rước năm 1975 tôi chưa hề gặp Trần Kiêu Bạt, chỉ biết tên nhau qua thơ văn đăng rải rác trên các tạp chí văn nghệ tại Sàigòn. Bạn quân cảnh Cần Thơ, tôi lính trận đóng quân ở tiền đồn heo hút quận Tánh Linh, Bình Tuy, giáp ranh tỉnh Lâm Đồng. Năm 1972, nhà xuất bản Khai Phá của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm ấn hành tập thơ Vườn Dĩ Vãng của tôi, có giới thiệu in thơ của Trần Kiêu Bạt. Chờ mãi không thấy, có lẽ bạn tôi đang bận coi tù ở Côn Đảo, cách xa đất liền nên không tiện liên lạc để xúc tiến công việc như dự định.
	
	Nhà thơ Trần Kiêu bạt (1948-2005)
		Cuối tháng 10 năm 1993 gia đình tôi qua Mỹ theo diện H.O. Hà Thúc Sinh đưa Trần Kiêu Bạt đến thăm tôi. Đó lần đầu tiên tôi và Bạt gặp mặt nhau. Nhà hai bạn gần  nhau, cách một con đường ở thành phố Alhambra, nhà tôi thì ở El Monte thuộc quận Los Angeles cách nhau 15 phút lái xe. Từ đó cứ mỗi cuối tuần, nửa tháng hoặc có tiệc vui 3 gia đình bọn tôi họp mặt, bạn bè con cái vui vẻ càng ngày càng thắt chặt thêm tình thân. Khề khà bên ly rượu 3 đứa tôi bàn chuyện thế sự, nhắc chuyện quê nhà, chuyện bạn bè người mất người còn, kẻ lưu lạc xứ người. Những lúc như vậy Phạm Nhã Dự, Trần Phù Thế ở các tiểu bang khác xa tận miền Đông Hoa Kỳ cũng thường gọi điện thoại góp chuyện.
	Trần Kiêu Bạt ngâm thơ rất hay, giọng sang sảng cuốn hút người nghe. Khi ngà ngà say yêu cầu mãi anh mới ngâm vài bài thơ đắc ý của bạn. Hành Phương Nam, một tuyệt tác của nhà thơ Nguyễn Bính được bạn ngâm nhiều nhất:
	…Đôi ta lưu lạc phương Nam này	Trải mấy mùa qua én nhạn bay	Xuân đến khắp trời hoa rượu nở	Mà ta với người buồn vậy thay		Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu	Mà không uống cạn mà không say	Lời thề buổi ấy cầu Tư mã	Mà áo khinh cừu không ai may…		“Mà ta với người buồn vậy thay”. Bạn vừa ngâm vừa nghẹn ngào rơi nước mắt, ngâm xong uống cạn ly bia, ôm đầu gục mặt khóc. Nỗi lòng của bạn, của tôi, của những người tị nạn sống trên đất tạm dung này đều như nhau. Nỗi buồn mất nước. Niềm đau của cả một dân tộc. “Vui là vui gượng kẻo mà”. Vui chỉ thoáng qua còn buồn thì vạn cổ. “Lời thề buổi ấy cầu Tư mã” Biết đâu…sẽ có một ngày…
	Trần Kiêu Bạt tính bộc trực, hào sảng, phóng khoáng, dám sống chết với bạn bè. Hà Thúc Sinh thì bệnh hoạn triền miên vì hậu quả của những trận đòn thù trong các trại tù cộng sản. hai khớp xương háng mục rệu được tháp lại bằng hai thanh inox. Anh em văn nghệ tặng anh biệt hiệu là “trung tâm y tế toàn khoa”. Mỗi lần trái gió trở trời, bệnh nặng hay nhẹ, Hà Thúc Sinh ới lên một tiếng là Trần Kiêu Bạt đến cạo gió, đấm lưng, bóp tay chân… Vợ tôi vốn ốm yếu, nhỏ con, cân nặng chưa đầy 80 pound, qua Mỹ mấy ngày đã lao vào may vá, làm mỗi ngày trên 14 giờ, có khi còn thức trắng đêm. Một vài lần bị xỉu ngay trên bàn máy may. Nhà không có ai, các con đi học, tôi lo sợ cuống cuồng gần như tuyệt vọng, chính Trần Kiêu Bạt đã chạy đến chở vợ tôi đi nhà thương cấp cứu.
