Sau lần ấy, ba tháng sau anh mới trở lại. Chị không nhận ra anh trong bộ điệu một chủ tiệm may, chủ tiệm đồng hồ nào đó nữa. Anh đã khỏi đau chưa? Đêm ấy em lo quá! -Anh cười. Chỉ có nụ cười là giống như cũ thôi. Em ưa nhìn anh khi cười. Anh có hàm răng đều và đẹp - Sau này chị nói thế. Lúc đó chị chỉ mở to mắt nhìn anh. Em tên gì? đêm ấy anh lú lẫn quên cả hỏi tên. Chẳng may chết đi thì hối cả đời - Chết rồi còn biết hối gì nữa -Em tên gì? Hỏi má ấy - Má ơi! Cô ấy khi con quá! - ôi! Con nhỏ... Nó tên Nhàn, Thanh Nhàn. Tao đẻ nó ra ở Thanh Nhàn tận ngoài Hà Nội kia, mày không biết đâu - ủa! Má quê ngoài đó má? Hèn chi... - Mày bảo cái gì hèn chi? - Dạ! Là con thấy dáng đi dáng đứng, lời ăn tiếng nói của cô cứ... cứ nhẹ như không hà - Ý. Đừng nghe anh nói xạo má ơi - Đừng nghe anh nịnh má ơi. Rồi! tôi không nịnh nữa. Vậy sao má vô đây? Thằng hỏi gì kì. Đói thì vô mần ăn chứ sao. Trước tao ở Dầu Tiếng kia, ông già nó bị mủ cao su ăn lõm xương nằm xuống. Buồn quá! Tao dọn về đây sinh sống qua ngày. Hai đứa bây ngồi đó đi. Tao đi kiếm cái gì cho mà ăn. Cô gái cúi mặt xuống - Nhàn có đi chợ giúp má không? - Em đi học - ủa! Nhà vậy vẫn đi học được sao? - Má thương em lắm. Má không muốn em sau này vất vả như má - Nhàn học mấy rồi? - Em đang học văn khoa. Ý mà em học dốt lắm, anh Xuân hỏi mác cỡ chết! - Đêm ấy Nhàn có sợ không? - Sợ! - Sợ tại sao Nhàn cứu tôi? - Trước kia ba em cũng giấu một chú Việt minh trong nhà... vả lại... Trong một đám đánh lộn, thấy người thân cô thế cô, ai chẳng thương! Tự nhiên thôi. Cái gì cũng phân tích, cũng cắt nghĩa thì đêm ấy anh bị với chúng rồi.
 Anh nhìn chị rất lâu. Mình vẫn còn nhớ như in cô gái trong bóng tối nhập nhoạng hôm đó. Cánh tay mềm ấm vòng qua cổ... Cô ấy có còn nhớ một chút nào không? Hiểu được cái nhìn của anh, cô gái thoát đỏ mặt.
 -Anh nhìn gì em mà nhìn dữ vậy? Nhàn! Tôi muốn chúng ta hiểu nhau hơn. Không! Xin lỗi, tôi không muốn nói cái ý ấy. Tôi... Tôi muốn Nhàn giúp chúng tôi làm một cái gì đó chẳng hạn... Giúp đỡ cách mạng ư? Cô gái thảng thốt và bất giác ngước nhìn lên bàn thờ. Trên ấy khói hương đang tỏa ra thơm thoảng. Cô ấy theo đạo! Anh tự nhủ và thôi không nói tiếp nữa.
 Sau đó thỉnh thoảng anh ghé thăm cô. Lúc trong nhà, lúc ngoài đường. Khi đóng giả người này, khi đóng giả người khác. Và thật tức cười! Chính vào cái lúc cô hồi hộp chờ cái điều anh chàng đạp xích lô máy, mũ phớt chùm hụp, chiếc quàn soóc lửng để hở ra hai đầu gối bánh chè đen cháy. Anh nói anh sắp đi xa, đi học tập cái gì đó tận miệt biên giới. Và trước lúc đi. Nhàn ơi! Anh muốn... Thế là, giữa buổi trưa nắng gắt, anh chàng đạp xích lô máy ấy, trong tiếng nổ ầm ầm và khói um, lần đầu tiên nói thật lòng mình với cô sinh viên thanh tú vận áo dài trắng ngồi đằng trước.
 Điều đó đến, cô không lấy làm lạ. Cũng bởi lẽ, ngay sau cái đêm kì lạ đó, cô đã run rảy chờ đợi nó rồi. Lần đầu tiên ôm một người đàn ông trong tay, lần đầu tiên tiếp xúc với một hơi ẩm xa lạ, lần đầu tiên... Và những giọt máu ấy, những giọt máu thẩm ra chiếc áo bà ba của cô mà cô đã cất kĩ đi, cất kĩ cho sau này, cất kĩ suốt đời.
 Nhưng một chuyện khác cùng đến khiến cho cô ngỡ ngàng. Bằng những câu nói vội trong những lần gặp cũng rất vội, và bằng chính tấm lòng chân thành, mộc mạc của mình, anh đã lộn xộn kể cho cô nghe về những trận đánh, về đồng đội và về cuộc sống trong rừng. Anh nói những nỗi buồn vui, những ước mơ và nói cả những lần cắn răng lại mà sống... Được trớn, anh nói luôn về cách mạng, về kẻ thù, về nền văn hóa đô thị hiện nay, về ý hướng thanh niên lúc này cài gì là thiết yếu và về trăm ngàn thứ khác mà hình như đã một lần lâu lắm, cô đã được ai nói cho nghe. Anh diễn đạt khó nhọc, có khi nổi nóng, có khi tắc lại giữa chừng nhưng cô hiểu cả. Cô chỉ cần được nghe anh nói. Lời nói vụng nhưng chân thật bao giờ cũng có sức thuyết phục. Anh đã cố thuyết phục cô bắng chính cuộc đời gian truân của anh, nên cô tin.
 Cuối cùng anh lại đề nghị cô giúp một vài việc. Lần này cô không ngước lên nhìn bàn thờ nữa, mặc dù nhang khói má vẫn không quên tháp suốt đêm ngày. Thế là cùng một lần ấy, giữa đường phố đầy đồng phục cảnh sát, cô đã nhận lời anh. cả hai điều đều hết sức can hệ đến cuộc đời.
 Đó là vào những ngày Mỹ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào miền Nam. Cùng với những trận đánh tới tấp của đồng đội anh, cô vẫn ngày ngày đến học đường, nhưng trong cái cặp da xinh xinh của cô, thỉnh thoảng lại có một ít truyền đơn, một ít tài liệu tin tức do chính cô thu lượm được khi qua lại những mục tiêu các anh cần. Cô vui lắm! Bỗng thấy mỗi ngày trôi qua có ý nghĩa hẳn lên. Cô hăng say lao vào các cuộc hội thảo, xuống đường, làm báo bí mật. Cô mường tượng mình như là nhân vật chính trong một cuốn tiểu thuyết lãng mạn vào đó đang xả thân cho tình yên và sự thật. Cô đã được gặp chị phụ trách tổng hội sinh viên. Con người ăn nói mới rắn rỏi làm sao. Cô muốn được như chị. Cô cũng đôi bận được đưa đón mấy chú ở ngoài vào, ở trong ra. Chị phụ trách nói cô ráng đừng để lộ mặt còn hoạt động lâu dài. Cô nghe lời. Cô muốn làm được thật nhiều việc, những việc thật kì lạ nữa để khi anh về có chuyện nói với anh. Anh đi xa đã quá nửa mùa khô rồi. Đêm nào cô cũng nghĩ đến anh như nghĩ đến những điều ngọt ngào nhất.
 Giờ này anh ở đâu? Anh có biết không, em không muốn đi học nữa. Cũng không muốn hoạt động dấm dúi thế này mãi. Không phải em thích đánh nhau đâu, man rợ lắm. Nhưng em muốn được như anh, ở sát cạnh anh trong những trận đánh. Chết em không sợ, bị thương, bị bắt em cũng chẳng run. Em chỉ sợ sự lẻ loi. Soi vào anh em muốn tự hiểu mình. Anh Xuân!
 Em yêu anh! Yêu ngay từ ngày đầu gặp anh. Em muốn hòa tan vào anh. Muốn anh nhỏ lại, thật nhỏ để cho em được bế được bồng, được hoàn toàn độc quyền anh. Nếu không, chính em sẽ bé tí xíu để anh phải chiều em, phải chịu đựng những nhõng nhẽo triên miên cúa em.
 Vắng anh, cô gái mới yêu làn đầu cứ thì thầm đêm đêm như thế. Cũng có khi, cô đã phạm phải hai điều sai làm như hàng ngàn điều sai lầm khác mà tuổi trẻ thường phạm phải. Lần thứ nhất cô đã nhảy ra tranh cãi quyết liệt với viên hiệu trưởng khi hắn đang thao thao phủ nhận vai trò của những người Việt minh trong kháng chiến chín năm. Viên hiệu trưởng ngớ ra ngồi im lặng. Nhưng cái máy ảnh nhỏ xíu trên tay một sinh viên ăn lương của Tổng nha đã chớp. Lần thứ hai, cô leo tuốt lên sân thượng tung truyền đơn giữa giờ ra chơi. Truyền đơn bay rất đẹp nhưng cô đã tự bộc lộ mình ở tầng cao đó. Trong khi sở mật vụ đang lập hồ sơ để theo dõi cô sinh viên có học lực ưu tú đó thì cô được tổ chức cho tạm lánh. Một đêm thao thức không ngủ. Sáng hôm sau cô xin phép má đi thăm một nhà chị em có đám tang ở tỉnh xa. Má gật đầu gói gém quần áo cho con gái. Cô gái cắn chặt môi. Khi lên xe rồi mới bật khóc nức nở. Má ơi! Má thương con, má đừng giận con. Nếu con nói thiệt má chẳng nghe đâu. Má chỉ rầy con học hành vừa vừa kẻo độ này ốm quá. Tuần nào má cũng đi chùa, một con sâu, con kiến má cũng không nỡ hại, một lời nói dối má cũng chẳng phạm bao giờ.Má thường dạy con như thế. Và cô gái cứ khóc sướt mướt theo đường như đi dự đám tang thật.
 Xe dừng. Núi Thị vải mờ mờ hiện ra cùng với những đám mây trôi lênh đênh ra biển.
 Những ngày ở hậu cứ là những ngày hết sức mới mẻ đối với cô. Không ngờ dãy núi âm u nhìn xa như muôn đời hoang vắng này lại có một thế giới người. Những con người mặc một màu áo, mang một màu da như nhau. Những con người xa lạ khi thoạt gặp nhưng lại ấm áp gần gũi chỉ sau ba đôi câu chuyện trò. Dần dần tất cả những điều rối rắm anh kể được hiển hiện ra trước con mắt ngỡ ngàng của cô. Họ đấy! Những con người cách mạng thật sự đấy. Chú Tư ơi! Tất cả đây đều là Việt cộng sao? - Thì cháu cũng là Việt cộng từ lâu rồi đó thôi. Cô gái chóp chóp mắt. ôi! Còn anh? Anh đã trở lại Thành chưa hay vẫn còn ở trên miệt rừng xanh nước độc? Liệu anh có biết mình đang ở đây không?
 Nhưng những phút lắng qua rất nhanh. Cuộc sống khấn trương ở hậu cứ cuốn cô đi. Lần đầu tiên cô gái con nhà theo đạo ấy ăn cơm chỗ đông người, hát bài ca cách mạng và họp hành phát biểu tối ngày mà không sợ ai ghi tên, ai chụp ảnh. Tuy phải một cái bực nhất là người nào cũng che mặt chỉ được hé mỗi con mắt. Anh nào đó phát biểu trúng quá nhưng chẳng hiểu già hay trẻ? Chị ngồi kia ngâm thơ tiền chiến ấm thiệt nhưng ngoài cái thân hình nhỏ thó ra, còn lại chẳng biết một tí gì. Rồi đến bữa, cũng có người mang cơm đến từng lán, im lặng. Hết ngày về lan riêng của mình được bỏ mạng ra nhưng trời cũng vừa sụp tối. Nhưng vẫn vui. Hai tháng trời trôi vụt qua lúc nào không hay. Đêm trong rừng hơi lạnh. Gió lao xao bất tận. Cô ao ước được gặp lại anh. Em bây giờ khá lắm rồi nghe anh! Em hiểu ra nhiều điều lắm, anh không biết đâu. Nếu chịu khó, anh cứ ngồi cả ngày nghe em diễn giải cũng không hết. Cứ gọi là lé mắt.
 Tháng cuối cùng theo lời năn nỉ từ đầu, cô và vài người nữa được chuyển qua học khóa quân sự binh chủng đặc biệt. Kĩ thuật, chiến thuật làm cô mệt nhoài nhưng khi được tập bắn súng, tập cải trang, tập võ thuật, sử dụng dao găm, sử dụng các loại xe cơ giới, cô tỏ ra say mê và có năng khiếu thực sự. Anh giáo viên có dáng người tàm thước,đôi mắt màu xám nhạt ló ra khỏi tấm mạng tỏ ra rất hài lòng về cô học viên thông minh và táo báo của mình, chỉ phải cái anh quá nghiêm khắc. Nếu ai làm sai cái gì, anh bắt làm đi làm lại bằng được mới thôi, thỉnh thoảng lại còn bẳn gắt nữa. Ngoài giờ lên lóp, anh không bao giờ ngồi lại trò chuyện với ai một câu, nhất là cô. Thảng hoặc lắm, vô tình cô mới bắt gặp đôi mắt màu chì của anh hơi đăm chiêu nhìn mình. Tức cười thiệt!Sao mấy anh ở đây , anh nào cũng có đôi mắt na ná nhau. Xanh xanh, xám xám phảng phất màu lá rừng .Buổi trưa váng lặng, soi mình dưới suối, cô bỗng giật mình. Trời đất! Mới vài chục ngày mà trông cô béo trắng hẳn ra. Cơm ăn toàn với rau rừng, tươi lầm thì được dăm ba miếng thịt thú vậy mà bữa nào cô cũng xới đều đề ba, bốn bát. Mai mốt xong việc trở về, liệu má có nhận ra mình nữa không? cô nôn nao cả người.
 Một buổi trưa, thật là bất ngờ, người giáo viên ít nói, lặng lẽ ngồi xuống thân cây đổ cạnh cô. Anh hỏi mà mát nhìn ra sông - Học xong, chị có thích trở lại Thành không? Có chớ! không vô thì học làm gì anh...à thủ trưởng!- Đừng! Gọi anh nghe thích hơn. Cô học giỏi lắm. Giá cô taappj trung hơn thì còn khá nữa - Dạ! tôi hứa sẽ không phân tán - Này cô, tôi tôi... Anh dừng ngay lời, đôi mắt mở to nhìn thẳng vào cô đến nỗi, dưới ánh nắng rung rinh dệt qua kẽ lá, cô thấy bóng mình trong đó. Bất giác cô hơi nhích người ra. Anh nói nhẹ như thở - Còn mấy ngày nữa là hết khóa học. Chúng ta sắp phải chia tay nhau. Tôi muốn nói...Anh lại ngập ngừng và như bực với chính mình, anh đứng dậy bỏ đi. TÙ buổi trưa ấy, cô tránh nhìn thẳng vào ngươi giáo viên. Và tránh luôn những lần trò chuyện tay đôi. Bằng linh cảm chẳng mấy khi sai của người con gái, cô muốn giúp anh tránh được những lời anh sẽ nói ra mà dứt khoát cô không thể đáp ứng được, Thật may cũng sau buổi trưa ấy, anh lại trở lại nghiêm nghị như xưa, thậm chí không cả nhìn cô nữa, khiến cho cô gái ngỡ rằng, câu nói ngập ngừng khi đó không phải của anh. Cô thấy mình như người có lỗi.
