ần xuất thân từ một gia đình lý hào của chế độ phong kiến lụi tàn. Cha hắn giữ chức hương mục, bản thân hắn cũng chỉ lõm bõm mấy chữ Nho cuối mùa. Hình như ông hương mục cũng ít để mắt đến hắn vì hắn lười và hay lêu lổng, đùm túm với bọn ngồi lê đôi mách. Hắn cũng không thương cha ví cái tính Trương Phi, cộc cằn, còn mẹ thì nặng tình với hắn hơn do hồi mới sinh, hắn hay ốm đau, nhiều đêm bà phải thức suốt với hắn, lớn lên hắn thường quấn quýt bên bà. Năm lên bảy, có lấn hắn ăn một trận đòn nên thân của cha, khi hắn lấy than củi vẽ hình TàoTháo, Quan Công lên cái tường mà ông mới quét vôi để chuẩn bị ăn Tết, sau cái đêm mẹ hắn dẫn hắn đi coi hát bội. Càng lớn, rất lạ, hắn lại càng giống ông Chánh tổng trong từng cử chỉ, dáng đi, giọng nói. Bỡi thế hắn trở thành cái gai trước mắt ông hương mục, dù ông không dám nói ra, vợ chồng ông dần dần trở thành hai cái bóng trong một ngôi nhà lặng lẽ, nặng nề. Năm nay Dần đã mười sáu, ông chánh tổng nói rằng vì nể tình ông hương mục nên cắt đặt cho hắn cái chân lo nhang khói cho ngôi miễu trong làng, thờ cúng những oan hồn không nơi nương tựa để họ khỏi phá phách và phù hộ cho dân làng tránh được tai ương, làm ăn khấm khá. Mỗi mùa vụ Dần được lý trưởng cấp cho khoảng mươi giạ thóc hoặc hơn một chút, tùy vào việc làng có trúng mùa hay không. Ban đầu hắn cũng thấy sờ sợ khi đêm đêm gần gũi với những oan hồn luôn quanh quất đâu đây, không thể biết trước những gì sẽ xảy ra trong một thế giới huyễn hoặc, oan khốc. Lần đầu khi bước chân vào miễu, Dần thấy lạnh cả xương sống, gai ốc nổi lên khắp người, nhưng lâu dần, hắn cũng quen, rồi không những quen mà hắn còn đâm ra dạn dĩ, coi mấy tượng âm hồn kia là bạn, khi đêm về. Trước mỗi kỳ tế lễ, cả làng chẳng ai dám sờ tới tượng Thành hoàng, thổ địa, âm hồn thì hắn lại mang mấy bức tượng đất nung sơn phết xanh đỏ đó ra tắm rửa lau chùi rất tử tế. Hắn nêu ra một triết lý mà không ai dám cãi “ tưởng thần thì thần đãi”.
Ngoài ra, không biết do đâu, hắn còn có cái “biệt tài” về bắt chó, giết chó, ra thịt,và chế biến thành các món ngon, nên nhà ai trong làng có tiệc tùng gì cũng đều gọi hắn. Nhưng chó là loài vật rất tinh khôn nên những chú chó còn sống, hễ thấy Dần là bọn chúng bu theo hắn mà sủa, không tha cho hắn nửa bước, quen rồi, mỗi khi dân làng thấy chó sủa thành đàn, dai dẳng, là biết Dần đang lảng vảng ở đâu đó. Nhưng có điều rất trớ trêu là, nếu dân làng có ai bị như hắn thì họ rất bực bội và xấu hổ, trái lại, với hắn thì đàn chó lại làm cho hắn an tâm và tự hào, vì hắn cho rằng tiếng chó sủa sẽ xua đi bớt những oan hồn đang vây quanh hắn xin ăn và chính hắn là người duy nhất của làng liên hệ được với người cõi âm và ban phát ân huệ cho những linh hồn xấu số vĩnh viễn bị đọa đày nơi địa ngục. Nhiều đêm đi chơi khuya, không dám về nhà, sợ ông hương mục quở mắn, hắn dẫn cả đàn chó  chui vào chái sau miễu mà ngủ ngon lành.Và chính nhờ đàn chó, nên đêm nào hằn về ngủ ở miễu Thành hoàng, dân làng đều biết.