	Không những chỉ với gia đình tôi, gia đình Hà Thúc Sinh mà với tất cả mọi người, quen thân hay sơ, nếu cần bạn tôi có mặt ngay, giúp đở tận tình, kể cả tiền bạc. Bạn thường tâm sự với tôi: “mình qua Mỹ trắng tay, nay thêm một lần trắng tay nữa thì có sao đâu”. Con người của Trần Kiêu Bạt là như thế. Tấm lòng nhân hậu của bạn tôi thể hiện qua sự chí thành, chí tình với tha nhân. Cung cách sống ấy khó có ai bì được. Hà Thúc Sinh thường giục chúng tôi in thơ. Trần Kiêu Bạt ậm ừ cho qua chuyện. Làm sao in thơ được hở bạn hiền? Tôi tù cộng sản 9 năm, ra tù trốn trình diện, sống chui rúc bửa đói bửa no, tìm đường vượt biên. Thân tàn sức kiệt, lo chuyện cơm áo chưa xong thì đầu óc đâu nghĩ đến văn chương chữ nghĩa.. Tôi có làm một số bài thơ, học thuộc và dấu trong đầu. Thơ Tù. Thơ Đời. Thơ cho vợ con, bè bạn. Thơ cho tôi nhìn lại tôi, nghiền ngẫm về người, về đời, về một thời khốn nhục đã qua:
		Đã lâu rồi ba không làm thơ nữa	bởi vì ba không nhìn thấy ba đâu	là chiếc bóng bên trời hiu quạnh	ba dật dờ như xác lá nổi trôi		Trong cuộc sống ba không là gì cả	trong gia đình ba là kẻ mộng du	nhìn bốn phía thấy mặt trời mọc khắp	nhưng mặt trời đâu phải của riêng ba		Con đừng hỏi tại sao ba im lặng	có điều gì đáng để nói đâu con	ba đã uống đắng cay trong men rượu	giết đời ba và giết cả đời con		Tình thân, sự gắn bó giữa 3 gia đình tưởng không thể rời xa. Vậy mà sau đó Hà Thúc Sinh bỏ Cali qua Charlotte với Vũ Uyên Giang, Trần Kiêu Bạt sang Arizona. Mỗi lần ra đi đều có tiệc tiển đưa. Tửu lượng Trần Kiêu Bạt vào hạng cừ khôi, bạn chấp tôi một bạn hai chai bia, Hà Thúc Sinh thì nhấp nháp cầm chừng. Tivi mới mua. Tủ lạnh mới mua. Sopha mới mua…hai bạn năn nỉ giao cho tôi giữ dùm gọi là để nhớ nhau. Làm sao tôi có thể nhận được? Gần 40 năm thân nhau như anh em ruột thịt, vừa là bạn văn nghệ vừa là tình chiến hữu, tôi nghèo, bạn nghèo, song chúng ta bao giờ cũng bảo vệ cho đến hơi thở cuối cùng danh dự của người lính, khí tiết của kẻ sĩ; dù bị hành hạ, tra tấn trong ngục tù CS hoặc bị nhận chìm dưới đáy địa ngục CS.
	Xa nhau chúng tôi vẫn thường xuyên nhận được tin nhau. Một hôm, vào khoảng 4 giờ sáng điện thoại reo vang, bên kia đầu giây Phạm Nhã Dự báo tin động trời: ”Trần Kiêu Bạt chết rồi mày biết không, mày có biết không?”. Tôi không tin ở tai mình, hỏi gặn: ”mày nói gì, nói lớn lên, Trần Kiêu Bạt làm sao, làm sao?”. Đúng rồi, bạn tôi, nhà thơ tốt bụng ấy đã chết năm 2005 trong một tai nạn xe cộ vào lúc nửa đêm. Tôi chết điếng người, tự nhiên mệt muốn tắt thở.
	Hà Thúc Sinh lúc đó bệnh nặng, tôi xe cộ không có, lại quá gấp rút nên không có mặt tiễn bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng, đành phải gởi vòng hoa phúng điếu.
	Năm sau, vợ chồng tôi đi Arizona mang chút quà mừng 2 cháu Đường Thi, Đường Vân ra trường, thắp nén hương, đọc bài thơ khóc Trần Kiêu Bạt và đặt bài thơ trên bàn thờ bạn cùng bài thơ của Trần Phù Thế.
	Hơn 3 năm nay, kể từ ngày bạn xa người xa đời, hình ảnh bạn vẫn còn ẩn hiện trong tâm trí tôi và sẽ còn mãi mãi… Tấm lòng nhân hậu của bạn. Cách thế sống của bạn. Tôi không tin là bạn đã vĩnh viễn ra đi mà bạn đang rong chơi một nơi nào đó an nhiên và thơ mộng hơn: Cõi Riêng Trần Kiêu Bạt.
	Trần Văn Sơn	CA. cuối tháng 12/2008
	Khóc Trần Kiêu Bạt	Tin dữ đến bất ngờ	lòng ta đau như cắt	ba năm không gặp mặt	khoảnh khắc bạn xa đời	ba năm không gặp mặt	giờ đã thành thiên thu	Xưa đóng quân Võ Đắt	bạn quân cảnh Cần Thơ	lính tiền đồn đánh giặc	biết nhau qua văn thơ	trai giữa thời loạn lạc	sống chết có ai ngờ	Quê người bạn phất phơ	mười năm còn ngơ ngác	việc đến cứ bảo chờ	lần khân đầu đã bạc	cánh buồm xưa rách nát	không ủ gió tương lai°	Khóc bạn giọt lệ khô	nghẹn ngào câu tử biệt	con dại, vợ bơ vơ	giữa ta bà sinh diệt	Có. Không. Bạn trở về	cõi riêng Trần Kiêu Bạt		Trần Văn Sơn		° thơ Trần Kiêu Bạt.