 Đêm liên hoan baĩ khóa chỉ có lửa rừng cháy dưới tán cây và sương rơi làm ướt mặt lá. Cô gái đứng giữa đồng đội hát về nỗi lòng người vợ có chồng đi kháng chiến nơi xa. Bài hát quen thuộc mà ngày xưa thường hát, cũng bowirvif mọi người cứ yêu cầu cô ca bài đó.
 ...Một chiều ra đứng bờ bưng Nhìn sông sông chảy, nhìn rừng rừng xa Bao giờ con biết gọi ba Ọuê hương hết giặc thì ba mới về Giọng cô ấm và đầm. Cái mạng che mặt càng làm cho giọng hát sâu hơn. Cô đã hát biết bao lần trong những cuộc hội thảo, những đêm liên hoan nhưng cưa bao giờ cô cảm thấy mình hát say sưa thế này. Phải chăng khung cảnh lãng mạn của núi rừng, của bao la không gian đã nhập hồn vào câu hát. Ngày mai trở vào lòng địch, bao nhiêu điều rủi ro, bao nhiêu điều may mắn sẽ chờ đợi cô và những đồng đội của cô? Đêm nay hãy hát cho thả cửa, hát cho hết lòng. Lửa rừng pharleen vằng trán cô màu nắng sớm mai tỉnh khiết hồng hào... Người ta đề nghị cô hát lại. Cô chối từ. Tiếng vỗ tay thúc giục.Chỉ có một mình anh giáo viên binh chủng là ngồi im trong khoảng tối.Nhưng ánh mắt anh lại sáng hơn lửa. Cô chợt thấy thương anh. Nếu hôm đó anh nói hết câu đó thì, còn cách nào hơn nữa, cô bắt buộc sẽ phải làm cho anh buồn. Cám ơn anh nhiều và cô lui về chỗ.
 Khuya rồi mà cô không thể ngủ được. Trước lúc ra đi cứ thấy bồn chồn khó tả. Ngày mai...Ngày mai... cô sắp thiếp đi thì thoảng nghe tiếng chân người dẫm nhẹ lên lá khô.Ai vậy? cô nhổm dậy kêu to ngọn đèn... Từ cửa sổ, không nói, chỉ có đôi mắt người thầy giáo chiếu thẳng vào. Bỗng nhiên cô thấy khó chịu. Giá đừng lại đây có hơn không? Tôi sẽ kính trọng anh suốt đời. Hiểu cái chau mày ấy, đôi mắt ngoài cửa sổ chơm chớp rồi lại như buổi trưa nào, anh lẳng lặng quay đi.
 Sáng hôm sau, trông số những người theo tiễn ra cửa rừng, không thấy có anh. Một chút ngậm ngùi, thương thương nhưng trong người cô thấy nhẹ nhõm.
 Chú tư Thanh phó tư lệnh nắm chặt tay cô như dặn dò như người cha dặn con gái đi làm ăn nơi xa. Cô bỗng trào nước mắt. Những ngày ở rừng đẹp quá! Trôi nhanh như một giấc mơ. Liệu có một làn được trở lại với những đồng đội, đồng chí ấm áp thương yêu như thế này nữa không? Chú Tư kín đáo bỏ vào tay cô một phong thư nhỏ dán kín và bảo xuống tới chân núi hãy đọc. Hỏi thư của ai? Chú chỉ mỉm cười.Cô thoáng nghĩ tới người giáo viên tận tụy. Sao lại thế được? khó nghĩ quá nhưng không nỡ chối từ, cô cầm thư rồi chào chú ra đi.
 Tới chân núi trời cũng vừa chập choạng tối. Trong khi chờ giao liên đi bám đường, ngồi thả chân trong lòng suối, chợt nhớ, cô giở thư ra đọc. Bức thư chỉ có mấy hàng chữ viết vội bằng bút bic.
 Em!
 Anh rất muốn tiễn em tới tận đường. Cũng như mấy tháng qua, anh muốn nói thật với em tất cả. Nhưng đôi mắt của em, hay đúng hơn, lý tưởng của chúng ta đã ngăn anh lại.
 Anh không ngờ lại được sống bên em từng ấy ngày hạnh phúc nhất của anh. không ngờ em mau trưởng thành như vậy. Hôm nay em đồng đội thực thụ của anh rồi. Cầu mong cho cô nữ chiến sĩ biệt động gặp nhiều may mán trong công việc. Công việc của chúng mình hiểm nghèo lắm. Ráng giữ gìn nghe em! Em về trước. Mấy bữa nữa xong việc anh cũng sẽ về. Gặp nhau nói chuyện nhiều. Yêu em lắm!
 Anh Xuân Đóithằng bé lại khóc rồi. Sao hôm nay xe quân sự chúng nó đi lại nhiều thế này? Tự dưng, xót xa cho giấc ngủ của con, anh thèm được nhảy ra giữa đường lia một loạt đạn vào những tiếng gầm rít kia. Tiếng ru của người mẹ đã tắt lịm từ lâu nhưng anh vẫn nghe âm vang da diết trong đầu. Âm vang xa xôi mà cứ gợi lên những kỷ niệm buồn vui của hai người. Ngực anh ngột ngạt. Đáng lẽ anh không nên đến đây, không nên ở lại thế này. Anh rút cái gối kê đầu áp chặt vào mặt. Nhưng rồi anh lại ngồi nhổm dậy, mắt mở thao láo nhìn xuyên vào bóng tối. Trời! Nếu không có cuộc hẹn gặp sáng mai, không có cái mục tiêu đã đeo đuổi cả tháng trời, không có sự đụng độ với bọn người lạ mặt trưa nay và không có tiếng xe xích nghiến lên mặt đường ngoài kia, chắc anh đã lao ra ghì chặt lấy con và không bao giờ rời ra nữa. Nhàn ơi! Anh mấp máy môi trong bóng tối. Anh đâu có biết em ở đây, đâu có biết con đau ốm thế này. Vì công việc anh không có quyền lộ diện với em. Vâng! Ngay cả với em, người vợ yêu thương nhất đời mà anh đã bặt tin gần năm trời. Đừng ru nữa! Anh biết cả rồi. Đừng làm buốt xé ruột gan anh. Anh không chịu nổi đâu. Ráng chờ anh thêm vài bữa nữa. Xong việc, anh sẽ trở vè với má con em, sẽ... Anh gượng nhẹ ngả người nằm xuống. Và thay vì cô ngủ, anh cố tập trung soát lại tât cả những chi tiêt trong phương án. Không thẻ chần chờ được nữa đâu các đồng chí ơi! Có thể tôi bị lộ rồi. Thằng Xanh có vẻ đã nhận ra tôi.Nó là một thằng láu cá và chịu suy nghĩ. Chậm ngày nào là không ổn với nó ngày ấy đâu... ồ! Sao im lặng thế này? Con đã ngủ rồi sao con? ừ, ngủ đi! Mai này hết giặc, ba về bù đắp lại cho con tất cả. Luống suy nghĩ anh lại tản mạn bay ra khỏi những gì thuộc về trận đánh.
 Ngoài này, dường như hiểu được nỗi khổ sở cưa anh, chị không bê con đi lại nữa. Chị thay má thắp thêm một nén nhang lên bàn thờ rồi cũng khe khẽ đi nằm. Cái giát giường cũ kêu lên một tiếng cót két. Tiếng mái tôn đã nghe lộp độp tiếng mưa rơi. Trời Sài Gòn chợt nắng, chợt mưa. Thằng bé chóp chép miệng đòi ăn trong giấc ngủ. Gió lạnh đập vào cửa đều đều. Hơi thở của nó phả vào cổ chị ấm ran. Chị thở dài ôm chặt lấy con. Tội nghiệp con tôi! Người ấy đâu có phải là ba con. Người ấy là dân bán thuốc nay đây mai đó, con khóc làm chi. Ba con đâu có vô tình đến thế. Một nỗi giận dỗi bâng quơ trào lên dưng dưng mắt chị. Không hiểu sao càng ngày chị càng nghĩ rằng người đó chính là anh. Nhìn tất cả không phải là anh nhưng tách ra từng chi tiết thì lại là anh. Chị đã gửi gẩm tất cả nỗi lòng vào tiếng ru con, đã nhiều lần tìm sâu trong mắt anh, đã nghe anh nói, đã nhìn anh cười... Anh vẫn lúc gần lúc xa, khi mờ khi nhạt. Chập chờn. Giờ đây chị biết anh cũng không ngủ. Lát lát lại thấy anh cựa mình, thấy anh đốt thuốc hút khan. Sao anh không ngủ? Anh ngủ đi! Anh ngủ, em sẽ theo cái nét ngủ mà nhận ra anh. Trong giấc ngủ anh cũng chép chép miệng giống con. Tiếng gáy của anh đùng đục êm êm, em đã quen nghe lắm rồi. Và cả những câu nói mơ giấc gần sáng nữa... Anh ngủ đi, ngủ đi!... Chỉ riêng mình em biết khi ngủ anh sẽ như thế nào thôi. Nhưng người bán thuốc vẫn không ngủ. Tiếng hắng giọng đùng đục vẫn đôi lúc vọng ra. Hay không phải là anh? Nước da anh màu bánh ít, phẳng phiu chứ đâu có sàn sùi méo mó thế này? Anh bị chúng nó đày đi Côn Đảo kia mà. Gần đây em lại nghe tin anh chết trong tù! Thực hư không hay, em chỉ biết ôm con khóc hoài. Sao lại giống anh đến thê? Nhất là đôi mắt. Hay là anh thật? Chỉ anh mới có ngón tay cụt đốt ấy thôi. Cho dù bàn tay này thô ráp đen đúa hơn nhiều. Anh không chết và bây giờ vì đang theo đuổi công việc mà phải giấu mặt vợ con. Hay là tù ngục đã bẻ gãy được ý chỉ anh. và chúng nó đã thả anh ra để đến nỗi nhục nhã quá, anh phải giấu mặt với đời lam lũ kiếm sống qua ngày. Hay là... Không! Dù thế nào đi nữa, vinh hay nhục, em vẫn là vợ anh, vẫn là, như anh nói, nơi ẩn trú cuối cùng của đời anh.
 Chập tối chị có hỏi anh quê ở đâu? Anh nói xa lắm, tận Lâm Đồng, ông thấy có vợ chưa? Chưa mà. Vậy sao ông thấy bế con nít rành vậy? Chữa bệnh cho con nít nhiều, bế hoài nó quen đi. Chị lại hỏi sao ngón tay anh cụt? vô núi kiếm thuốc, cái nọc con rắn hổ nó ngầm đó. Chị nhìn thẳng vào anh. Ba thằng nhỏ này cũng có ngón tay cụt giống ông thầy, chẳng hiểu bây giờ ở đâu, còn sống hay đã chết? Anh cười rộng miệng. Nếu tôi là bà bói tôi bị trúng liền. Nhưng mà con người khó có chết được đó. Tôi nè! Hổ vồ, rắn cán, đạp mìn hoài hoài mà vẫn sống nhăn như khỉ đó thôi. Chị hỏi nữa nhưng lòng không yên.
 Suy nghĩ quấn quanh khiến chị dần dần thiếp đi. Bỗng chị lại mở bừng mắt. Anh có một vết thẹo ở bắp tay phải, dài hai đốt ngón tay, màu nâu sẫm, ở giữa lõm xuống một chút mà chị còn nhớ rất rõ. vết thương đêm ấy, cái đêm mà chị đã giấu anh trên giường, đã rửa ráy băng bó cho anh và sau này, thỉnh thoảng được ở bên nhau, chị lại cà má vào đó cho anh nhột. Chao ôi! Nếu người đó để lộ bắp tay ra một chút thôi... Sáng mai, nhất định sáng mai...
 Ngoài trời mưa vẫn đụng mái kém tinh tang. Mệt mỏi, chị lại dần dần thiếp đi...
 Bỗng cánh cửa mở tung. Một vệt sáng bay vào giống tia chóp. Chị choàng dậy: trên khuôn cửa in rõ ba bóng đen lừng lững như từ trên trời rơi xuống. Chị chưa kịp hiểu gì thì cả căn nhà đèn đóm đã được bật sáng trưng.
 Lúc này họ đang ngồi trước mặt nhau.
 Một bên trắng trẻo, vuông vắn và xanh xao. Bên kia, lem luốc, xệch xoạc và ngơ ngác. Họ nhìn nhau. Cái nhìn của viên thiếu tá khoan xoáy lạnh lùng. Ánh mắt người bán thuốc rong lúc xẫm lúc sáng, có chiều run rẩy. Tuy vậy họ vẫn nhìn nhau... Thì ra cuối cùng rồi cũng là mày hả Xanh? Thú thật tao kinh ngạc đó. Tao không còn nhận ra thằng Xanh mình trần cá trắm, hay nói hay cười quanh năm chỉ độc một chiếc quàn xà lỏn sau cái vẻ ngoài hào nhoáng của mày nữa. Chao! Mày nhìn tao mới khiếp chớ! Mày đang cố tìm cách móc ruột, móc gan tao ra chứ gì. Hay là, cũng có thể lắm chứ, qua tao mày sống lại cả quãng đời trước của mày? Buốt ruột quá! Không! Tao không buốt ruột vì cái đêm mày quyết định gỡ cửa xà lim ấy, tao đã không bóp chết mày như bóp chết một con chó ghẻ đâu. Tao chỉ xót xa sao tao lại có thể ngù ngờ mụ mị đến nỗi bây giờ để lọt vào tay mày. Lỡ làng hết vì mày thôi Xanh a! Mắt anh lóe lên rồi dịu lại ngay.
 Mí mắt thiếu tá Xanh hơi động đậy và như bị chói nắng, hắn nhìn xuống một giây rồi lại nhướn lên. Không nhằm nhè gì đâu anh bạn ạ! Ghế anh bạn còn cách xa bàn tôi lắm, đừng động đậy, mất công. Vă lại giữa chúng ta có một cái bẫy ngâm đó, tất nhiên không nông lắm. Tôi biết! Nếu được thì bàn tay mất ngón kia đã không tha cái cần cổ của tôi rồi. Là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy thôi. Kẻ phản bội đáng băm vằm hơn ngàn lần kẻ thù đã có sẵn, phải vậy không? Ai chà. Nhìn đi đâu thế kia? đây có phải rừng núi đâu mà làm bộ ngó nghinh đón ánh mặt trời. Hắn cố tạo một cái cười khẩy để tự củng cố lòng tin rằng con người xa lạ ngồi kia chính là Xuân, Đặng Đình Xuân, đội trưởng biệt động của hắn ngày trước chứ không phải ai khác. Cười khẩy hình như chưa đủ, Hắn buột miệng luôn thành lời:
 -Cải trang được lắm đó anh Ba ạ! Nếu không phải là tôi, kẻ đã cùng ăn cùng ở với anh chút ít thì chẳng còn ai nhận nổi.Tự nhận thấy giọng nói của mình chưa được tự nhiên, hắn chìa hộp thuốc ra - Mời!
 Xuân vẫn nhìn Xanh thầm lặng. Hắn bỗng chột dạ trước cái nhìn thoáng vẻ xót xa ấy. Bỗng dưng hắn thấy mình nhỏ bé hắn đi. Hắn xẵng giọng.
 Hút đi! hút rồi ta nói chuyện với nhau.