Miễu Thành - hoàng  được xây trên một doi đất cao, diện tích khoảng nửa sào ta, có nhiều cây cổ thụ tự mọc không biết tự bao giờ, nên ban ngày rất mát, nhưng ban đêm lại làm tăng thêm cái vẻ bí ẩn và ma quái nên đàn bà trẻ con ít ai dám bén mảng tới. Mấy đám ruộng quanh miễu thường ít thấy bóng dáng đàn bà. Mùa cấy vào khoảng đầu đông, họ đến làm, khi mặt trời đã quá sào và kéo nhau về khi mới vừa xế bóng. Dù không ai bảo ai nhưng họ đều hiểu với nhau rằng những âm hồn thường trở lại trần gian vào ban đêm, và những người điên trong làng là do ma nhập.
Khi đã sống quen với ma, Dần không cần đến bầy chó nữa. Đêm nào muốn về ngủ trong miễu Thành hoàng cho mát, hắn đánh lừa bầy chó bằng cách cởi bỏ hết quần áo, lâu ngày không giặt, bốc mùi thịt chó, rồi trùm nguyên người bằng một chiếc áo tơi đi mưa chằm lá cọ. Lâu dần, bầy chó cũng không còn để ý đến hắn, hắn cũng nghỉ làm thịt chó cho dân làng. Từ đó hành tung của hắn ngày càng có vẻ bí hiểm, đêm nào hắn có ngủ trong miễu hay không, là chuyện chỉ có hắn mới biết, hắn lui tới miễu như một cái bóng ma.
Một đêm mùa hạ, gió tây nam mát rượi thổi từng cơn, làm cho hắn say ngủ trên chiếc chõng tre sau miễu, bỗng hắn thức giấc bỡi một tiếng đập mạnh của cánh cửa trước, có người mở ra rồi quên khép lại. Nghe có tiếng chân, không biết là của người hay là của ma, hắn tỉnh ngủ, định thần, nằm im chờ đợi. Lại có tiếng thì thầm. Hắn ngồi dậy áp tai vào phên. Tiếng người con trai: “Cầu xin Thành hoàng thổ địa cô hồn linh thiêng bắt cha con tỉnh trí, cho con được lấy Sen. Dẫu Sen là đứa mồ côi nhưng em nết na, chăm làm, không có Sen, con không thể nào sống nổi”. Tiếp theo là tiếng con gái: “ Hỡi những oan hồn xin về đây chứng giám lời thề nguyền của con và anh Lía, là thương nhau suốt đời. Sau này ai bội bạc, xin trên trước hãy vặn họng người ấy đi”. “ Thằng Lía và con Sen”, hắn kinh ngạc và lẩm bẩm. Lâu nay hắn cứ tưởng rằng, với cái miễu đầy vẻ bí ẩn, ma quái và linh thiêng này, chỉ có hắn mới dám ở đây trong  đêm khuya thanh vắng. Chắc là chúng có gì bức bách lắm mới dám liều mạng như vậy. Hắn dán mắt vào cái lỗ rách của tấm phên và chỉ thấy lờ mờ hai cái bóng đen đang ôm chặt lấy nhau, thật lâu, không chịu nhả ra, tự nhiên, không biết một dòng nước bọt từ đâu dâng lên làm nghẹn cổ hắn. Hắn chưa thấy hình ảnh ấy bao giờ, mà sao làm cho hắn cồn cào đến như thế. Hắn đứng trân trong giây lát. Nhưng bất chợt, một luồng suy nghĩ phát xuất từ cái dạ dày đói của hắn đã mấy bữa nay, làm cho hắn sáng trí ra, hắn quyết thực hiện ý đồ của mình. Hắn giả giọng thổ ồ ồ, mà hắn tưởng tượng thánh thần chắc cũng có giọng như vậy, hắn chỉ nhớ ba tiếng đầu trong câu kinh mà hắn nghe lóm được của mấy ông thầy chùa thường đọc khi đến cúng cầu an cho nhà lão hội đồng: “Án – ba – ni, Án – ba – ni, chúng bay đang yêu còn Thần ta đang đói, chẳng lẽ cầu xin chay vậy sao, làm sao chứng cho được?”. Hai cái bóng đen lập tức buông nhau ra, quì gối hướng về phía bàn thờ, giọng nam lắp bắp: “Đêm mai chúng con sẽ mang lễ vật đến dâng lên Thành hoàng, thổ địa, cô hồn, xin cho chúng con được toại nguyện, chúng con không dám thất lễ”.