		THƠ TRẦN KIÊU BẠT (trích)	Đêm ở Gia định thành	đêm cận Tết Ất Mão trên Nghinh Phong Các của Hà Thúc Sinh: 2/75
	gác vắng đêm nay trời trở lạnh	chiếu chăn không ấm được lòng trai	đàn ai trong gió nghe buồn quá	nghe tựa hồ như tiếng thở dài	bạn hiền muốn gọi không đành gọi	độc ẩm như người chiến quốc xưa	cờ đời dang dở đau nghìn kiếp	mộng lớn tan rồi chuyện gió mưa	người xưa sống giữa thời dâu bể	chí lớn hai tay muốn vá trời	hỡi ơi, ta cũng đời dâu bể	sao lòng những tưởng chuyện rong chơi	Tự do hề – ngày nay có khác	người xưa đất rộng dưới chân đi	ta nay hề đi không hết bước	quẩn quanh quanh quẩn một góc hè		người xưa hề, giận đi làm loạn	kiếm chém cho tan cái bất bằng (°)	ta nay hề, giận ngồi bó gối	ngó ngày ngó tháng ngó năm tan		cất giọng ngâm tràn câu khí khái	mềm môi không dứt, ý hoang mang	nghìn khuya rồi chỉ mình ta thức	đối ảnh đêm trường một bóng trăng	(° )ý thơ cổ	Những hồn tan nát kia ơi	hãy nhớ rằng ta vẫn sống	có phải đêm nay đông đủ cả	bạn ta những kẻ biết làm thơ	sống thời cô quạnh như đêm tối	mỗi ngày lụn chết một cơn mơ	có phải đêm nay không hẹn trước	vô tình sương gió dạt về đây	những cánh bườm xưa giờ đã rách	không còn giữ được gió tương lai	có phải lở rồi bao mong ước	bạn ta hồn lạnh bấy lâu nay	bạn ta tan nát vì chinh chiến	sống chết cầm như chuyện rũi may	có phải thương thân mà muốn khóc	hỡi ơi đầu bạc tuổi ba mươi	ngày bụi điểm mồ hôi chí lớn	đêm nghe máu nhỏ lịm đời vui	thì hãy cùng nhau mà uống rượu	tưởng người thất chí mùa thu xưa	dù sao hãy nhớ ta còn sống	sá gì dâu bể nắng cùng mưa	giang hồ như lá trong giòng lũ	thì hãy vui lên buổi gặp này	nhớ chăng hảo hán ngàn năm trước	tung chén cười run hơi rượu cay	sương xuống ngoài kia dù có lạnh	bạn ta hãy uống tàn canh thôi	tữu phá thành sầu ai đó nhỉ	hẳn giết bao nhiêu nỗi ngậm ngùi	2/75	Phải người là mộng tình tôi	gặp người trong buổi tà dương	áo bay loáng thoáng mùi hương đã gần	giọng tôi thưa rất ngập ngừng	hỏi rằng có phải mùa xuân đang về	gặp người như thể cơn mê	xuống tôi hồn quạnh bốn bề tịch liêu	lẫn trong sắc chút yêu kiều	ngoài khoe dáng nữ trong chiều thanh tân	gặp người chẳng ngại làm thân	nhìn trong đôi mắt ngỡ gần từ lâu	hồn tôi lâu lắm còn sầu	có thương xin gởi chút màu nhớ nhau.	Trên đường về nhà Đỗ Kim Hương	dường như trong bóng chiều rơi	có bay một chút gọi mời từ lâu	chân vui những bước rạt rào	nhà em đã hiện dưới màu tà huy	Tàn cuộc	Chưa tới ba mươi mà đã chín	cả hồn lẫn xác tự hôm nao	khuya nay chút gió về run lá	lá rụng âm thầm một kiếp đau	15/1/75	Người đi là chết cả hồn tôi	gởi theo chút gió làm thương nhớ	người về đầu bãi cuối sông kia	vai nghiêng cho rớt vành trăng lạnh	là chết hồn tôi buổi cách chia	buồn cứ gượng vui mà muốn khóc	mỗi người nay đã mỗi đời riêng	còn đây, yêu dấu bao nhiêu đó	cũng đủ đời tôi đến lặng chìm	Ta đi cầm chắc là tan hết	tháng ngày chất chứa tháng ngày đau	quanh đây hương phấn xưa nhiều lắm	mà thấy dường như đã nhạt màu	không đành như thể là vô vọng	lòng người đâu biết được buồn vui	tình yêu sót lại đời tôi đó	dẫu đến tàn hơi cũng ngậm ngùi	dẫu cho mai mốt hay hơn nữa	thuyền về xin đậu bến đò quen	hồn tôi áo trắng kia còn mới	là để chờ mang kích thước em.	Ngày giã từ Cần Thơ	hôm đi, không gặp được người	ở nơi đưa tiễn mình tôi rất buồn	khi người về tới bến sông	thuyền tôi đã lướt trên giòng viễn du	hồn khuya phơi ướt sương mù	chờ người đau lắm kể từ hoàng hôn	thôi người ở lại sớm hôm	đường xưa ngọn cỏ như là dáng tôi.		TRẦN KIÊU