 -Dạ!.. Tui không quen hút thuốc loại đó. Xin phép quan lớn...
 Anh thọc tay vào túi áo. Xanh vội đứng dậy.
 - Ngồi im! Bỏ tay ra!
 Nhưng anh đã bình thản lôi ra túi thuốc rê cáu bẩn.
 - Xin phép quan cho tôi hút cái thứ này. Buôn tôi trồng đó Hắn ngồi xuống, mặt hơi sượng lại.
 - Tôi không ngờ anh vẫn còn sống. Tất nhiên... Tất nhiên... Vâng! Sau làn đó và ngay cả bây giờ có thể anh rất khi tôi. Đó là quyền của anh. Nhưng tôi cũng có quyền của tôi. Quyền được tìm lôi đi riêng cho mình. Trên đời có trăm ngả đường đi, hà cớ chi mà để mát đến nhau. Lẽ ra anh không nên trở lại đây. Anh có tin không thì tùy, thú thật tôi không mong được gặp lại anh như thế này. Vô duyên lắm! Mà theo tôi, tốt nhất hai ta không nên duyên nợ. Bởi vì, còn cách nào khác, tôi với anh phải dàn mặt ăn thua đủ. Có lễ thế này: để dễ làm việc, tôi yêu cầu ta quên hẳn chuyện cũ dằng dịt. Có thể tôi rất cởi mở, có thể tôi sẽ rất hà khắc với anh. Điều đó phụ thuộc vào sự thông minh và biết điều của anh đó. Còn mai đây, nếu do một sự vận động trái chiều nào đó của cuộc sống, tôi với anh cùng ngồi chung trong một cơ chế, chúng ta sẽ lại uống rượu với nhau.
 - Dạ!...Quan nói cái gì tôi nghe hổng có kịp - Anh trố mắt ra - Dạ... uống rượu ạ?
 - Kết lại thế này - Hắn không để ý đến câu lắp bắp của anh - Tôi đã biết rẩt rõ anh là ai, biết ngay từ lần gặp thứ hai ở chợ (Chính ra tao phải nhét đầu mày xuống cổng ngay hôm đó, anh nghĩ) và anh vô đây nhằm mục đích gì. Tốt nhất anh cứ nói thiệt. Thiệt hết. Sự chân thành nhiều khi cứu được cả một đời người. Tất nhiên...Tất nhiên. Tôi không muốn chế độ tù ngục đến với anh. Trò kẻ nít hù kẻ non gan. ở anh, tôi kêu gọi sự từng trải.
 -Từng trải như mày hả Xanh. Tao chỉ muốn đâm vỡ mồm mày ra, cho mày biết thế nào là từng trải. Nhưng anh vẫn tròn mắt ngơ ngác.
 -Từng trải ạ? Quan nói cái chi từng trải ạ? Tui...Tui...
 -Anh uống chút rượu - Xanh vẫn làm ra vẻ như không nghe thấy gì - Thứ rượu đề mà ngày trước chúng ta thường nhậu sáng đêm trong rừng.
 -Rượu ạ! Dạ, cám ơn quan.
 Anh lập cập nâng li rượu bằng cả hai tay uống cạn một hơi rồi liếm mép, tỏ ý thòm thèm.
 - Cứ uống! Anh tự rót, tùy ý. Tôi biết tửu lượng của anh quá mà - Mắt hắn chóp sáng.
 Mày muốn đổ rượu để làm mụ óc tao hả? Đâu có được! Mụ một lần thôi chớ. Được! Đưa đây. Anh cầm cả chai tu ừng ực. Chỉ thấy cái cần cổ của anh đưa lên hạ xuống và bong bóng rượu ùng ực lưng chừng chai. Còn lại một góc, anh đặt xuống, quệt miệng cười.
 - Khà... Rượu của quan ngon quá! - Anh ợ nhẹ một cái rồi bắt đầu nấc cụt - Đâu ạ?
 - Cái gì đâu?
 -Người bệnh.
 -Người bệnh nào?
 -ơ!... Tưởng quan gọi tôi tới cắt thuốc cho người bệnh.
 -Ba Xuân! - Hắn cười gằn - Đừng làm bộ vờ vịt nữa, mất thời giờ lắm. ít nhất anh cũng hiểu tôi ở trong ruột các anh ra chớ. Những cái trò con nít này bịa đặt ra mệt lắm. Đừng đóng kịch. Tốt cho anh và tốt cả cho tôi. Anh cũng biết: thằng người sinh ra đời không thú vị gì mà hức đầu vào những trò vớ vẩn thế này. Cái gì cần làm thì làm cho xong, như một thú thủ tục ở đời, rồi còn lo việc khác lâu dài thiết thực hơn.
 -Thì ra sự phản bội về nhân cách của mày cũng là một thứ thủ tục đó sao? Xuân không muốn nghe hắn nói nữa. Anh sợ rằng, nghe thêm mấy tiếng nữa, anh sẽ không còn giữ được bình tĩnh. Người anh bỗng rũ xuống, mắt lờ đờ.
 Phải vậy thôi. Cũng phải ý thức ra một chút chứ. Xanh thầm nghĩ. Nó bắt đầu tàn tạ giống như mình ngày xưa. Đúng là cái luật đời không áp dụng cho riêng ai. Cái chính là phải hiểu được chiều sâu bên trong của con mồi. Hét lác, khảo tra với loại này thì chỉ thêm lố bịch. Hắn nhìn đồng hồ. Mười phút nữa thiếu tướng và ngài cố vấn nội vụ Giôn sẽ tới. Cần phải đạt được kết quả tốt trước khi các ngài đó có mặt. Kết quả một lần này nữa thôi, và sau đó... Cũng lạ! Hắn đã thực sự cHắn ngấy những cảnh này và bao giờ cũng mong chấm dứt nhanh cho rồi. Ấy vậy mà mỗi khi vào việc, hắn lại cảm thấy say. Cái thằng người hiếu thắng và vụ lợi trong hắn chồm lên không để hắn yên. Lúc đó, hắn điên cuồng muốn được chế ngự đối phương bằng bất cứ giá nào để rồi sau đó cái thằng người thật trong hắn lại trở về sự rỗng roãng thường ngày. Riêng lần này, hắn muốn làm thật tốt, thật hoàn chỉnh và sau đó có cớ để... Gút Bai ráo trọi. Còn ý định leo cao, thoát mọi công việc tẻ nhạt này ư? Hắn đã từ bỏ nó rồi. Nó sẽ không bao giờ xảy ra với hắn, một kẻ lộn sòng. Điều này không phải hắn đã nhận biết từ lâu. Và bản tính hắn trước kia cũng vậy, không làm thì thôi, đã làm là dốc tận lực. Bằng lí trí và bằng cả linh cảm nghề nghiệp, hắn biết rằng giờ đây, trước con người lì lợm kia, hắn lại sẽ sắp là người thắng cuộc.
 - Đừng ngại chi hết anh Ba! - Hắn cất tiếng nói êm ái như muốn đẩy đưa cái thân hình kia rũ rượi ra hơn nữa - Tôi rất hiểu anh và kính trọng anh. Sự ràng buộc vào một lí tưởng khiến cho tôi thông cảm với anh và mến phục anh. Cách đây một năm, tôi cũng có những tâm trạng giống như của anh. Nhưng có lẽ tất cả là sự tự ý thức về sự tồn tại của mình. Anh đang tồn tại như một người không nám bắt được quy luật. Hôm nay tôi chỉ muốn giúp anh nám bắt (như các cán bộ chính trị của chúng ta trươc kia thường gọi) được cái quy luật ấy, quy luật về chiến tranh, về cuộc đời. Còn mọi vẩn đề khác, vẫn là thủ tục, anh khỏi bận tâm. Tức là tôi muốn nhác câu của ông cha mình ngày trước: đừng làm trái mệnh trời! Tôi và anh đã có một thời làm trái mệnh trời nên rốt cuộc mỗi thằng đều phải trả giá bằng chính máu xương đổ xuống vô ích của mình - Hắn nói nhanh, tiếng sau muốn xóa dư âm của tiếng trước, lối nói của người không tin ở chính điều mình nói ra và rất sợ cái im lặng sau khi không còn gì để nói nữa - Anh có thể cứ thoải mái phát biểu chính kiến. Có thể anh trúng và cũng biết đâu anh trật? Ta cứ cãi nhau, to tiếng cũng được nhưng ráng đừng chệch khỏi trọng tâm.
 Chợt giọng hắn cụt ngẫng. Bên kia bàn, người bán thuốc đầu cúi gục xuống ngực, môi dưới trễ ra và một tiếng ngáy ngon lành vang lên.
 - Ngẩng lên! - như bị tát trái vào mặt, hắn đấm mạnh tay xuống bàn, làm những đồ vật rung lên. Nể tình cũ, tao chân tình tử tế mà...
 Người bán thuốc choàng tỉnh, run bắn người, môi miệng dấp dính nói không ra hơi.
 - Chết tui... Dạ, xin quan tha cho! Suốt đêm hồi hôm tôi không có ngủ... Bị rượu nó đánh mà. Dạ... Hì!
 -Tha cái con... Đêm qua mày làm gì ở đó? Mày vô đây có việc gì? Bọn mày có mấy đứa, địa chỉ ở đâu? Mày chỉ có một đêm nay để trả...
 Hắn bất chợt dừng lại. Mặt hắn chảy ra. Bậy rồi! Bậy hết rồi. Mình vừa hỏi những câu ngớ ngẩn gì vậy? Công toi ráo cả bây giờ. Chắn nó đang ngạo mạn cười thầm mình trong bụng. Mẹ kiếp! Hắn dò xét nhìn lên... Không! Hắn vẫn chỉ thấy con mắt lấm lét sợ sệt nhìn lại. Chà! Nhìn đôi mắt thao láo của nó kìa! Hay không phải? Hay sự ám ảnh đã khiến ta... Nhưng làm sao có thể nhầm được. Mà nhầm cũng phải làm. Lỡ rồi. Chỉ còn dăm phút nữa. Hắn dịu giọng:
 - Xin lỗi... Dạo này tôi không được khỏe, nóng lạnh bất thường. Lỗ mãng quá! Xin anh cứ ngồi xuống, anh Ba!
 -Dạ!... Tui, tui muốn ngủ quá trời! Quan không cần chữa bệnh, quan cho tui về. Mai mốt cho gọi, tui lại đến.
 Hắn ngả người ra, nhắm mắt lại. Đến lượt Hắn không muốn nghe cái giọng van nài lải nhải kia nữa. Hắn thấy chân tay ngứa ngáy tưởng có thể điên lên được.
 Vừa lúc đó tướng đô trưởng bước vào. Theo sau là viên đại úy có ria mép. Ngài giơ cao hai tay trong một dáng điệu rất vui vẻ.
 - Sao! Xin chúc mừng cuộc gặp mặt của đôi bạn. Tôi có thể rót rượu mừng cho cuộc gặp gỡ tốt lành này được chớ? Thời buổi này cái gì cũng phiên phiến thôi các ông ạ! Găng nhau mệt lắm. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ vấn vơ: đôi khi chỉ cần một ngọn gió đêm trong lành mang theo một mùi hương nào đó là có thể xui khiến cho hai dòng lí tưởng gặp nhau và cùng chảy về một phía.
 Thiếu tá Xanh đứng thẳng người.
 -Thưa thiếu tướng! Rất tiếc là chúng tôi chưa thỏa thuận được với nhau.
 -ủa! Vậy hả? - Ngài hơi nhăn trán lại một chút nhưng vẫn giữ nguyên cái cười dễ dãi. Không sao. Rồi sẽ thỏa thuận được thôi. Các ông chưa băm vằm nhau ra đã là một tháng lợi rồi. Ông Xanh! Tôi cần nói chuyện với ông - Ngài quay sang nguời bán thuốc - Xin lỗi ông bạn nghen!
 -Rõ! Lính đâu! Đưa người này sang phòng bên. Dọn cơm rượu đàng hoàng. Xanh gọi ra cửa.
 -Thoáng nhìn thấy cái cười ý nhị của đại úy Thuần. Xanh cau mặt lại.
 -Lẹ lên! Còn đứng đó mà cười cợt hả? Đồ con bò!
 Bị mắng oan, viên trung sĩ trực nhật không hiểu gì cả vội lôi anh kéo tuột đi.
 Ngài đô trưởng ngồi xuống hỏi nhỏ:
 -Chắc chắn là nó chớ?
 -Dạ! chắc tới chín mươi phần trăm.
 -Như vậy vẫn còn mười phần trăm. Nhiều khi cái phần trăm nhỏ bé đó sẽ có khả năng gây động đất kia đấy. Trong chiến tranh hãy hết sức coi trọng những điều tiết đó.
 -Mi bao giờ cũng sách vở nhưng mà... đúng! Xanh thường hay nóng mặt khi bị dạy khôn, dù bất cứ là của ai. Nhất là cái mỉm cười của gã oắt con kia cứ bám nhằng vào đầu óc hắn. Nó đến đây làm cái trò gì kia chứ!
 -Thưa tư lệnh! Ngài cứ yên tâm! Riêng đối với tôi thì không có cái mười phần trăm nào cả, một phần trăm cũng không có nữa. (Quái lạ! Hình như nó vẫn cười) Tôi xin phép được dùng phương án 2.
 Ngài gật đầu. Nói chung đôi khi ông ta cũng hài lòng với gã thiếu tá này. Chính một phần nào nhờ sự hoạt động xuất sắc của gã trong năm qua mà cái ghế đô trưởng của ngài được dựng thẳng trở lại. Tuy vậy mỗi lần phải tiếp xúc, ngài vẫn cảm thấy có cái gì không thực ổn trong giọng nói, đôi mắt, trong từng cử chỉ nhỏ nhặt của gã. Tác phong giữ đúng quy cách, tốt! Rất có tự trọng, tốt! Song sao cứ thấy một chút ngang ngang, một chút khinh bạc toát ra. Gã thật không giống bất cứ một sĩ quan nào dưới quyền, càng không giống một kẻ đầu hàng nào khác. Do đó ngài chỉ cần gã mà không ưa gã. Và nếu có dịp là ngài lại tế nhị nhắc nhở Hắn nhớ rõ vị trí của mình.
 -Nếu cái gọi là phương án hai của ông cũng không có kết quả?
 -Dạ! Cũng có thể có khả năng không có kết quả nhưng nó sẽ gây hiệu quả cho phương án sau cùng.
 -Nếu cái sau cùng cũng bể nốt?
 -Thì tức là tôi lầm, thưa thiếu tướng. Và tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
 Xanh trả lời gọn lỏn. Hắn không ưa những câu hỏi dồn dảy như thế. Ngay cả trước kia, không ít lần hắn cũng đã gay gắt cãi vã với người đội trưởng mặt lạnh như tiền đã bị đuổi đi, những điều tương tự. Tại sao bị dồn dảy, phải dạy dỗ? Tôi là tôi, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những việc làm của tôi. Tôi không bao giờ là một cá nhân nô lệ, lệ thuộc đối với bất cứ ai, bất cứ cái gì. Xanh buông sõng:
 -Báo cáo ngài tư lệnh, ngài cho tôi được bắt đầu thực thi nhiệm vụ.
 -Được! Ông đại úy đây sẽ giúp ông một tay. Vốn liếng tâm lý học mang từ Mỹ về ông chưa có dịp được thi thố đó. Tôi hi vọng sự hiệp tác này sẽ hữu hiệu.