Thế là chỉ dựa vào mấy pho tượng đất nung trong miễu Thành - hoàng mà từ đấy hắn được no say, cứ năm ba ngày hắn được một mẻ rượu thịt, hắn khôn ngoan không để lại bất cứ một dấu tích gì khi xử lý những lễ vật kia, còn dân trong làng càng ngày càng ái mộ hắn, nghĩ rằng nhờ hắn chăm lo quét dọn, cúng kính hết mực mà thần linh mỗi ngày mỗi thiêng,ai xin gì cũng chứng, ai cầu gì cũng được. Dần trở thành nhân vật quan trọng nhuốm màu huyễn hoặc của làng tự bao giờ, người ta cũng không biết. Riêng hắn thì hắn hiểu rất rõ, những chuyện chiếc đèn trên các bàn thờ âm hồn, Thổ địa, Thành - hoàng tự nhiên vụt tắt hay chợt sáng, cái giọng nói ồ ồ, ồm ộp, nghe như tiếng nói từ âm phủ, phát ra trong đêm thanh vắng, khi có ai đó trong làng đến cầu cúng, đều do biệt tài trời ban cho hắn mà ra. Dù không biết giọng nói của thần linh ra sao, nhưng chính hắn cũng phải công nhận cái giọng ồ ồ, ái nam ái nữ ấy của hắn đều làm cho bất cứ ai dù cứng vía đến đâu cũng phải rợn người. Dần dà, hắn trở thành ma quỷ, lúc nào, bản thân hắn cũng không ngờ nữa. Cho nên nhiều lúc hắn tự cười một mình: “Không ngờ thần linh đôi khi cũng là một mối lợi, giá như không có cái miễu âm hồn, thì ngày nay ta đâu được no đủ như thế này, dân làng gọi ta là “ông âm hồn”; gọi gì cũng được, miễn là đêm đêm chúng bay quì lạy và dâng lễ cho ta là được”. Hắn tự khoát lên bộ mặt thần thánh lúc nào, thì chỉ có cái miễu Thành hoàng kia mới biết.
Đã hai mươi mấy tuổi đầu, Dần chẳng có vợ. Gái trong làng cảm thấy nhờn nhợn khi nghĩ đến việc, nếu phải làm vợ hắn, ngủ với hắn chẳng khác gì đang ngủ với ma, nên chẳng có cô nào chịu lấy hắn, mặc dù ông hương mục cũng đã nhiều lần dạm hỏi. Nhiều đêm nằm chèo queo ở cái chái sau của miễu âm hồn, hắn thấy rạo rực, thèm thuồng và trống trải kỳ lạ. Trăn qua trở lại, hắn nhớ lại chuyện Thạch Sanh chém chằn tinh mà mấy cụ già trong làng kể cho hắn nghe hồi còn nhỏ, tự nhiên hắn đâm ra nghi hoặc…Biết đâu có kẻ giả danh thần linh đã bắt những cô gái đồng trinh kia đi đâu, rồi đổ cho chằn, có ai biết được? Rồi tự nhiên hắn bạo bụng nghĩ rằng, tại sao hắn không nghĩ ra cách mượn hơi thần linh gợi ý dân làng đem dâng nộp cho hắn những cô gái xuân xanh mơn mởn? Nghĩ đến đó, tim hắn đập thình thịch, tay chân hắn bủn rủn..., nhưng hắn lại sợ, chưa dám, vì chưa nghĩ ra cách, nhất là khi nhớ lại những cặp mắt ranh mảnh, đa nghi và thèm gái của hai lão già, lý trưởng và chánh tổng. Hắn đã từng nghe nhiều cô gái trong làng chửa hoang và nhiều thai nhi chết lạnh nơi gốc cây đa đầu chợ. Hắn đâm ra nghi ngờ bọn chức sắc quan lại mà lâu nay hắn vẫn một mực bẩm lạy. Hắn không thể nào quên, cứ mỗi lần lễ lạc,là lão Lý trưởng rồi đến Chánh tổng  thi nhau lên mặt dạy đạo đức cho dân, một thứ đạo đức phong hủi của kẻ có quyền, đã bao đời nay, không biết hắn có tin được nữa không? Hắn tự nhủ: “Bọn chúng nó dựa vào quyền bính của thế gian để chiếm đoạt, thì bây giờ, ta dựa vào thần quyền thì cũng hợp lẽ thôi”. Hắn thấy vui trong lòng và tự hẹn với mình là hãy chờ đến một ngày quyền uy của hắn đối vối với cả ma lẫn người được nâng lên một bậc nữa, khi ấy việc thực hiện ý đồ cũng chưa muộn.