 Xanh búng tàn thuốc, im lặng. Nhãi con! Chỉ vướng giò. Hừ! Hiệp với chả tác. Nó chỉ rình có cơ hội là cười vào mũi mình chứ hiệp tác cái con mẹ gì. Có lẽ một lúc nào đó, gã phải nói thẳng vào mặt thằng công tử cậu này thôi. Còn bây giờ thì... Từ ngày trở về đây, hắn đã tập được thói quen im lặng trước những cái tưởng như không im lặng được.
 -Ông Giôn có tới không thưa ngài? Hắn hỏi.
 Không! Ông trao toàn quyền cho chúng ta và đặc biệt tin cậy ở tài năng của thiếu tá. Mà chính thiếu tá cũng muốn vậy phải không? (Xạo! Chính ông không muốn cho lão Giôn già tới đây thì có. ông không tin tôi, ông muốn đánh con bài nước đôi, thua phần tôi, được phần ông chớ gì). Tôi nhất chí với thiếu tá, có những việc người Mỹ dính vào chỉ thêm rối chuyện. Thay vào ngài cố vẩn Giôn, tôi có mời một người mà thiếu tá đã được gặp: Giáo sư sử học, kiêm dân tộc học Đặng Văn Luân, bạn tôi. Khoan! Thiếu tá đừng vội phật lòng. Nghiệp an ninh của ta không chỉ ru rú trong bốn bức tường, cũng cần cho người đời thông cảm mới được, ồ! Biết đâu đây lại chẳng là một đoạn hay minh chứng về khả năng có thể thay đổi được bản chất của con người trong đầu ông giáo sư và trong cuốn quân sử sắp tới của chúng ta.
 -Hai tiếng chúng ta ngài nhấn mạnh mà vẫn được độ tự nhiên. Tuy thế, Hoàng Xanh vẫn không thể không nhìn lảng đi...
 Cửa mở. Giao sư Luân bước vào. ông gật đầu chào mọi người.
 -Nghe nói tôi được mời lên đây để xem một cuộc đối chất?
 -Một màn kịch thì đúng hơn. Mời anh ngồi. Ngài nói, anh sẽ chứng kiến một người sắp đánh mất bản ngã của mình. Bắt đầu đi thiếu tá!
 Cửa ngách mở. Người bán thuốc nam xuất hiện vởi vẻ mặt no nê thỏa mãn. Thấy đông người, anh ta lúng túng, không ra đứng, không ra ngồi, cất tiếng chào lí nhí vừa đánh lưỡi vào chân răng lóp chóp.
 Xanh hỏi độp luôn:
 -Anh là ai?
 -Dạ!.. Tui, tui nói hoài rồi mà.
 -Trả lời: anh là ai?
 -Tui bán thuốc. Tiếng nói người miền núi nằng nặng, rõ ràng là không bằng lòng.
 -Anh ở đâu về đây?
 -Dạ!...Từ Lâm Đồng tôi đi Phước Long.
 -Huyện?
 -Dạ! Phước Thành.
 -Chắc lại xã Phước Tín nữa hả?
 -Dạ không! Xã Phước Tân. Phước Tân rồi mới tới Phước Tín đó. Xa lắm.
 -Anh người dân tộc gì?
 -Tui người Kor.
 -Tại sao cụt ngón tay?
 -Rắn độc nó cắn đó. Còn nhiều nốt nữa mà.
 -Hừ! vẫn lưu loát như xưa - Hoàng Xanh nhếch nhẹ một bên mép. Rõ ràng tất cả những câu hỏi vừa đầu đến giờ, Hắn chỉ hỏi cho qua chuyện, thậm chí cũng không nghe kĩ câu trả lời nữa. Hắn quay ra cửa - Cho vào!
 Chị bước vào. Gian phòng với những đồ đạc nặng nề như lèn chặt lấy thân hình nhỏ nhoi của chị. Chị ngơ ngác nhìn quanh, khẽ gật đầu chào mọi người. Cặp mắt chị dừng lại ở khuôn mặt anh, ngỡ ngàng. Cái nhìn của thiếu tá Xanh loáng qua loáng lại trên khuôn mặt hai người.
 -Anh có biết người đàn bà này không?
 -Ui! Biết mà. Biết rõ mà. Tui chữa bệnh cho thằng nhỏ con bả mà. Anh trả lời vui vẻ như bỗng dưng gặp lại người quen ở chốn xa lạ.
 -Còn chị?
 -Dạ! Ông đây chữa bệnh mát tay cả khu đều biết - Chị trả lời rành rẽ, mát không nhìn ai - Hồi hôm ông bị bắt đi, tôi chưa kịp trả tiền.
 -Chưa kịp trả tiền à? Lại còn cái chuyện đó nữa - Hắn đăm đăm nhìn vào chị như cố lục tìm trong trí não một bóng dáng xa xôi nào. Hắn lại nhích môi một cái nữa và quay hẳn sang phía người bán thuốc:
 -Cởi áo ra!
 -Cởi...Cởi làm chi? Tui chỉ có chút chút tiền thôi.
 -cởi!
 Người bán thuốc giật nảy mình với tiếng quát của viên thiếu tá rồi ngượng ngập cởi tấm áo chàm bạc trắng ra khỏi mình, để lộ nước da đen hun và bộ ngực rắn chắc. Khi chiếc áo được vất xuống đất, thì trên bắp tay trái của anh để lộ ra một vết thẹo màu hồng nhăn nhúm. Hoàng Xanh đột ngột nhìn xoáy vào đó. vết thẹo nào đó hè? Sao mình không biết? Khốn nỗi. Mỗi làn về hậu cứ có được tắm chung với nhau trong một khúc sông đâu và thực ra một năm cũng chỉ gặp nhau đôi ba bận, ai để ý đến thẹo thọt làm chi. Hắn bỗng tiếc ngẩn người. Nếu biết trước được cái thẹo đó thì cuộc đấu đã sớm kết thúc ngay từ giây phút này rồi. Hắn chợt thấy căm ghét hết sức cái thẹo đó. Thiệt như gai đâm vào mắt.
 -Múa đi! - Hắn tung ra một câu cụt ngẫng.
 -Múa gì ạ?
 -Múa một điệu mà người Kor các anh thường múa.
 -Dạ múa?...Múa ở đây?
 -Phải! Chính ở đây.
 -Hì...Hì... - Người bán thuốc cười thực sự -Quan lại giỡn rồi.
 -Múa!
 Nhìn nét mặt lạnh lùng của hắn, người bán thuốc chưng hửng. Cái cười tắt ngang miệng thành ra một nét mều khổ sở. Sau khi đã hiểu người ta không đùa với mình, anh rụt rè lùi lại. Tới giữa phòng, anh quay lại nhìn một lần nữa vào những người có mặt để hy vọng họ nói chơi.Nhưng không, cả mấy cặp mắt, đang chụm nhìn anh. Anh thần mặt ra một lát rồi hơi ngửa đầu về phía sau như hít thở khí rừng. Không gian im lặng, chỉ có những màn khói nhẹ bay quẩn quanh đầu tàn thuốc. Anh chợt liên tưởng đến màn sương trong thung lũng mỗi khi trời trở lạnh, và đâu đó trên đỉnh cao có những đốm lửa lập lòe...Chính ở đó anh và đồng đội đã trải qua hết một mùa rèn luyện để trở lại được bất ngờ gặp chị trên dải Thị vải; Nơi đó, trong những ngày lúa mới, trong những đêm hội hè, anh đã cùng với trai làng lực lưỡng mê say lao vào vòng múa đâm trâu thâu đêm qua sáng và cũng chính nơi đó, sau khi nhận nhiệm vụ, anh đã dầm bùn phơi nắng cho đen da, đã tập sưu tàm những vị thuốc quý của rừng, đã tập nói, tập bán rắn...Nơi đó...Anh thấy toàn thân mình bốc nóng dần lên. Một niềm vui ngạo nghễ đột ngột ùa vào lòng anh. Đốm lửa cháy bùng lên thành nhiều cây lửa lớn. Những màn sương vây bủa những màn sương. Trùng điệp... Bao la... Thác trắng... Rừng già. Anh hú vang lên một tiếng man rợ. Tiếng hú âm vang như chiêng cồng trong thung sâu khích động lòng người. Cùng với tiếng hú, bàn chân anh dậm mạnh xuống đất, tay trái anh vung lên tạo dáng một cánh chim rừng và thế là anh múa. Anh múa một điệu múa dân gian lâu đời của vùng Tây nguyên hùng vĩ. Điệu múa kể lại một dũng sĩ buôn làng đi chiến đấu với mặt trời. Lửa trời nhiều phen làm anh gục ngã nhưng cuối cùng, nhờ có đất mẹ hà hơi, anh đã gượng dậy kéo vầng mặt trời xuống biển làm xanh tốt lại cỏ cây... Càng múa, cặp mắt anh càng dần dần chuyển thành sáng rực. Những tia rượu cần thơm nồng hương nếp vẫn ào ạt tuôn vào ngực anh. Tấm thân trần nở nang của anh rung lên trong những bước nhảy mạnh mẽ nhịp nhàng, cảnh vật trong phòng quay lộn. Bốn khuôn mặt thành nhiều khuôn mặt.Chỉ có khuôn mặt của ai lượn mãi theo vòng. Như không hay không biết, anh vẫn múa mỗi lúc một nhanh hơn, thỉnh thoảng lại hú lên một tiếng hoang dại đắc thắng. Giá bây giờ có một người nào đó đặt vào tay anh một ngọn giáo thì chắc rằng cái thân hình loang loáng kia sẽ phóng qua cửa sổ mà lao thẳng về phía mặt trời như một dũng sĩ trong huyền thoại thật.
 Điệu múa sôi nổi cuốn hút chị. Từ ngoài cửa sổ một vệt nắng vàng tươi chiều vào khiến nửa thân mình anh ánh lên như tượng. Mồ hôi đã bắt đầu rịn ra trên đôi vai vạm vỡ của anh. Đôi vai!... Bộ ngực... Sao thấy thân thuộc quá! Có phải đó là bộ ngực đã bao lần, sau những trận đánh trở về, chị đã gục đầu vào tin cậy, yêu thương? Còn cái gì kia? Chị bỗng lặng đi trong sự choáng váng đến rủn người, vết thẹo trên bắp tay anh hút chặt lấy mát chị. Có phải... Trời! Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là anh rồi, anh thiệt rồi! Anh Ba! Sao anh lại giấu em? Sao anh không nhận mẹ con em? Anh nỡ đối xử với em như thế sao? Vết thẹo kia chính em đã chữa chạy cho anh, cái đêm ấy... Người ta có thể quên được anh, nhưng vợ anh làm sao có thể quên được... Anh Xuân! Anh vẫn còn sống thiệt sao? Vậy mà em và con đã tưởng không còn bao giờ được gặp anh nữa! Nước mắt chị rưng rưng. Chị muốn chạy bổ tới ôm chặt lấy anh, áp mặt vào bộ ngực cường tráng của anh như ngày xưa. Thốt nhiên, chị thấy nhồn nhột ở mang tai. Không cần quay lại chị cũng thừa biết những ai đang hau háu nhìn vào mình. Mắt hơi nhìn chếch lên trên một chút, chị vội thở ra một hơi dài. vẻ bình thản trở lại trên khuôn mặt chị. Và đến lúc đó chị chợt hiểu, hiểu tất cả. Anh Xuân! Chúng nó bắt anh lột áo để coi nước da trên thân thể anh, bắt anh múa xem anh có đúng là một người dân xứ núi không? Bán tín bán nghi, chúng nó lại đưa em tới để làm anh nao long, để em nhận ra anh, và cũng để biết em có phải là vợ anh không. Không! Chúng mày đừng có hòng.
 Sau lần anh bị bắt, em hoàn toàn bị mất liệc lạc, đành đưa con trở về quê. Tình hình tạm yên, em lại lộn lại Sài Gòn thay đổi chỗ ở, ngày ngày đi tìm kiếm tin anh, tìm kiếm cơ sở mà không gặp. về sau, thất vọng và mệt mỏi quá, em đã thây kệ tất cả, nằm im nuôi con và đếm ngày tháng trôi qua. Anh! Gặp lại an hem mừng quá! Bắt đầu từ bây giờ em lại là đồng đội của anh, sát cánh với anh. Anh múa đi! Múa nữa đi! Hãy tin ở em, chúng nó sẽ không tìm được gì trong điệu múa của anh đâu.
 Thế là rồi cuối cùng anh cũng không giấu được em. Chúng nó sẽ làm tất cả để nhận ra anh, để đánh gục anh nhưng anh cũng đã chuẩn bị tất cả để vào đây. Chúng nó sẽ không bao giờ nhận thấy gì hết. Nhưng em, em lại nhận ra anh, nhận ra vết thẹo trên tay anh. Anh không ngờ thằng Xanh lại bắt cả em tới đây. Thoạt nhìn thấy em trong phòng này, tay chân anh cứng lại, tưởng như không cất nổi lên nữa. Nhưng lại chính đôi mắt em, khuôn mặt, hình dáng em đã cho anh sự bình tĩnh, thôi thúc anh hành động. Anh múa cho chúng nó xem! Có kì cục thế này bao giờ không em? Đừng trách anh. Anh sợ không làm chủ được tình cảm của mình nếu gặp em và con, anh phải cắn răng làm ngơ. Xong trận này, anh cũng định cậy người đi tìm em và con. Hiểu cho anh. Sau Mậu Thân đến giờ, chúng nó thâm độc và xảo quyệt lắm. Và thằng Xanh nữa! Em không biết mặt nó đâu. Khi nó về đội thì em đã chuyển sang hoạt động hợp pháp trong thành rồi. Nó đang ngồi kia. Nó đang rình mò chúng ta đó. Em hãy nhận mặt nó cho rõ và tỉnh táo lên em!., ôi! Anh thương con quá! Bệnh tình của con ra sao rồi em?
 Anh múa say sưa như chỉ múa riêng cho mình chị xem. Và chị thì vẫn đứng xem thản nhiên như một du khách ở đô thị lạc về vùng sơn cước. Nhìn kỹ, mới thấy thỉnh thoảng bờ môi chị hơi nhợt đi và bộ ngực đưa lên hạ xuống dồn dập hơn. Người vợ đang gắng gượng chống đỡ lại tình cảm thực của mình. Bằng con mắt, chị vẫn nói với anh những lời thầm lặng và chỉ có mình anh mới hiểu nổi mà thôi. Chị ân hận quá. Giá đêm hôm kia chị đừng giữ anh và đêm sau nữa, cũng đừng kêu anh trở lại. Em nhớ anh quá, anh biết không? Chưa biết rõ anh là ai, em không thể để anh im lặng ra đi được. Em lũ lẫn mất rồi! Vòng quay của anh chậm dần lại, cánh tay anh trải ra đỡ cái lưng oằn xuống. Chàng dũng sĩ đang quần quại dưới ánh nắng thiêu đốt của lửa trời... Em đừng ân hận gì cả. Tất cả là do anh. Anh cảm thấy cần phải quay lại với em và con. Chị cúi xuống. Không! Em có lỗi. Em không ngờ đưa anh vào bẫy để chúng nó bắt anh. Anh tha lỗi cho em. Mắt chị mờ đi...
 Lê Thuấn, viên đại uý có ria mép nhìn sang Hoàng Xanh bật ngón tay đánh tách. Y ngả người châm thuốc hút, mặt không giấu được vẻ mãn nguyện. Trong thâm tâm, không muốn ngón đòn này của Xanh thành công. Thằng cha Việt Công cải giáo này đã nhiều làn chơi trội quá rồi.Nhìn khuôn mặt của Hoàng Xanh đang sạn cứng từng mảng theo đà kết thúc của điệu múa hắn thấy hởi long hởi dạ.