Người giữ đình Vĩnh an tự nhiên lăn đùng ra chết, vì dân làng không ai thấy anh ta đau ốm gì. Có người nói rằng anh ta bị Thiên thần trong đình bắt, do hắn tuy đã lớn tuổi nhưng lại có cái tật đái dầm, và nếu đúng như thế thì cũng đáng cho đời hắn vì hắn đã vô tình làm ô uế nơi tôn nghiêm. Nhưng có người lại thương xót cho cuộc đời cô đơn và bệnh tật của hắn. Nghe nói hắn mồ côi từ nhỏ. Một  thai nhi vô thừa nhận được vứt nơi cổng đình, một người đàn bà góa đứng tuổi lượm về nuôi, khi đứa bé lên sáu thì người mẹ nghèo cô độc đáng thương kia cũng đã bỏ cậu vĩnh viễn ra đi. Số phận lại chồng lên số phận, khốn khổ lại đè lên khốn khổ. Từ đó cậu sống bằng chút cơm thừa canh cặn của dân làng. Lớn lên, ban ngày, cậu đi làm mướn vặt, đêm về chui vào chái đình, cũng là nơi mà từ đó cậu sinh ra, để ngủ, như một cái bóng của trần gian, không hề có chút mơ ước gì ở cuộc đời này. Thế rồi, không hiểu sao, ông Chánh tổng đã cất nhắc cậu làm cái chân phụ tế của đình, nhưng chưa kịp lành lặn thì cậu đã vội bỏ cuộc đời này để đi theo người mẹ nuôi xấu số, khi tuổi cậu chưa tới ba mươi.
Nghe mấy cụ cao niên nhất trong làng kể lại, thì Đình Vĩnh An được xây từ thời vua Tự Đức, trên một doi đất tận cùng của dãy Trường Sơn đâm ngang ra biển. Những cây đa ở đây tuổi thọ đã quá nửa thế kỷ, rễ bò phủ cả mặt sân. Chung quanh sân đình được xây một tường rào bằng đá ong cao quá đầu người, cổng Đình có hình vòm cao đến năm thước, bằng gạch nung, từ xa trông như một pháo đài. Trên mái vòm là hai con rồng chầu, phía trước là hai cặp lân sư đứng quay mặt vào nhau, rất oai nghiêm. Đình Vĩnh An xây theo hình chữ T, phần dọc là đình trong, còn gọi là hậu cung hay nội điện. Đây là nơi thâm nghiêm, một bên thờ thiên thần Phù Đổng và bên kia thờ nhân thần Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, mà dân gian thường gọi tắt là Thánh Trần, tiếng đồn là rất thiêng. Dân làng tự hào là họ không thờ nhầm ai bao giờ. Phần ngang là đình ngoài là nơi tiền tế hay đại bái. Đình ngoài chia làm ba khoảng: giữa gọi là trung đình làm nơi tế sự, hai bên gọi là tả gian và hữu gian, ở bên trong có bàn thờ Thành hoàng, thổ địa, và các bộ hạ của thần.Hai bên tả hữu có hai hành lang dành cho dân làng chuẩn bị lễ vật để cúng tế.
Đã hơn nửa thế kỷ, chỉ được trùng tu có một lần, thời gian đã phủ một lớp rong rêu lên ngôi đình, tất cả đã trở thành xám xịt, bong tróc, lở lả, u ám. Thay vì trước đây là nơi tụ hội của dân làng trong những ngày lễ, đặc biệt là lễ Sóc, lễ Vọng, lễ Thượng điền, lễ Hạ điền…, dân làng mang lễ vật đến dâng rất đông, nhưng bây giờ, dần dà chỉ còn là chỗ để cho người ta đến cầu tình, cầu tài, cầu tự, cầu phúc, cầu vinh…, nhất là từ khi thằng Dần về coi sóc, ngôi đình được phủ lên một màu huyễn hoặc, ma quái, kinh dị. Hắn biến ngôi đình càng ngày càng có vẻ âm u,thần bí, hắn rỉ tai ra thiên hạ rằng chỉ có mình hắn là người duy nhất có thể tiếp xúc được với thần linh, và thần linh cũng chỉ ban phúc cho dân làng qua tay hắn. Đình Vĩnh An dần dần giống như cái miễu âm hồn, không còn dáng dấp của một công trình văn hóa nữa.
Kể từ khi cái tin đồn rằng Dần là đứa con hoang của lão chánh tổng lọt vào tai hắn, hắn tỏ ra kiêu căng tự đắc, coi thường mọi người trong làng, hắn tự cho mình là “dòng dõi thế tộc”, bây giờ lại được nhân thần Hưng Đạo Vương nhập vào  nữa, thì thử hỏi, cả nước này, có ai có quyền năng bằng hắn! Có lẽ hắn đã đọc lóm quyển thần tích và những Thượng - đẳng thần sắc của vua ban cho Đức Thánh Trần Hưng Đạo khi còn tại thế, được cất giữ trong tủ thờ của Người, nên hắn đã rêu rao là Đức Thánh Trần đã nhập vào hắn, kể cho hắn nghe những thâm cung bí sử về loạn luân đời nhà Trần cùng những binh pháp thần diệu, đã ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông bất bại trên tất cả các chiến trường từ Á sang Âu thế kỷ 13, mà từ trước tới giờ, khi còn tại thế hay khi đã về trời, Thánh Trần chưa hề viết ra cũng như chưa hề truyền cho ai, chỉ bây giờ mới truyền cho hắn. Cho nên, nếu như trước đây, mỗi lần tế lễ, Dần chỉ có nhiệm vụ là thắp nhang và rước nhang cắm lên bàn thờ, thì giờ đây hắn chỉ ngồi đồng, nhập thần để báo trước số mạng ai đó của các chức sắc trong làng, trong tổng hoặc vận mệnh, rủi may, hưng suy của làng, của nước. Rồi cứ thế, một đồn mười, mười đồn trăm, dân trong tổng, kể cả phủ, huyện rủ nhau về đình Vĩnh An xin xăm, xin quẻ, bói toán, ngồi đồng. Uy tín của con người trần tục thì người ta còn kiểm chứng được, nhưng uy danh của thần linh là một sức mạnh vô song, dù muốn, cũng không ai dại gì đi phản bác những điều mà đúng hay sai, thì cũng chỉ có chính thần linh và những người tín ngưỡng biết. Vì sợ bị thiên hạ chê cười, nên ít có ai thừa nhận  mình lỡ rơi vào cái bẩy của gã giữ đình tên Dần, mà lại phải đi rêu rao rằng mình đã nói chuyện trực tiếp được với thần linh.
Và cũng từ đây, Dần tha hồ hốt bạc của người đi dâng hương, lễ bái, coi quẻ… Hắn giàu lên rất nhanh, dù hắn có khéo che đậy, nhưng dân làng ai cũng biết. Rồi dựa vào thần quyền hắn đạp sang thế quyền. Giờ thì hắn qua mặt lý trưởng, chánh tổng, tiến ra giao du với cả tri huyện, tuần phủ. Không những hắn mua được những cô gái trong làng mà hắn còn dám ngắm nghé cả con gái nhà bá hộ, hội đồng, đầy quyền thế. Cái giấc mơ làm chằn tinh của hắn, khi còn ngủ nhờ chái sau miễu Âm hồn, bây giờ trở thành ngây ngô, huyễn hoặc, buồn cười. Dần nhớ lại từ khi được ông Chánh tổng “điều” lên giữ đình Vĩnh An, hắn chẳng phải bỏ ra một xu nào cho thần thánh và cho những kẻ quyền thế trong làng, chỉ nhờ vào cái tài giả hư giả thực, nửa thiên thần nửa trần tục, nửa người nửa ma và đặc biệt là cái tài  vẽ vời, nói láo của hắn. Hắn đã ăn chung, ngủ chung với Thần trong đình Vĩnh An. Có lần hắn ba hoa rằng Phù Đổng Thiên Vương từng cho hắn ngồi chung trên lưng ngựa sắt đi chu du khắp thiên hạ, trước khi Thiên Vương bay về trời ở Sóc Sơn, còn Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hiện về đưa hắn xem lại trận đại thắng quân Nguyên, bắt Ô Mã Nhi trên sóng Bạch Đằng. Dân làng Vĩnh An thì im lặng, không ai dám nói chống, nhưng không biết họ có tin lời hắn hay không? Có điều  hắn đã thành công trong việc biến thần thánh thành một mối lợi khổng lồ. Hắn đã bay lên nhờ cái tài “ mại thiên mãi địa” đó.
Thế rồi, một buổi sáng tinh mơ của tháng giêng, chỉ mới có mấy gã trai cày thả bò lên núi Doi, người ta thấy Dần, trên vai, một gánh thật nặng, mà ai cũng nghi là tiền, ra đi. Từ đó hắn biệt vô âm tín, người ta cũng không hiểu là hắn đi đâu. Có người thì tin rằng hắn đã theo Phù Đổng Thiên Vương hoặc Hưng Đạo Vương về trời vì hắn đã là người của thần. Nhưng có người lại bĩu môi cho rằng đi về trời thì gánh  tiền theo để làm gì, chẳng lẽ trên thiên đường cũng có nạn tham ô hối lộ? Từ đó dân làng Vĩnh An đã chia thành hai phe, vì hắn. Chỉ trong một gánh trên vai hắn, mà một phe tin rằng đó là “gánh thần” còn phe kia chỉ tin đó là “gánh tiền”.