 Ngài đô trưởng ghé sát vào tai ông bạn già hỏi nhỏ:
 -Thế nào giáo sư? Hắn múa có hồn đấy chứ Giáo sư Luân vẫn còn nguyên nét xao động trên mặt. Trong suốt điệu múa vừa qua, ông đã vô tình gõ tay nhè nhẹ xuống mặt bàn làm nhịp cho từng tiết tấu. Có lúc hào hứng, ông nhổm cả người dậy, bàn chân đong đưa lại không ngớt.
 Tôi không rõ anh bắt người này múa để làm gì, nhưng đây quả là một điệu múa rất tuyệt. Giàu bản sác dân tộc và người thể hiện cũng tài. Tôi e rằng nếu còn đánh nhau liên mien, nếu còn có sự hiện diện của người Mĩ ở bên này lâu thêm chừng mươi năm nữa, chác cHắn không còn tìm đâu ra được một điệu múa như thế này nữa. Chao! Con người dám phủ nhận mặt trời, thật là đẹp. Cách đây mươi năm, trong một chuyến đi sâu vào khảo cứu văn hoá dân gian thuộc vùng chiếu thuật I, tôi cũng đã được xem những điệu múa như thế này. Lửa đốt sang rừng... Con trâu mập ú xoay tròn ở giữa... Những bộ ngực vuông vức và lưỡi mác bay ra...Xin lỗi! Người đàn ông Kor này làm tôi xúc động. Hồi ấy chúng ta đều còn rất trẻ...
 Ngài đô trưởng khẽ nhún vai ngầm tỏ ý cHắn nản rồi nhìn sang Lê Thuấn. Viên đại uý mỉm cười gật đầu, nói nhỏ:
 -Thưa thiếu tướng! Không còn nghi ngờ gì nữa. Đây đúng là một hình mẫu người Thượng xét cả về hình dáng, ngôn ngữ, tâm lý và phong tục. vả lại với lối múa ấy, có thể cho phép nghĩ rằng, hắn đã bắt đầu múa từ nhỏ. Còn người đàn bà kia - Hắn lại mỉm cười - đôi lúc tỏ ra có những dấu hiệu xúc động khác thường nhưng vẫn là loại xúc động bình thường trong một hoàn cảnh đặc biệt. Tôi thấy chưa có những kết luận xác thực được.
 Khi đó, chỉ riêng thiếu tá Xanh vẫn không rời mát khỏi người đàn bà. Vì đã có chủ định riêng nên hắn bỏ ngoài tai tất cả những lời rì rầm xung quanh và cả cái cười mỉm đểu cáng của viên đại uý nữa. Thực tâm, hắn không tin chị là vợ của Ba Xuân. Hình dáng mặt mũi chị, hắn mới được anh ta tả sơ qua một lần, lâu lắm rồi, hồi còn ở hậu cứ: Đẹp, mảnh mai, mát to và sâu. Thế thôi, người đàn bà này nhìn kĩ cũng có những nét tương tự, nhưng... dân đô thị nhàn du thiếu cha gì những người như thế: mảnh, mắt to và sâu! Nhưng tại sao một người hoạt động có kinh nghiệm như Ba Xuân lại có thể sơ ý ghé vào nhà thị tới hai lần? Tất nhiên là đứa bé... Nhưng dứt khoát phải có một sức hút gì ghê gớm lắm: Tình nghĩa vợ chồng, cha con, nhân tình hoặc đồng đội đồng chí chẳng hạn. Song cũng có thể không phải, chỉ là một câu chuyện mua bán kiếm ăn bình thường. Đã nghi là cứ bắt. Một ngàn cái nghi chỉ cần đem lại một cái trúng là lãi rồi. Đêm qua, sau khi anh bị giải đi, Hắn đã lén ở lại coi kỹ mặt đứa bé nhưng ngó qua ngó lại, hắn chỉ thấy khuôn mặt bé đó có vài nét hao hao giống má nó thôi. Hắn không tìm thấy một nét nào của ba nó ngày xưa, một khuôn mặt trẻ trung đẹp đẽ mà giờ đây luôn luôn bị một khuôn mặt xấu xí khác chồng chéo lên. Được ăn cả ngã về không. Tâm lí con mồi càng được tác động từ nhiều phía càng dễ xét đoán. Hắn quá rõ, không ai giàu tình nghĩa thuỷ chung như những người lính ở trong rừng. Chỉ cần một sứt mẻ đau đớn dù rất nhỏ đến người than, bạn bè là họ đã tưởng như không chịu nổi rồi trong khi chính họ có thể chịu đựng được ngàn lần hơn. Hắn cũng phải thừa nhận rằng, lần đầu tiên thằng đại uý ranh con có được một nhận xét, dù sặc mùi xỏ lá, nhưng mà đúng. Thằng ranh con vẫn đang còn lảm nhảm cái gì vậy? Chác nó sướng trong bụng lắm! Thật khốn nạn nếu lần này mà rụm nữa. Hắn quyết định chuyển sang phương án hai.
 -Thôi được rồi! Dừng lại.
 Hắn đủng đỉnh tiến đến trước anh, miệng cười cười nhưng quai hàm lại nghiến chặt. Chao ôi! Nếu có thể được, Hắn đã dùng răng cắn nát bộ ngực vênh vênh kia ra rồi. Bộ ngực như vách đá ấy đang đưa lên đưa xuống dồn dập trong những hơi thở dốc. Cái thẹo... Hồi nãy trong một thời khắc rất nhanh, hắn đã kịp phát hiện ra một chút biến sắc trong mắt chị khi anh để lộ ra cái thẹo này. Tất cả mọi bí mật nằm gọn trong cái vết thẹo vu vơ đó. Có thể lắm chứ. Phải có một quan hệ hết sức thân thuộc mới biết được những tì vết sâu kín của nhau.
 Đáp lại cái nhìn gườm gườm của tên phản bội, anh mở miệng cười, vẫn cái cười lành hiền, dè dặt pha chút ngạo nghễ. Hắn thực sự muốn cho một quả đấm vào cái miệng đó, cho từng chiếc răng lả tả rơi xuống, cho nó biến đi đâu thì biến để hắn khỏi phải làm những việc kế sau đó nữa. Hắn nhắm mắt lại định thần một giây. Hắn biết, chỉ nóng nảy bộp chộp một chút thôi là cái miệng có ria mép đằng sau kia lại mấp máy ngay. Khi mở mắt ra, như một sự thách đố, điều đầu tiên hắn nhìn thấy lại là vết thẹo. Một ngẫu nhiên hay ngay từ đầu, con mắt hắn đã dán chặt vào đó? Mắt Hắn vằn lên. Có phải nó đây không? Cái dấu ấn may mắn đã tạo nên tình yêu của mày mà đêm trước Mậu Thân chính mày đã kể cho tao nghe? Mà sao lúc ấy tao lại không đòi xem tận mát? Nếu vậy bây giờ tao sẽ xem và cả con đàn bà đang ở trước mặt mày cũng xem luôn. Vầng trán vuông căng ra kéo đôi mắt hắn xếch lên. Rồi như một ấn ức lâu ngày vô tình tìm được lối thoát, cái lối thoát mà cách đó nửa giờ không hề có trong dự tính, Hắn vơ quàng lấy con dao rọc giấy mỏng ở trên bàn cắm thẳng vào cái sẹo xam xám đang nhớt nhát mồ hôi đó. Thân hình anh giật mạnh một cái trong tiếng hộc phát ra từ trong cổ họng. Đau quá! Anh lảo đảo chực quỵ xuống nếu không có bức tường cản lại. Bằng một phản xạ tự nhiên, anh định đá mạnh vào cái mặt trắng trẻo đang chập chờn trước mắt, nhưng tiếng rú kinh hoàng của chị đã giữ chặt lấy anh. Bắp chân anh rung lên từng chập. Anh giơ tay định rút con dao ra khỏi vết thương cũ. Biết trước ý định đó, Hoàng Xanh chặn ngay.
 -Cứ để yên như vậy! Nếu động đậy tao bắn.
 -Khẩu súng nhỏ xíu trên tay Hắn găm vào ngực anh nhưng con mắt lại chiếu về phía chị.
 -Chị nói đi! Người đàn ông này là ai?
 -Không! Không... Tôi không biết.
 -Nhưng sao chị lại hoảng loạn thế kia?
 -Không...Các ông ác quá! Người này tốt với bà con...Đã chữa khỏi bệnh cho con tôi... Các ông nỡ nào. Không! Tôi không biết. Các ông cho tôi về.
 -Nếu chị nói thiệt, chồng chị sẽ sống.
 Tiếng “chồng” hắn nhấn mạnh, kéo dài khiến chị sa sấm mặt mày như có cái gì đang reo xoang xoảng trong đầu...ôi! Em không thể...! Máu anh ra nhiều quá! Đau lắm phải không? Anh cứ hét to lên! Hét thật to lên, nó sẽ đỡ đi. Đừng! Anh đừng nhìn em như thế. Em không thể chạy lại băng bó cho anh như trước được đâu. Vâng! Em hiểu. Em sẽ không làm gì không nói gì hết.
 -Các ông đừng nói như vậy oan cho người ta. Chị nói rắn rỏi - Chồng tôi đi lính quốc gia chết hồi Mậu Thân rồi, cả khu phố đều biết. Vô cớ các ông bắt tôi đến đây rồi gán vợ gán chồng. Kỳ cục quá! Thôi, các ông cho tôi về.
 Hoàng Xanh cười nhạt. Hắn im lặng giây lát. Máu vẫn sủi bọt ứa ra chảy theo cánh tay anh đọng thành vũng dưới đất. Nước da xạm nắng của anh đã chuyển thành màu chàm, hai hàm răng nghiến lại, mắt như muốn lồi ra, anh loạng choạng đứng không vững nữa. Bỗng anh hét lên một tiếng lạc giọng, giống tiếng gầm của con thú bị thương.
 Giáo sư Luân từ nãy quay mặt đi không dám nhìn cảnh này, bây giờ xô ghế đứng dậy, giọng hụt đi:
 -Ông thiếu tướng! Đây là một cuộc sát sinh, nó không thuộc những vấn đề tôi nghiên cứu. Tôi sẽ không giúp gì được ông đâu và rất tiếc là đã đến đây - Ra tới cửa, ông còn quay lại, dõng dạc, mắt nhìn thẳng vào thiếu tá Xanh - Chính các ngài mới là người đánh mất bản ngã.Con người không nên hành hạ con người như thế, trun cổ lắm! ông đi nhanh ra hành lang như kẻ chốn chạy.
 Với một sắc mặt không mấy vui vẻ, ngài đô trưởng hất cằm về phía Xanh. Hắn hiểu đã đến lúc phải sử dụng đến cái tiểu tiết cuối cùng. Hắn bước đến gỡ hai bàn tay đang bưng mặt của chị ra. Hai mắt chị mở to, khô khốc.
 -Các người gan góc lắm. Lính đâu! Vô băng bó lại cho nó. Và bảo nó im đi, đứng rống lên như vậy nữa.
 Đại uý Lê Thuấn vừa rồi ngả người ra thành ghế mắt nhắm hờ như ngủ, nghe Hoàng Xanh nói vậy, hắn ngồi thẳng dậy che miệng khẽ ngáp dài một cái. Cái trò meo! Cú ngáp như đám nước miếng lầy nhầy bắn thẳng vào mặt Xanh.
 -Thượng sĩ! Sáng nay anh có ăn gì không mà lề mề vậy hả? Không biết dồn cáu giận vào đâu, hắn bèn đổ lên đầu người thượng sĩ to lớn, đen mun như người chàm đang bậm bịch đi vào phòng. Bằng những động tác thô bạo và cục cần, trong nháy mắt, gã đã làm xong phần việc được sai khiến của mình. Bị mất máu nhiều, Xuân ngồi lả người đi trên ghế, môi se lại, cổ lệch sang một bên.
 Hoàng Xanh đặt mạnh trước mặt anh một trai nước ngọt.
 -Chưa xong đâu.Uống đi! Uống một chút cho lại sức mà chứng kiến cảnh đời.
 Anh ngước cặp mắt đầy oán trách nhìn lên, lắc đầu. Xanh cười khẩy. Hắn xỉa tay về phía chị, thản nhiên nói với ngã thượng sĩ. - Mấy bữa nay chú vất vả nhiều, tôi thưởng công cho chú đó.
 Mắt tên lính hực lên một vết loé man dai. Gã dập gót giày một cái cốp tỏ ý không phản đối. Nán lại một chút rồi bằng những bước đi dài và nặng, gã lừ lừ tiến đến. Bóng hắn cao to đen đúa, còn cách xa chị mà đã như muốn phủ chụp lên cái thân thể mảnh dẻ ấy rồi. Chị lùi lại và chợt nhận ra đó là người lính đứng lừng lững ở cửa hồi hôm đến bắt anh. Chị run bán người lên. Không! Đó không hẳn là sự sợ hãi, sau này nghĩ lại chị mới cho là thế, nhưng cũng không hẳn là nỗi giận dữ đến ghê tởm trước miếng đòn hiểm của kẻ thù. Cũng có thể là cả hai. Lúc ấy chị chỉ biết co người lại, chụm hai tay lên ngực như một phản ứng tự vệ bản năng. Bước chân của tên hung thần khua mỗi lúc mỗi to hơn bên tai chị...Đằng này, dựa vào thành ghế, anh bỗng bật người đứng dậy, hơi nhào về phía trước. Cùng lúc mũi súng của Hoàng Xanh đã rung rung ở sát khuy áo ngực anh. Tiếng nói của hắn vẫn bình thản nhứ không:
 -Bây giờ tới lượt anh. Nói đi! Anh là ai? Người đàn bà kia là ai? Chỉ thế thôi là mọi việc lại sẽ trở về không khí ban đầu. Tôi không thích hỏi suông và cũng không thích nghe những câu trả lời suông. Anh biết đó.
 Nghe hắn nói, anh thấy một mùi tanh tanh bốc lên nồng nặc. Khốn nạn quá! Điều này anh hoàn toàn không thể ngờ tới. Sự khinh bỉ và căm giận khiến con mắt anh thốt nhiên đỏ ngầu dữ tợn.
 Hắn hơi chếch nòng súng lên... Vấp cái nhìn xăm xoi của Lê Thuấn, Hắn lại hạ xuống, khàn giọng.
 -Thế nào?
 Anh cất tiếng nói nặng nề:
 -Bà này không có tội vạ chi. Các người cứ giết chết tui đi cho hả cơn ác độc. Các người ác hơn con hổ trên rừng, con trăn trong khe núi. Các người làm vậy, xuống tới địa ngục, con ma con quỷ cũng theo xuống hút máu không tha đâu.
 -Khoan đã! Chuyện địa ngục, chuyện ma quỷ nói sau. Chị chỉ còn biết nhìn về phía anh. Không chịu đựng nổi cái nhìn ấy, anh nhắm nghiền mắt lại. cả hai người lúc này đều không kịp nghĩ được điều gì nữa. Một tích tắc trôi qua...
 -Tiếp tục!
 Tiếng hắn văng ra như một viên đạn và tiếng đế giày tán đinh ri-vê của gã xiết vào ngực anh. Tên lính đã đến sát chị... Chính cái giây phút anh còn chưa biết xử lý ra sao thì như một điều quá vô lí: Bốp! Bốp! Gã hung thần bật lùi trở lại đưa bàn tay lên ôm cứng lấy cổ. Gã ngơ ngác nhìn chị như nhìn một điều không có thật rồi méo miệng cười. Gã hoàn toàn không thể tin rằng, người vừa cho gã ăn đòn lại chính là con mồi bé bỏng và ngon lành kia. Và khi đã hiểu ra, hắn lại chồm lên nữa. Nhưng lần này, cũng vẫn như là một điều không có thật, hắn lại loạng choạng dạt sang bên, một phần ngực hắn đau nhói. Mặt mày thôn ra, Hắn quay lại Hoàng Xanh tỏ ý không hiểu -Đồ ăn hại! Zô tiếp đi!