Bẵng đi hơn mười năm, Dần trở về làng Vĩnh An, trên vai không phải là một gánh tiền như lúc ra đi, mà là một gánh kinh sách và những tượng thần lạ hoắc, chưa ai biết tên tuổi bao giờ. Sau đó ròng rã nửa năm trời, Dần đóng kín cửa đình, hắn làm gì ở bên trong, không ai biết, cũng không ai dám biết. Một không khí bí hiểm, ma quái bao trùm lên ngôi đình Vĩnh An từ khi Dần đột ngột bỏ ngôi đình ra đi, bây giờ, hắn về, lại càng thêm huyễn hoặc. Đêm đêm, những kẻ bạo gan đi ngang qua trên con đường bao quanh đình, nghe bên trong vọng ra những tiếng thét, tiếng rú  kinh dị, thỉnh thoảng lại là một hồi chuông ngân nga trên mái đình rồi rít lên theo làn gió trên các ngọn cây cổ thụ, tạo thành một thứ âm thanh vừa thần bí vừa hoang dại đến rợn người.
Đêm ấy là mồng một tháng năm, mảnh trăng lưỡi liềm mỏng dính vội vã chìm xuống chân trời tây từ đầu hôm, trời tối mịt, từng cơn gió nam rít qua những khe cửa hòa với tiếng cót két của hàng tre ở sau đình, tạo thành một thứ âm thanh  du dương nhưng hoang vắng, làm nổi bật cái khoảng không tĩnh lặng như đang chìm vào cõi hư vô. 
Sau cái đêm bạo gan đến cầu tình ở miễu Thành hoàng, thằng Lía, con Sen  đã được thành đôi. Nhưng thần ở đấy chỉ mới cho chúng một nửa. Mười mấy năm nay, chúng không hề sanh được một mụn con nào. Con Sen  đau khổ vật vã với nhà chồng, vì làng trên xóm dưới thi nhau xầm xì “gái độc không con”. Còn Lía thì tỏ ra rất ân hận vì lúc đó hắn quên xin thần ban cho vợ chồng Lía con cái, biết đâu thần lại cắt đi cái phần thừa tự của hắn. Lâu nay dù nghe tiếng đình Vĩnh An vô cùng linh thiêng, khách thập phương kéo đến cầu cúng rất đông, nhưng vì cái phận nghèo, và sợ cái uy của thần, vợ chồng nó cũng chưa dám bén mảng tới đây. Đêm nay vợ Lía đội một mâm xôi với hai con gà, một mái một trống, cùng hai quan tiền mà Lía đã chắt bóp từ mấy năm nay, đem dâng lên Thánh Gióng, Thánh Trần để cầu tự. Vì chưa tìm được cửa vào nên Lía đỡ mâm xôi trên đầu Sen đặt lên đầu con chó đá bên hành lang nội điện. Hai cái bóng đen đang dán mắt vào mấy cái lỗ mối trên chiếc cửa đình, bỗng quay phắt lại nhìn nhau, Lía lên tiếng trước: “con Nụ”. Đôi vợ chồng Lía sửng sờ: “Sao con Nụ lại ở đây,giờ này?”. Thế là một cuộn phim đời quay ngược trong đầu Lía, rất rõ. Từ ngày Dần bỏ làng ra đi, nghe nói là tầm sư học đạo để có thể “xuất quỉ nhập thần”, không hiểu sao cũng từ đó cái bụng con Nụ cứ lớn dần lên, dù ông lý trưởng có tra vấn đến đâu, Nụ cũng nhất định không chịu khai tác giả của cái bào thai kia là ai. Năm nay thằng bé cũng đã mười mấy tuổi rồi, rất lạ, nó lại giống ông Chánh tổng như hai giọt nước, thiên hạ xầm xì rằng con Nụ có phước, nhưng thấy nó vẫn nghèo nên dần dà miệng đời cũng bớt sắc lẻm như dao, chỉa vào cuộc đời khốn khổ của nó. Bây giờ nó xuất hiện ở đây, trong cái đêm bí hiểm và thâm u này, như một chuyện liêu trai, ít có ai tưởng tượng nổi.
Dưới ánh đèn của đĩa dầu lạc mù mờ, gian chánh điện của ngôi đình càng trở nên ủ rũ, hoang liêu và huyền bí, Lía thấy hình như có ai đó đã dời tượng của Thánh Trần sang ngồi chung với Thánh Gióng, còn bàn thờ Thánh Trần thì được đặt hai bức chân dung của hai người đàn ông xa lạ, râu ria xồm xoàm, trán rộng đầu hói, cằm nhô, trông rất uy nghi, lạ lẫm, nét vẽ không được sắc sảo, có lẽ đây là sản phẩm của tài hội họa và của trí tượng mà Dần đã hấp thu được trong hơn 10 năm tầm sư học đạo. Giữa chốn tôn nghiêm, chưa bước vào đây lần nào, Nụ không dám ngồi sát vào Dần, chị cất giọng khe khẽ:
- Mười mấy năm qua anh đi đâu, bỏ em và thằng Mẹo vất vưởng nơi đầu đường xó chợ?
Ánh mắt long lanh dưới ánh đèn của Nụ làm cho Dần nhớ lại câu chuyện mười mấy năm qua, như đã trở thành cổ tích. Ngày ấy, tuy Dần dựa vào các Thánh nơi đình Vĩnh An, kiếm được khối tiền, dù các lý hào địa phương, muốn gả con gái cho Dần, nhưng các cô đều sợ hắn có ma nhập, nên chẳng cô nào dám lấy hắn. Trong một đêm rằm tháng mười, bầu trời mờ đục, dưới cơn mưa tầm tã, Dần vô tình gặp Nụ, hai tay ôm vai, co ro đi qua cổng đình, người ướt sũng, chiếc áo tơi chằm lá cọ của Dần có ngờ đâu lại là khởi đầu nhân duyên của hai người… Dần nhìn Nụ, ngưng một chút, rồi nói:
-Anh đi lo đại nghiệp.
Nụ rụt rè:
Dần đáp gọn lỏn:
- Buôn Thánh
- Em là con nhà quê, lâu nay em chỉ nghe người ta nói buôn gạo, buôn mắm chứ có nghe ai nói buôn Thánh bao giờ?
Dần đổi sang giọng tâm sự:
- Em đã biết rồi đó. Anh là đứa con bị ruồng rẫy, gia đình và xóm làng đẩy anh vào cái miễu Âm hồn sống với Ma, có những ngày không một củ khoai trong bụng, và bao đêm co ro trong manh chiếu rách ở cái chái sau của miễu Thành hoàng và anh đã sống nhờ vào Ma, nếu không,  thì anh đã chết từ lâu rồi.
Nụ thắc mắc:
-Thần thánh trong miễu Âm hồn có cho anh gì đâu?
- Đó là điều bí ẩn mà chỉ có Thần và anh biết, làm sao em hiểu được.
Nụ không dám hỏi nữa, cô tỉ tê:
- Nhưng anh cũng đã từng sống với ma kia mà? Ngày ấy em sợ anh lắm. Lúc anh đè em mà em cứ tưởng như ma đè, lâu dần, thì anh cũng chỉ là một con người, em thấy thích và nhớ anh.
Dần đâm ra tự hào:
- Vâng, anh đã sống với Ma, đôi khi anh chính là Ma, có lúc anh lại là Thần.  Thần, Ma, Người  cuối cùng cũng chỉ là một. Một mình anh mà thôi.
Nụ lại tỏ ra khó hiểu:
- Anh kỳ quặc lắm. Từ ngày anh được ông chánh tổng điều về “ôm” cái đình Vĩnh An, có phải là anh đã giàu sang lên không, vì sao thế?
Dần nói một cách bí ẩn và triết lý:
- Là Ma thì người ta sợ, là người thì có khi bị thiên hạ khinh khi ganh ghét, là Thần thì được tin, nể trọng, tôn vinh và thờ phụng. Do đó trong đêm tăm tối anh phải làm Ma, giữa thanh thiên bạch nhật, anh đành phải chính là anh, chỉ là một con người, nhưng giữa đám đông mê muội kia, anh phải trở thành Thần Thánh. Nhờ biết nhập vào Thần Thánh, rồi trở thành Thần Thánh mà anh mới có tiền và có quyền. Em biết rằng chỉ có tiền và có quyền mới có thể khống chế được mấy lão quan huyện quan phủ chứ?
Như sực nhớ ra, nhìn vào tấm hình trên bàn thờ, Nụ bâng khuâng:
Dần nhìn chăm vào mắt Nụ rồi mỉm cười:
- Chẳng phải là Thần Thánh nào cả, chẳng phải là một nhân vật ghê gớm nào cả. Đó chỉ là những cái bóng của thần linh trong trí tưởng tượng riêng anh. Nhưng hai người đàn ông ấy sẽ thành Thánh dưới bàn tay phù phép của anh. Đã bao năm Thần thánh đẻ ra anh, bây giờ đến lúc anh phải đẻ ra Thần Thánh. Mười mấy năm anh ra đi và gần nửa năm anh đóng cửa đình để tu luyện, đó là một huyền thoại. Huyền thoại sẽ đẻ ra Thần Thánh.