 Giọng hắn không căng hơn nhưng có sức đe dọa sác lạnh bên trong. Không dừng được, gã thượng sĩ thở phì phì và lại bước tới, những bước thận trọng chậm chạp như dò mìn. Đối phương của gã lúc này như con gà mái, mát quác lên, sẵn sàng cán xé tất cả. Gã cười hề một cái vô nghĩa rồi khom lưng xuống, định túm hai chân nâng bổng chị lên. Chính vào lúc chị quyết định chuyển mạnh đầu gối về phía trước, phía cái mồm đang thở phì phì như con rán hổ đó thì như một chớp lóe, hình ảnh vết thương đang nhỏ máu của anh ngăn chị lại. Nếu để lộ mình bây giờ, dù chỉ là một thế võ tự vệ thôi, sẽ lỡ làng hết. Trong tích tác do dự ấy, bất thình lình đất dưới chân chị hẫng xuống rồi vòng tay gã ác quỷ đã xiết chặt lấy hông nâng bổng chị lên từ lúc nào. Ngay cạnh đó, khuôn mặt Hoàng Xanh hiện ra chập chờn, méo xẹo. Chị cố quằn quại tuột khỏi tay ram ráp rắn như gỗ lim của gã thượng sĩ...
 -Nhàn ơi! anh rú lên trong đầu. Hàng ngàn vòi ong đang nhằm ngực anh châm đốt. Anh đứng chết trân, miệng há ra như trúng gió. Nhàn ơi! Anh không chịu nổi nữa rồi! Không cần gì hết. Chết cùng chết, sống cùng sống. Nước cuối cùng còn đắn đo gì nữa. Quân chó má! Tao giết sạch tất cả lũ chúng mày rồi muốn ra sao thì ra.
 Thằng đồ tể vác chị đi nhanh vào một cửa ngách ăn thông sang phòng tối. Chị chỉ còn biết ngoái lại nhìn anh, đôi mắt bạc đi. Không kịp nghĩ ngợi gì thêm, anh định cúi xuống dùng cánh tay còn lành lặn giằng mạnh chân một chiếc ghế quay vung ngang đầu... Đừng! Anh đừng mắc bẫy chúng nó! Đôi mắt thống thiết của chị chạm mạnh vào tay anh. Chiếc ghế màu xám chì sắp bay ra thì dừng lại. Thằng đồ tể đã đưa một chân vào khoảng tối.
 Chiếc ghế lại chực bung ra. Anh không nghe em, em chết ngay trước mặt anh đây nè! Một lần nữa chiếc ghế rung mạnh trong tay, vang một tiếng khô khỏng trên nền nhà. Cái nhìn cuối cùng của chị đã làm anh oải người ra, muốn ngồi phịch xuống đất...Một tiếng cười ai đó ré lên lảnh lót bên tai anh. Anh chợt tỉnh. Chưa, chưa mà. Tao đã bại đâu. Bằng một cố gắng phi thường, anh gượng đứng dậy nhặt chiếc áo, khoác vào người. Ngay lúc đó từ phòng bên vang ra tiếng giãy đạp, tiếng gầm gừ...Im lặng giây lát. Đại úy Lê Thuần ngọ nguậy trên ghế, đưa lưỡi liếm môi một cách tiếc rẻ. Lại tiếng thở hổn hển, tiếng vải bị xé rách, hình như có cả tiếng nói nho nhỏ đứt quãng...chiếc áo trên tay anh rơi xuống. Anh cúi nhặt lên nhưng lại rơi. Anh cắn chặt răng vào môi để khỏi rên lên một tiếng. Đã bao giờ anh phải chịu đựng một nỗi khổ đau ghê gớm đến như thế này không? Lửa ở đâu kéo đến rùng rùng bùng cháy trong đầu anh! Lửa cháy xèo xèo trong vết thương vừa được băng bó. Mồ hôi anh nhỏ giọt mà chân tay anh thấy lạnh ngắt đi. Tuy vậy, một góc nào đó trong đầu, anh vẫn biết có sáu con mắt đang găm thẳng vào mình. Nhưng anh cũng biết, nếu bây giờ mà chị gọi tên anh một tiếng, phải chỉ cần một tiếng thôi, là anh không còn cần kìm nén gì nữa hết. Do cố sức, máu trên bắp tay anh lại nhòe ra đẫm băng. Anh bấu chặt những đầu ngón chân xuống sàn để tránh một sự bật lên điên loạn. Tiếng thở, tiếng giãy đạp trong kia mỗi lúc một chìm dần...Có cái cối nào đang xay ù ù trong đầu? Anh lẩy bẩy đi ra cửa sổ và cố ngước mắt lên nhìn trời. Trời đang rách toác! Anh nhìn xuống đường. Đường phố đang thở hổn hển. Anh cố nghĩ sang một chuyện khác...Cái chuyện ấy quần lên! ừ...ừ phải rồi! Phải rồi...Cái cư xá Mĩ. Cái cư xá Mĩ...phải rồi. Cái gì đây? Không! Không có gì cả. Cái cư xã Mĩ đó! Thật kì lạ! Giây phút ấy, trong đầu anh thoát hiện lên cái cư xã Mĩ màu xám thật. Hiện về một giây thôi nhưng cũng giúp cho thần kinh anh khỏi đứt tung ra. Tựa như trượt trên một đà dốc đứng, anh vội vã bíu lấy cái điểm mấu chơi vơi ấy. Anh gồng mình lên cố dồn tụ mọi suy nghĩ vào đấy... Thằng nào cười đó? Tiếng cười của bọn Mĩ trên những chiếc xe GMC, trên xác đồng đội, trên những tòa cao ốc...Tiếng cười vang lên ngay trong căn phòng này. Đông lắm. Phải đánh bỏ mẹ chúng nó đi! Phải cho nó cháy lên. Cháy to lên. Bùng bùng...Thằng Xanh! Cái gì đó? Cái gì kêu đó? Không, không, anh không muốn nghe những âm thanh ở phòng bên dội sang. Nhưng không được. Tiếng thở nghe nhỏ dần... Lại một tiếng nói đứt quãng cất lên... Tiếng đàn ông hay đàn bà? Tai anh nhức buốt như lặn xuống nước sâu. Trời ơi! Sao bỗng im lặng vậy? Sao không còn ai nói gì vậy nữa? Toàn thân anh cóng buốt lại. Có con rắn nào đang quẫy lộn trong ngực điên đảo. Thôi rồi! Khổ em rồi, Nhàn ơi! Chính vào cái lúc đầu óc anh quay cuồng thì cánh cửa phòng bỗng mở. Lặng ngắt... Lát sau, gã thượng sĩ lù lù đi ra. Hắn vừa bước vừa xốc lại bộ quân phục đã đứt tung gần hết khuy. Mặt mũi hắn đầm đìa mùa hôi. Đến trước bàn, gã trừng trừng nhìn thẳng vào mặt Hoàng Xanh:
 -Thiếu tá không tốt! Các ông không tốt!
 -Cái gì? - Hoàng Xanh ngớ ra.
 -Thiếu tá sao lại kêu tôi làm điều xấu?
 Người đàn bà này không có tội mà. Người đàn ông kia tốt đấy. Nó chỉ lo bán thuốc thôi. Tui cũng là người Thượng, tui hiểu cái bụng nó nhiều. Người Thượng cái bụng nghĩ thế nào, cái miệng nói thế ấy, nó không biết nói dối đâu. Tui cũng không muốn làm điều xấu đâu. Có tội đấy.
 -Hả? Mày nói cái gì? - Lần đầu tiên Hoàng Xanh gầm lên - Thằng mọi mày nói cái gì?
 -Tui không phải là thằng mọi. Tui là người Thượng ông thiếu tá kêu tui là mọi, tui thù đó.
 Nói xong anh ta lầm bàm đi ra.
 -Đứng lại! Đi đâu?
 Một chai rượu bị quật mạnh vào tường, kê tấm lưng bè bè của người thượng sĩ. Những mảnh thủy tinh bay lên rồi rớt xuống lạnh tanh. Anh lính không quay lại.
 Vừa lúc đó một giọng cười vang lên ở độ cao. Giọng cười sảng khoái, vui vẻ không có một chút vướng bận gì cả. Giọng cười của ngài đô trưởng. Thoạt tiên ngài còn cười nhỏ, sau mỗi lúc một to hơn. Lê Thuấn đang dõi nhìn vào phía phòng tối, thấy vậy cũng cười theo. Một lát, lấy khăn tay chẩm chẩm mắt, ngài đứng dậy, cơ mặt vẫn nháy nháy.
 -Thôi đủ rồi. Thử thách đến vậy đủ rồi. Một màn kịch hay, kết thúc bất ngờ nhưng không có hậu. Thật đáng tiếc cho ông bạn giáo sư gàn dở của tôi không ở lại. Mà cũng may. Chút nữa thì Ooc - giơ. ông Xanh! Phải thừa nhận bữa nay ông không gặp may rồi đó! Thôi! Stop lại đi! Thế nào, vui vẻ đấy chứ ông Thuấn?
 -Dạ! Rất ngoạn mục - Thuấn cất giọng đưa đẩy - ông Xanh đây tỏ ra là một người dàn kịch có tài nhưng phiền nỗi kịch bản lại không hay. Dạ! Thưa thiếu tướng, đến bây giờ tôi có thể kết luận được là ông Xanh nhàm.
 Ngài nghiêm mặt lại.
 -Hãy để cho ông Xanh kết luận ông Thuấn ạ! ông Xanh ở lại giải quyết nốt hậu quả. Nói văn phòng nó cho mỗi đứa ít tiền. Mà chi cho kha khá vào, nói là lệnh của tôi, để chúng nó quên chuyện này đi. Tôi không muốn bọn báo chí nó dòm ngó vào quá nhiều những vụ như thế này nghe thiếu tá. Còn tên Thượng này - Ngài vẫy Xanh lại gần - Tùy, nếu vẫn còn nghi ngờ, ông hiểu ý tôi chớ?
 -Dạ hiểu.
 -Thôi ta đi, ông bạn chuyên gia tâm lí không may.
 -Dạ! Đúng là không may.
 Lê Thuấn trả lời với cái cười đầy ngụ ý rồi đi theo ngài Tư lệnh ra khỏi phòng. Tiếng giày đi đến hành lang rồi mà vẫn còn nghe thấy một tiếng cười nhỏ của y vọng lại.
 -Đồ đĩ rựa!
 Hoàng Xanh bật chửi và gieo người xuống ghế.
 -Thượng sĩ! Thả ra! Thả cả ra. Thả ngay bây giờ. Thả hết! Con mẹ nó!
 Nhưng hắn lại vội nhổm dậy, mắt lóe lên một tia ma quái. Chưa! Chưa xong đâu ông bạn ạ. Sự đời đâu có đơn giản đến thế.
 Xuống tới đường rồi mà chị vẫn còn mơ. Gió lạnh lùa vào những miếng vải rách trên người khiến chị co rúm lại. Khuya rồi. Liệu ảnh có được thả ra ngay không? Nép vào một góc me già, chị có ý chờ. Một tiếng quát từ trong chòi gác vọng ra.
 -Chị kia! Muốn trở lại ngồi tù hay sao mà còn đứng đó? Đi đi!
 Chị giật mình rời khỏi gốc cây, chẳng bao giờ hắn cho anh ra cùng đâu. Mà có ra cùng chăng nữa thì cũng vậy. Làm sao dám gặp. Nấn ná ở đây chúng sinh nghi. Thôi, đã giữ thì giữ cho trọn. Nhưng... Làm sao có thể đi được khi chưa biết rõ số phận anh ra làm sao?
 Chị còn đang lưỡng lự thì một chiếc xe Vespa trờ tới đậu sát ngay lề đường. Người đàn ông ngồi trên xe nhẹ nhàng nhảy xuống.
 -Chị! Chị lên xe tôi đưa về nhà.
 -Ông... ông là ai?
 Người đó chưa kịp trả lời, dưới ánh đèn cao áp sáng xanh, chị đã thoáng nhận ra khuôn mặt xương xương của Hai Băng Giá.
 -Ông Lẩm... Có phải ông Lấm...
 Nét mặt Lẩm sáng bừng.
 -Chị vẫn còn nhớ tên tôi! Bây giờ đi đã. Chị khoác tạm cái áo này cho đỡ lạnh.
 Cầm cái áo blu-dông của Lấm trên tay, chị ngần ngừ chưa muốn lên xe. Chị không thể đi mà chưa nhìn thấy anh, nhìn từ xa, nhìn chút xíu thôi cũng được.
 -Lên xe đi chị! sắp tới giờ giới nghiêm rồi - Lẩm giục.
 Anh Xuân ơi! Em về trước đây. Cầu mong cho đêm nay anh được yên lành. Em sẽ tìm được anh... Nhìn lại lần cuối cùng ô cửa sổ sáng đèn, chị đành để chiếc Vespa mang mình lao vút đi. Gió lạnh không làm chị tỉnh táo hơn. Tiếng Lấm nói gì ào ào trước gió chị cũng không Nghe thấy. Trước mắt chị chỉ có hình ảnh anh với bắp tay nhòa máu chập chờn... Ngồi đằng sau, chị để mặc cho nước mắt trào ra.
 Chiếc xe dừng sát lề đường.
 -Đến nhà tôi rồi sao? Chị giật mình -Chưa, nhưng chị cần ăn một chút gì cho lại sức.
 -Cảm ơn...Tôi không đói. Anh đưa giùm tôi về nhà luôn.
 Chiếc xe lại nổ máy bon đi. Lẩm quài tay lại đằng sau in lặng đưa cho chị chiếc khăn tay gấp nhỏ thoang thoảng mùi nước hoa. Người này biết mình khóc! Thấy cần phải nói một điều gì đó với Lẩm, chị hỏi:
 -Anh đi đâu mà gặp tôi ở đó?
 -Đi đón chị.
 -Đón tôi?...
 -Đêm hồi hôm chúng nó bắt chị đi, tôi cũng có mặt ở trước cửa nhà chị. Tôi mang thuốc đến cho thằng nhỏ...Chúng nó đánh chị không?
 -Không...Không!
 -Làm sao chị bị bắt?
 -Không biết nữa. Họ nghe tôi là cái gì đó.
 -Còn tay bán thuốc?
 -Tôi cũng...Giọng chị tắc lại.
 -Coi chừng chúng làm tiền đó. Tôi đã nhớ rõ mặt thằng đến bắt chị. Trán nó cao và vuông. Tôi sẽ cài đàn em đập cho nó một trận chết bỏ.
 -Đừng... Đừng! Không có chi đâu.
 Chị biết câu vừa rồi của Lẩm là thật lòng và chị không nghi ngờ về sự tốt bụng của anh. Xe phanh êm.
 -Tới rồi! Cảm ơn anh Lẩm nhiều.
 -Chị vào đi! - Giọng Lẩm dịu dàng khác thường.
 -Nếu tới đây thì có gì, chị cứ cho gọi tôi, tôi xin hết lòng, ở cái Sài Gòn này, gặp được một người có tư chất như chị không dễ đâu. Không hiểu sao...Thôi! Chị vào đi.
 Vào đến trong nhà nhìn ra, chị vẫn thấy chiếc xe của Lẩm đậu nguyên ở đó. Thầm lặng.
 Nửa tiếng đồng hồ sau, anh cũng xuống tới mặt đường, vết đau ở tay bây giờ mới tấy lên nhức nhối. Anh dừng lại ngẩn ngơ một chút. Đường vắng tanh, chỉ còn lại vài ba bong dáng người đi lại vội vã. Nơi ngã năm có mấy chiếc xe quân cảnh phóng vụt qua. Anh nén một hơi thở dài, đặt tay nải lên vai đi ngược trở lại. Không thấy chị đâu cả. Và dù đã biết chắc chị không còn đấy nhưng anh vẫn hun hút nhìn theo con đường dẫn đến ngôi nhà nhỏ ở chân cầu. Cái bóng của anh hắt xuống mặt đường xiên xẹo. Cuộc hẹn với chú Tư thế là lỡ. Chắc chú mong lắm. Bây giờ hãy đến bùng binh ngủ tạm một đêm, mai tính. Anh lê chân từng bước, đầu óc suy nghĩ mien man. Con mắt thông thiết của chị cứ lơ lửng trước mắt... Em đã về tới nhà chưa? Dọc đường có bị sao không? Mong rằng giờ này em đang ở bên con. Tội nghiệp con! Xa mẹ lâu chắc con khóc nhiều lắm. Tất cả cơ sự này đều do anh, tại anh, tại cái tính gàn dở của anh. Nếu trận này làm ăn trot lọt, anh sẽ chuộc lại tất cả, sẽ nói với em thật nhiều, ôi! Nếu em biết rằng những ngày xa nhau, những ngày trong tù, anh đã nghĩ về em và con cồn cào đến mức nào. Một phần máu thịt của anh ở ngoài đời, anh không thể để cho chúng nó muốn đưa anh đi đâu thì đi. Anh càng không thể chết. Anh sợ... Chính mẹ con em đã giúp anh tìm về được với sự sống. Anh cần phải quay lại. Ôi! Đôi mắt của em, đôi mắt hay ngước nhìn lên bàn thờ. Lúc ấy, thằng lính to lơn kia... Chắc anh sẽ phát điên lên. Thật là trời phù hộ chúng ta phải không em? Anh chỉ còn điều an ủi, sau cơn hoạn nạn, em đã trở về với con nguyên lành. Thương em! Kính trọng em nhiều! Còn anh? Anh bất chấp tất cả. Dù thế nào anh cũng không bỏ dở công việc đang làm. Vì em và con, vì những bạn bè không còn nữa, vì những tên phản bội bấn thỉu trên đời này và vì tất cả, anh phải thiêu thành tro khu đóng quân đó. Chao! Giá có em bệnh cạnh như những trận đánh trước kia, có em bên cạnh trong những phút giây căng thẳng hiểm nghèo... Em đã đi nằm chưa? Em có nhớ cho con uống thuốc đúng liều? Anh vẫn đi chậm rãi để mặc cho lòng bịn rịn vô chừng, vết thương trên tay dường như nương vào đó mà dịu lành đi.
 Anh cứ đi mà không biết có người đang theo anh.
 Hắn cũng đi từng bước chậm rãi và cũng miên man nghĩ những điều xáo trông trong đầu. Đó là Hoàng Xanh. Hắn ngẫu nhiên thả bộ trên cùng một đoạn đường với anh để nguôi ngoai phần nào cái ung nhức vừa qua? Không! Xưa nay hắn không bao giờ ra đường một mình và càng không bao giờ tìm sự nguôi ngoai bằng cách đi thơ thẩn trong đêm. Nguy hiểm. Hay là nuối tiếc con mồi đã làm hắn vất vả suốt tuần qua? Chắc cũng không. Hắn thừa biết những người như anh không bao giờ đến nỗi dại khờ như thế. Vậy thì bây giờ hắn đi đâu trong cái dáng đi đày tâm trạng thế này? Có lẽ điều đó chỉ một mình hắn biết.
 Đúng! Hắn đang đi theo anh, nghĩ về anh và nghĩ về tất cả. Sau những chuyện xảy ra tối nay, Hắn không còn biết mình cần phải làm gì nữa. Thất bại ư? Bẽ bang ư? Cái đó dĩ nhiên rồi. Nhưng hắn không tin là hắn có thể lầm được. Căn cứ vào những phân tích bề nổi thì đó không phải là anh. Nhưng tiềm thức bên trong hắn lại bảo đó là anh. Cho nên hắn đi theo mà cũng không phải là theo. Anh lúc này không còn là anh nữa. Anh đã tách ra thành một nỗi ám ảnh nặng nề. Vậy thì anh hay không phải là anh cũng vậy thôi, miễn là hắn phải xóa đi nỗi ám ảnh đó. Hắn đi theo. Đi như bị sức hút của ma lực nào đó. Thoạt đầu hắn thấy cần phải đi theo con người đó. Theo dõi, hắn ngớ ra. Theo để làm gì? Nhưng hắn vẫn cứ theo, như đi theo cái bong của mình. Một tiếng nói vô âm xui hắn không được để vuột cái bong ấy. Nó cũng cảnh cáo hắn rằng, hãy coi chừng. Chỉ mê đi một phút thôi là ngay ngày mai và suốt những ngày sau này cái bong ấy sẽ là nguyên cớ đục rỗng cho đến chết đầu óc hắn.
 Hắn hơi mê thật. Đi qua cửa căn nhà người đàn bà nhân ngãi lúc nào Hắn cũng không hay. Bất chợt đụng một dáng đàn ông từ phía cửa căn nhà ấy đi ngược lại hao hao giống dáng người Lê Thuần, hắn chỉ dừng lại tròn mắt ra một chút rồi phẩy tay đi luôn. Một thằng cha căng chú kiết nào đó thôi.
 Hắn lại đi theo nỗi ám ảnh của mình. Không! Lúc này hắn đâu có nghĩ đến trách nhiệm. Kệ cha mấy thứ đó! Hắn đã cHắn ngấy tất cả rồi. Hắn chỉ có một nhu cầu cần thanh toán ngay cái vật thể đang di động trước mặt kia. Nó là ai? Nó đang làm gì? Hắn chẳng cần biết! Nhưng rõ rang nó phải biến đi trên cõi đời này. Một giờ còn trông thấy nó, dù bất cứ dưới dạng nào, hắn cũng sẽ bứt dứt như bị quỷ ám. Giữ một khoảng cách vừa phải, trong phút chốc hắn bỗng hóa than thành kẻ đi săn lành nghề đang dõi theo con mồi với bước chân êm nhẹ, với con mắt lạnh sắc nhìn xuyên đêm tối. Sự nhức nhối, mê loạn trong suy nghĩ của hắn dồn tụ nóng cháy vào anh. Không hề hay biết, anh vẫn thả nổi tình cảm của mình trôi về với vợ con. Đâu đó có trái me rụng cô đơn xuống mặt đường khiến anh chợt chạnh lòng.
 Có một căn phòng trên lầu hai giờ này vẫn sáng đèn. Hình như đó là ánh sáng đèn duy nhất còn sót lại trong cái ngõ phố đang ngủ im lìm này. Chắc chủ nhân của nó vừa đi đâu về vì cánh cổng sát dưới nhà còn đang mở hé.
 Cô gái đang hát theo tiếng đàn của người con trai. Tiếng hát nhè nhẹ như phát ra từ một cái băng nhạc được mở với âm lượng nhỏ. cả hai đều còn rẩt trẻ. Với mái tóc buông xõa, cô gái có cái vẻ kín đáo dịu dàng như con gái Huế. Cô hát, đôi môi chỉ khẽ mấp máy, mát dõi nhìn vào bong đêm khiến cho tiếng hát giống như một lời tâm sự.
 Anh con trai dong dỏng cao đứng ngả người vào cửa sổ, dáng bơ phờ.
 ...Tôi như ngọn gió lang thang khắp thế gian. Và hiện nay đứng lại nghỉ ngơi dưới chân núi. Vào một chiều mưa bay trên tóc. Thật kinh hoàng! Chỉ thấy những bong lau... Cô gái vẫn hát, tiếng đàn vẫn vang lên nhưng cả hai lại như tách rời ra, lắng chìm trong những tâm tưởng riêng tư của mình. Rõ rang bài ca này, cô chỉ hát cho một mình anh nghe và anh chỉ đàn một mình cho cô hát. Rời rặc nhưng quấn quyện.
 -Sao bữa nay em ca buồn vậy?
 -Thì bài hát anh đâu có vui.
 -ừ - Anh con trai cười xin lỗi - Đêm qua khi viết bài này anh không ngờ nó lại não nùng đến thế.
 -Buồn thiệt! Cứ chạnh nghĩ đến “Bản du ca cuối cùng của loài người không còn đất sống”.
 -Cũng vậy! Chúng ta đâu có khác gì.
 -ở Nha Trang những khi biển động em lại hát những bài ca của anh và tự hỏi giờ này anh ở đâu?
 -Em học sáp xong chưa? Anh mong em từng ngày. Bài hát này anh tặng riêng em, cô đốc tờ có trái tim đau yêu.
 -Cảm ơn anh... Anh! Em kiêu hãnh về anh. Tất cả bọn con gái đều ghen với em. Cho đến bay giờ em vẫn không hiểu tại sao anh lại yêu em, một con bé miệt vườn...
 -Bởi chính cái vẻ miệt vườn của em đó.
 -Trong khi biết bao nhiêu thiếu nữ diễm lệ ở đó thèm được một cái cười mỉm, một cái vẫy tay của anh.
 -Không một ai trong số đó sánh được với em. Xuyên qua cái vỏ ngoài son phấn và diêm dúa của họ, anh không thấy được một ai đáng tin. Giả hết! Bệnh hoạn hết!
 -Tại sao anh không cHắn em?
 -Anh đã trả lời đến nghìn lần rồi thôi.
 -Em không tin. Em sợ mất anh.
 -Thôi! Nói chuyện Nha Trang cho anh nghe đi! Trời! Nhận được tin em cả ngày nay anh hết ra lại vào.
 -Anh có vẻ ốm đi. Có cái gì đó đang đến với anh? Bữa nay trông anh khác?
 -Không!... Không, chỉ có em đang đến với anh. Chỉ cái đó mới là có thật, còn là hư vô hết. Không có em, cả cái Sài Gòn này đều không có giá trị gì, ngay cả những bản nhạc nhạt nhõe cảu anh nữa. Ngột ngạt quá! Em xuất hiện như một cơn gió mát lành và anh thấy muốn sống, muốn viết nhạc. Nhưng anh sự nếu cứ phải sống thế này chừng vài năm nữa thì anh điên mất. Đâu đâu cũng thấy nhí nhố, thấy kệch cỡm. Lòng tự trọng đang đi lộn ngược đầu xuống đất. Còn tình yêu...
 -Thôi đừng nói nữa anh... Em van anh! Ráng chờ em học xong, chúng mình sẽ bỏ tất cả trở về miệt vườn quê em. Em làm thầy thuốc, anh viết bài hát... ủa! Mà đâu có được. Người ta đâu có để anh đi. Nhạc sĩ tên tuổi mà lại.
 -Anh muốn quầng đàn đi cho rồi. Càng viết càng thấy mình quấn quanh như chui vào cầu thang máy mất điện.
 -Vậy mà hàng triệu người thuộc nhạc của anh đó.
 Sự cHắn trường chóng gặp nhau. Nào! Em hát cho anh nghe một làn nữa đi! Bài hát của anh, anh chỉ muốn nghe một mình em hát.
 -Thôi! để ba nghỉ anh. Tối nay em thấy ba hơi lạ đó.
 -Ông vừa ở Tổng nha về.
 -Anh đã hòa thuận với ba chưa?
 -Chắc suốt đời vậy thôi. Hai thế hệ mà.
 -Không phải vậy đâu. Em cho là anh và ba rất giống nhau nhưng cách biểu hiện khác nhau mà thôi, cả hai đều không chịu nổi cuộc sống lố lăng này. Anh thì than vãn bằng tài năng của anh, ba thì càu nhàu đạp phá bằng niềm nối tiếc cái cũ lớn lao của ba.
 -Đập phá cái gì bậy giờ? Phía bên kia họ có cả một chủ nghĩa, một lực lượng, cả một cái Mậu Thân còn đành lui về rừng nữa là chúng ta.
 -Khẽ chứ anh! Thời buổi này... Em sợ lắm! Không hiểu ba đã đóng cổng chưa?
 -Chắc chưa. Để chút nữa anh đóng. Em biết không? Anh ước ao một cuộc đời dịu ngọt thanh bình. Khi đó, với chỉ một cây đàn thôi, anh sẽ đi khắp mọi nẻo đường, mọi xóm thôn hát lên nỗi yêu thương cảu mình mà bấy lâu nay nó còn đang tức nghẹn trong ngực. Còn lúc này, cứ mỗi làn thấy một tiếng sung nổ trên đường, thấy một bong quân phục mang nhãn hiệu ngoại quốc đi nganh ngang là anh lại muốn bẻ đàn đi. Mất hứng! Em bảo anh hay than vãn? Có thể anh yếu đuối, anh ngây thơ, nhưng còn cách nào khác được em! Vậy mà tới đây...
 -Tới đây sao anh? - Giọng cô gái lộ vẻ hoảng hốt -Hà?... Không! Không có gì.
 -Anh cứ là anh như bây giờ là đáng yêu lắm rồi. Tới đây ra sao, cứ phó mặc cho cuộc đời. Em tin cuộc đời rồi cũng dễ chịu hơn.
 -Anh không tin. Không có triệu chứng gì để tin được cả. Mờ mịt đến tận chân trời.
 -Đó! Anh lại bướng nữa rồi! Cứ bập vào những chuyện như thế này, khi nào anh mới bướng kinh người.
 -Anh xin lỗi! Lâu quá mới gặp nhau mà cứ ngồi đây lo cự cãi hoài. Em có đói không? Chúng mình ăn một cái gì đi!
 -Đừng! Em chỉ muốn được ngồi yên nhìn anh.
 -Em có mệt không?
 -Em muốn thức suốt đêm với anh. Chỉ có ban đêm mới thuộc về chúng mình.
 -Không! Anh sẽ ngồi chăm giấc ngủ cho em. Bởi vì cài gì thuộc về chúng mình đâu. Em không nghe tiếng xe cảnh sát dã chiến rú qua rú lại ngoài kia ư? Con người đang từng giờ từng phút tìm cách giết nhau. Ngự trị lên tất cả bây giờ là thứ âm thanh ghê tởm đó. Em có nghe thấy không?
 -Có! Em có nghe. Nghe thấy cả đôi ba tiếng sung nổ bên kia song nữa. Nhưng dù sao đêm vẫn dành riêng một khoảng nhỏ nhoi cho chúng mình trong căn phòng này.
 -Chắc gì. Nó lại sẽ bò qua khe hở mà nhảy vào.
 -Anh đừng nói nữa! Em hiểu anh... Cô gái ôm đầu người con trai ghì chặt vào ngực mình - Anh... Em yêu anh! Anh đừng buồn khổ như thế nữa. Nếu ba cho chúng mình là vợ là chồng, em sẽ suốt đời ủ ấm cho anh.
 Anh con trai vùng ra.
 -Nhưng rồi sau đó là gì? Nga! Em tuyệt lắm nhưng em cũng sẽ không làm anh thanh thản được đâu. Anh chỉ làm cho em khó chịu, cHắn ghét thôi. -Anh Hải! Không... Suốt đời em...