Nụ nghe một thứ ngôn ngữ rất mơ hồ, khó hiểu, cô nói gọn lỏn:
-Thần Thánh đẻ ra anh, hay anh đẻ ra Thần Thánh, em không cần biết, em chỉ biết bây giờ anh đã về, là anh Dần, anh không thể bỏ em và thằng Mẹo đi buôn Thần bán Thánh một lần nữa. Mà buôn Thần Thánh thì có lợi gì đâu?
Dần cười đắc ý và tự tin:
- Anh sẽ không đi đâu nữa, nhưng em là đàn bà con gái, đái không khỏi ngọn cỏ, thì làm sao hiểu được cái lợi của buôn Thánh. Ngày xưa ông Lã Bất Vi bên Tàu buôn vua, một lời trăm, lời nghìn, nay anh buôn Thánh thì mối lợi không sổ sách nào có thể ghi hết đâu.
Nụ không tin:
-Thật là không tưởng viễn vông, em vẫn chỉ thấy anh tự giam thân vào cái xó đình tăm tối này, còn em và thằng Mẹo mãi mãi là khố rách áo ôm. Làm thế nào anh có thể biến một tấm hình thành Thánh chứ? 
Dần lắc đầu thất vọng:
- Em có biết mấy bà già trầu? Cái bình đựng vôi bằng đất nung khi mới mua về, nó chỉ là cái bình vôi, sau mấy năm, vôi cứng lại, đặc ruột, không dùng nữa, vứt ra đường, sợ trẻ con chúng nó tè lên, sợ dơ cái mồm vì ngày xưa mình đã từng ăn vôi từ ấy, đưa nó lên trang thờ, từ đó phải gọi bằng ông, "Ông bình vôi ".
Nụ cãi:
- Dù được gọi là “Ông bình vôi” đi nữa, cũng đâu có vinh dự gì, vẫn là thứ thừa thãi, có ngày người ta phải vứt đi!
Dần vẫn kiên nhẫn và ôn tồn:
- Đó là anh chỉ lấy một thí dụ nhỏ cho em hiểu. Còn sự nghiệp buôn Thánh của anh thì vô cùng to tát. Hai vị trong bức ảnh kia, sau khi anh dùng tài tô vẽ của mình, kinh nghiệm bao nhiêu năm ăn ngủ chung với Ma, với Thánh, đã từng đem Thánh ra để lừa thiên hạ lấy tiền, lấy quyền, anh sẽ phủ lên đó một huyền thoại, làm cho người ta tin, từ làng đến tổng, từ tổng đến huyện phủ, rồi loang ra cả nước. Em biết lúc ấy sức mạnh của Thánh và của anh sẽ ra sao không? Thánh và anh sẽ ngự trong lòng mọi người. Thần dân sẽ là con chiên của Thánh. Dần say sưa ngây ngất trong suy nghĩ của mình...
Nụ đành phải ngắt lời:
-Rồi Thánh vẫn là Thánh, còn anh cũng vẫn là anh mà thôi!
Dần vội giải thích:
- Không đâu. Ngày xưa, khi cất bước ra đi Thiên Trúc, ngài Đường Huyền Trang cũng chỉ là một Đại Đức. Thế mà khi thỉnh được Tam Tạng kinh đem về cho Trung Hoa, rồi Ngài dịch tất cả 75 bộ kinh gồm 1335 quyển để lại cho đời, nhớ công đức ấy mà ngày nay chúng sinh tôn thờ Ngài, dựng tượng ngài ở khắp nơi, có khi còn đứng chung với Đức Phật. Nay anh rước Thánh về cùng hàng chục bộ kinh sách cho dân mình, mai kia có ngày, anh cũng sẽ đứng chung với Thánh của anh. Con đường buôn Thánh của anh vĩ đại biết chừng nào!
Nói đến đấy, môi Dần run run vì xúc động. Hắn ngước nhìn lên bức chân dung của hai người đàn ông xa lạ mà hắn đã tưởng tượng ra. Chỉ có hắn mới biết họ là những vị Thánh nào. Trong niềm sung sướng tột cùng, như một người nửa tỉnh nửa say, Dần quàng tay ôm Nụ vào lòng. Hình như bản năng trong hắn đang trổi dậy.... Ngoài kia, Sen đội mâm xôi gà trở về nhà, còn Lía thì lẩm bẩm: “trong ấy sao mà nhiều Thánh quá, còn ngoài này, bầu trời vẫn tối đen như mực!”.
 

Xem Tiếp: ----