 Hắn vẫn theo sát anh và anh thì vẫn vô tình không biết. Cho tới phút này hắn mới hiểu rằng đi theo anh là hoàn toàn đúng. Không cần kiểm tra lại Hắn cũng biết chắc chắn rằng ba gã nhân viên an ninh do chính tay hắn tuyển chọn đang bám riết con mồi bằng lời ma mãnh riêng của chúng, cảm giác đang được vận động đến sự xóa bỏ hoàn toàn nỗi u uất bên trong khiến hắn khoan khoái. Đầu óc hắn trở lại tỉnh táo như thường.
 Và anh, càng đ ixa tòa nhà ấy, tâm trạng anh cũng như thái trở lại. Nghe tiếng rú của một chuyến xe quân sự rít qua, anh chợt giật mình. Chả nhẽ chúng nó lại để cho mình lêu têu trên đường một cách quá ư tự do thế này (?). Anh chột dạ quay lại. Đường xá vẫn vắng tanh. Anh cười một mình. Vớ vẩn! Lại thần hồn nát thần tính. Nếu nó không còn nghi thì theo để làm gì? Và nếu chưa hết nghi, với một người như mình, nó cũng biết rằng chẳng bao giờ nên theo. Vô ích. Mà cho dù nó có theo chăng nữa thì đã có sao? Ra bến xe và cùng ngược lên rừng à? Xin mời! Tha hồ. Anh lại vững tâm đi tiếp. Đi được một đoạn bỗng anh lại thấy không ổn. Hình như lúc mình bước xuống thang, đôi mắt của nó nhìn theo mình lạ lắm. Giống như đôi mắt của kẻ điên, của kẻ sắp giết người. Giết ai? Giết mình ư?... Nghĩ vậy anh thấy nhồn nhột đằng sau gáy có đôi mắt ấy đang bám chặt vào. Anh vội ngoái lại nhìn làn nữa. Vừa lúc đó, sự khoan khoái đã làm Hắn sơ ý để lộ toàn thân ra ngoài ánh sáng đèn. Cái bóng của Hắn đen thẫm và lặng tờ như một bóng ma. Anh lạnh toát người. Lần đầu tiên trong đời, kể từ trận đánh thứ nhất, hình bóng tên phản bội xuất hiện một cách đột ngột đã khiến anh hốt hoảng đến rùng người. Trong một thoáng, anh đã hiểu cái gì đang đến với mình. Và cái đó chỉ có thể là nó, thằng người có đôi mắt điên dại ấy, thằng người đã có những đêm nằm chung võng với anh mới có thể có được. Anh đột nhiên muốn vùng chạy. Muộn rồi! Phía trước đã có một bóng trực sẵn ở cột đèn. Không thể chần chờ được. Để rơi vào tay nó lần này nữa thì chắc chết! Anh linh cảm thấy tai họa đó và vội ngoắt người sang phải khuất mình trong một ngõ tối. Nhưng cuối ngõ, có kẻ nào vừa ngồi thụp xuống. Thế là nó quyết triệt mình đây. Đêm tối mông lung, ai biết đó là đâu. Khốn nạn! Sự bí bách bất chợt làm anh nóng bừng người. Anh nhảy đến một chiếc ống máng chìa ra vỉa hè với hy vọng leo bám lên mái nhà vượt sang ngõ bên kia. Không được, ống máng cũ quá! Mới chạm vào đã lung lay chực rớt. Anh tạt vào một hốc đổ rác định đu người lên chiếc lan can cạnh đó. Nhưng một con chó rất to đã từ trên lan can chũi mõm xuống gầm gừ, sao đây? Trong tay không có một thứ gì tự vệ! Bằng cảm cảm giác, anh biết chắc những bóng đen kia đang từ từ rút ngắn khoảng cách với mình... Trong giờ phút tuyệt vọng ấy, ánh sáng đèn căn gác hai trước mặt, cái điểm sáng duy nhất trong ngõ tối đó, đột ngột ập vào mắt anh. Kế đó, có cành me dẻo dai bám víu vào cửa sổ. Như giữa biển gặp ngọn hải đăng, anh hạ thấp người xuống rồi ngoặt vào cánh cửa sắt khép hờ...
 Sau một cái hôn của cô gái, Hải bỗng thấy rã rời. Anh biết Nga yêu mình thật nhiều. Yêu với tất cả những gì cô có thể có được trong lòng. Chính thế mà anh rã rời. Liệu rồi sẽ đi đến đâu? Mình có giữ được tình yêu này không? Sáng hôm qua người ta báo cho anh biết tuần sau anh phải có mặt ở trường võ bị. Choáng váng, anh đã phải cầu cứu đến người cha, vị giáo sư danh tiếng ở Sài Gòn. Nhưng giáo sư Luân đã làm thinh. Anh biết cha không bao giờ hạ mình xin xỏ ai một điều gì? Chỉ làm cho ông thêm nổi cáu. Chán chường, anh bỏ đi lang thang suốt. Má mất từ lúc anh còn nhỏ, anh biết cha rất thương mình. Thương theo cách riêng của ông, tuyệt không biểu lộ ra ngoài. Nếu có chăng nữa thì toàn là những lời chỉ giáo khác nghiệt. Không ít lần ông đã cho người làm thu sạch những bản nhạc của anh đốt đi. Kêu ca than vãn không phải việc của những đứa con trai họ Đặng, ông nói thế. Nhưng nếu không có cái đêm Mậu Thân ấy, cái đêm mà anh nghẽn đường không về nhà được, thì anh không thể thấy hết tình cảm của cha. Vừa nhìn thấy anh, ông run bắn người lên, mặt tái mét đi trong khi đôi mắt lại rạng rỡ khác thường. Nhưng ngay sau đó ông đã đóng xầm cửa đi lên lầu. Cũng như đêm nay ở Tổng nha cảnh sát trở về, ông mở cửa phòng cậu con trai, lạnh lùng nhìn lướt qua một lượt rồi bỏ đi. “Em sợ ba quá hà! “ Lần nào Nga cũng nói với anh câu đó. Anh nhún vai, chịu không giải thích được.
 Cô gái lùa những ngón tay mềm mại và mát rượi vào chân tóc anh rì rầm nói những điều đẹp đẽ về hạnh phúc sau này. Anh thấy lòng mình dịu lại. Nga trinh trắng và yếu đuối quá! Tốt nhất là không nên nói gì cả. Anh không thể chịu được những giọt nước mắt và cũng chịu không biết cách an ủi thế nào khi quyết định báo tin này cho Nga. Thừa hưởng được một chút tính cứng rắn của cha, anh biết giấu tình cảm của mình, dù giấu rất vụng về.
 Đột nhiên anh thấy Nga rú khẽ lên một tiếng, bám chặt lấy mình và hốt hoảng nhìn về phía cửa sổ. ở đó, một bóng người từ khoảng không gian tối om lật đật nhảy vào.
 Cướp! Hải nghĩ nhanh và vội chụp cây đàn vung lên lấy hết sức bổ mạnh xuống cái thân hình nhập nhòa đang đứng thẳng trước mặt. Cái đầu bù xù trên thân hình ấy khẽ nghiêng đi. Rắc!... Cây đàn bị quật vào thành ghế bứt tung giây. Cái thân hình đó vẫn đứng im. Hẫng đòn, Hải tĩnh trí lại và không tìm cách đánh tiếp nữa. Đến lúc ấy anh mới kịp nhận ra kẻ đột nhập là một người đàn ông miền núi rất thô kệch.
 -Tại sao anh lại chạy vô đây?
 -Dạ! Tui thấy cách cổng không đóng.
 -Bọn lưu manh đâu?
 -Chúng nó đang ở dưới đường.
 -Bác cứ ngồi xuống! Nếu bác là kẻ gặp nạn, chúng tôi không tiếc gì. Nhưng nếu bác định làm quấy, sẽ không ra nổi khỏi đây đâu.
 Nói xong Hải mới thấy thừa. Vì người này khẽ dạ nhỏ một tiếng rồi ngoan ngoãn ngồi xuống, hai tay thu gọn trong đầu gối, mắt ngước lên như cầu chúa. Cô gái ra đóng chặt cửa sổ lại rồi đến bàn rót một ly nước lạnh đặt trước mặt anh ta. Anh gật đầu tỏ ý biết ơn.
 Ly nước trong vát vừa được đặt lên miệng người miền núi thì dưới chân cầu thang bỗng vang lên nhiều tiếng chân chạy.
 -Bọn cưóp lên! - Nga nói run giọng.
 Hải đứng phắt dậy.
 -Chúng nó lên bằng đường nào? Bác đừng sợ. Đấy là nhà của một giáo sư, chúng nó sẽ không giám giở trò gì đâu. Nga! Em ra ngồi vào bàn kia. Còn anh, anh tạm đứng nép vào trong rèm, đừng động đậy, có gì đã có tôi.
 Tiếng chân đã bước vào đầu hành lang, xem chừng có vẻ rón rén. Người miền núi chợt xua tay:
 -Muộn rồi! Chúng nó đã nhìn thấy tui leo cửa sổ. ông bà cứ để mặc tui.
 Anh lao ra mở cửa sổ nhưng lùi ngay lại: Một bóng đen đã đứng ngửa cổ chực sẵn ở dưới gốc cây. Anh quay vào cửa chính. Tiếng chân đã đến gần lắm rồi.
 -Ông bà có đường nào lên sân thượng không?
 -Có! Nhưng ở cuối hành lang.
 -Dạ, cám ơn!... Thế là hết! - Anh chuyển giọng, mắt nhìn vào người nhạc sĩ như gửi gắm tất cả sự tin cậy. - Nếu tôi có việc gì, nhờ ông bà đến số nhà X, cuối đường Phan Thanh Giản nói giùm với cô chủ nhà tôi xin nợ món tiền tôi chưa kịp trả, làm ơn đến ông N. ở chợ Thủ Đức lấy giùm. Tôi tin ông bà là người tốt...
 Cộc! Cộc! Cộc!... Tiếng gõ cửa cắt ngang câu nói của anh.
 -Dù thế nào cũng xin đừng nói với ai. cảm ơn. Hãy cố giúp tôi. Cốp! Tiếng gõ cửa mạnh hơn.
 -Thôi, bây giờ ông bà mở cửa ra cho họ vào và hãy coi tôi như là một kẻ cố tình uy hiếp ông bà để được ẩn náu.
 Nói xong, anh nép nhanh vào tường, cạnh ô bản lề. Ngần ngại một chút rồi cuối cùng Hải cũng từ từ xoay ổ khóa... Cánh cửa mở hé, một bóng người xô ngay vào, súng thu trong tay. Chưa kịp phát hiện gì, cái bóng đó đã bị anh nép sau cửa quật mạnh một đòn vào gáy. Hắn ngã vật xuống, gọn hơ. Cái bóng thứ hai chưa hay biết gì, nhảy tiếp vào. Vừa nhìn thấy xác đồng bọn, chưa kịp kêu lên một tiếng cũng bị anh đánh khụyu luôn, cửa trống hoác một giây. Một tia sáng mừng rỡ lóe lên trong ánh mắt, anh lao ra. Một báng súng đánh mạnh vào bên vai phải khiến anh bật lùi trở lại. Anh vung tay trái lên... Trời! Nhưng không được nữa rồi. Cánh tay bị thương đưa lên đến nửa chừng thì rơi thõng xuống. Giá nó đi hết được đoạn đường cần thiết của nó thì kẻ kia đã bị vỡ mặt ra rồi và lúc đó, trước mặt anh chỉ còn cái hành lang bỏ ngỏ! Còn bây giờ, khẩu súng ngắn đang gầm vào ngực anh, lạnh ngắt. Anh lùi dần ra đến giữa phòng thì dừng lại. Đối diện với anh là Hoàng Xanh. Họ nhìn nhau im lặng. Quân phản bội hèn hạ! Tao ghê tởm mày... Một chút nữa thì anh đã nhổ bãi nước miếng dính máu và quát vào mặt nó như thế. Con mắt vẩn lên sự giận dữ của anh từ từ nhìn xuống. Cho đến phút chót cũng không được để lộ mình là ai. Như vậy tốt hơn cho mục tiêu đang theo dở, tốt hơn cho những cơ sở còn lại trong nội thành và tốt hơn cho em nếu em nhận được những lời nhắn của anh... Anh nuốt miếng nước bọt tanh tanh vào bụng.
 Hoàng Xanh vẫn chăm chú dò xét con mồi. Xuân hay không phải là Xuân? Câu hỏi loằng ngoằng này đến bây giờ đứng trước anh hắn vẫn không trả lời được. Mày phải nói đi chứ! Sắp chết rồi, mày cũng thừa biết điều đó, còn im lặng làm gì nữa. Hả? Hắn rung rung nòng súng. Anh vẫn im lìm không nói. Vậy thì...
 -Lôi nó đi! - Hắn nói.
 Câu nói của hắn nhẹ thoảng mà anh nghe như tiếng hiệu lệnh ở pháp trường. Với tất cả bản năng tự vệ cuối cùng còn dồn tích lại, anh nhằm thẳng vào nó húc đầu tới. Một tên ngồi thu lu trên thành cửa sổ phía sau anh từ lúc nào bổ mạnh bang sung xuống. Cánh tay đau bị nện xuống sàn không cho anh gượng dậy được nữa.
 Người nhạc sĩ lúc này mới lao tới đỡ lấy anh và thét lên:
 -Các ngươi là ai? Sao dám hành hung người ở đây? Các ngươi không biết nhà này của ai hả? Muốn tôi kêu cảnh sát tới không? Cút!
 Hầu như không để ý đến câu nói sùi bọt mép ấy, hắn chỉ hơi nhìn sang Hải một chút rồi vẫn khinh khỉnh.
 -Thôi đi! Một người ở lại dọn dẹp nhà cửa cho người ta. Điếc tai.
 -Không! Không đi đâu cả. Phải có pháp luật chớ.
 Hải nhảy đến đứng chắn trước cửa, giang hai tay ra. Cô gái cũng chạy tới đứng nép bên người yêu...
 Từ cửa, một giọng nói trầm trầm đĩnh đạc vang lên:
 -Hải, dang ra! Con để các ông ấy thực thi công vụ. Mọi người quay lại. Giáo sư Luân với bộ quần áo ngủ màu xanh đang đứng ở cửa. Hoàng Xanh ngớ ra một chút, rồi hắn mềm mỏng gật đầu chào.
 -Thật không ngờ đây lại là nhà của giáo sư. Thật có lỗi khi đã đến đây phá quấy giấc ngủ của ngài. Xin lỗi.
 -Ông thiếu tá khỏi xin lỗi. Tôi tưởng những trò tàn sát này đã kết thúc ngay ở phòng làm việc của ông hồi tối rồi.
 Hoàng Xanh chau mày lại. Hắn tuyệt nhiên không thích nói chuyện lúc này. Và cũng không chịu nổi cái giọng nói đểu đểu như giảng đạo mà sắc lém của cái ông già đầu hói kia.
 -Xin phép được thưa chuyện với giáo sư sau. Bây giờ xin chúc gia đình ngủ ngon. Đưa đi! Đưa ra hướng bờ song.
 Trước vẻ mặt sững sờ của đôi trai gái, hai gã đàn ông chắc nịch xốc nách anh lôi tuột đi. Đến cửa, anh gồng người lại quay vào nói với một giọng dịu dàng lạ thường:
 -Đáng lẽ tui không nên vào đây. Xin ông và anh chị bỏ quá cho. Tôi bị chết oan! Nhờ gia đình nhắn cho... Tui cảm ơn nhiều. Cái nhìn của anh dọng vào Hải một giây rồi quay đi.