Chương 2

    
hiếc Ram Charger to lớn lao xuống từ đường núi chính từ Qatar dẫn về Abu Dhabi ở Các tiểu vương quốc Arập, đúng giờ. Điều hoà nhiệt độ giữ mát bên trong xe, và người lái xe bật vài bài đồng quê và miền Tây yêu thích của mình khiến cho bên trong ngập tràn tiếng nhạc quê nhà.
Đi quá Ruweis, họ đã ở giữa đồng quê, biển ở bên trái họ chỉ đôi khi hiện ra giữa những đụn cát, còn ở bên phải sa mạc rộng lớn trải dài hàng trăm dặm nóng và cát về phía Dhofar và Ấn Độ Dương. Bên cạnh người chồng Maybelle Walker nhìn chăm chăm vào cái sa mạc màu xám xịt đang chạy dài dưới bầu trời giữa trưa. Ray Walker vẫn nhìn ra đường. Cả đời là một tay buôn dầu, ông đã từng nhìn thấy sa mạc trước đó. "Đã thấy một tức là thấy tất cả", ông hững hờ nói khi người vợ tung ra những câu cảm thán, thán phục với những cảnh tượng và âm thanh thật mới mẻ với bà. Nhưng với Maybelle Walker tất cả đều là mới, và mặc dù bà đã nghiền ngẫm khá đủ trước khi rời Oklahoma đến mở một chi nhánh mới ở Eckerd. bà vẫn yêu quý những giây phút của chuyến đi hai tuần ở vùng vịnh Arập - thường được gọi là vịnh Pecxich.
Họ đã bắt đầu chuyến đi ở phía Bắc Kuwait, rồi lái chiếc xe công ty thuê cho để đi xuống phía Nam đến A rập Xêut, qua Khafji và Al-khobar, cắt chéo đường để đến Bahrain. rồi quay trở lại và đi xuống qua Qatar và đến UAE. Ở mỗi điểm đỗ Ray Walker lại "kiểm tra" chiếu lệ văn phòng công ty mình - lý do bề ngoài của chuyến đi - trong khi bà lấy một người hướng dẫn từ văn phòng công ty và đi thám hiểm các địa điểm trong địa phương. Bà cảm thấy mình thật can đảm khi dám đi xuống tất cả các phố chật hẹp cùng duy nhất một người đàn ông da trắng đi theo. không hề ý thức được rằng bà có thể gặp nhiều nguy hiểm ở bất kỳ đâu trong số năm mươi thành phố lớn nhất nước Mỹ hơn là ở vịnh A rập này.
Các địa điểm đã làm bà say đắm trong chuyến đi đầu tiên và cũng có thể là cuối cùng ngoài nước Mỹ. Bà ngưỡng mộ các lâu đài và các tháp có chóp của người Hồi giáo, lang thang ở dòng thác vàng, và lo sợ làn sóng những khuôn mặt tối tăm và những chiếc áo dài nhiều màu sắc quây quanh mình khi ở các khu phố cổ.
Bà đã chụp ảnh mọi thứ và mọi người để khi về cho những người đàn bà ở câu lạc bộ xem những nơi bà đã đến và những gì bà đã thấy. Bà ghi nhớ lời dặn của người đại diện hãng ở Qatar không được chụp một người Arập ở sa mạc mà không có sự cho phép của ông, vì nhiều người vẫn tin chụp ảnh đồng nghĩa với bị lấy mất linh hồn.
Bà thường xuyên tự nhủ mình là một người phụ nữ hạnh phúc và phải hạnh phúc về điều đó. Lấy chồng gần như ngay sau khi rời trung học hai năm sau lần gặp đầu tiên. bà thấy mình lấy được một người đàn ông tốt, vững vàng với nghề nghiệp tại một công ty dầu mỏ địa phương đã vươn lên qua những vị trí mà công ty mở rộng được, cho đến nay trở thành một trong số các phó chủ tịch.
Họ có một ngôi nhà dẹp bên ngoài Tulsa và một ngôi nhà bãi biển cho các kỳ nghỉ hè ở Hatteras, giữa Đại Tây Dương và Pamlico Sound ở bang Carolina Bắc. Đã có một cuộc hôn nhân tốt đẹp dài ba mươi năm, được ban thưởng với một đứa con trai xinh xẻo. Và hiện giờ, một chuyến đi hai tuần bằng chi phí của hãng đến mọi thắng cảnh xa xôi và những âm thanh, những mùi vị: và những kinh nghiệm của một thế giới khác, vịnh Arập.
- Đường tốt đấy, bà nhận xét về con đường trải nhựa ánh lên trước xe họ. Nếu nhiệt độ trong xe là bảy mươi độ (F) thì trên sa mạc hẳn phải là một trăm hai mươi.
- Ừ! Chồng bà hờ hững- Bọn anh đã làm nó đấy.
- Công ty á?
- Không. Nước Mỹ, mẹ kiếp.
Ray Walker có thói quen nói đệm từ mẹ kiếp. Họ ngồi một lúc trong im lặng rồi bà ngồi sát lại chồng hơn, bà luôn muốn làm vậy bên cạnh chồng.
Sắp sang tuổi sáu mươi, Ray Walker đã nói đến chuyện về hưu với một khoản lương hưu cao và một số cổ phiếu giá trị cao, và một công ty đáng kính đã tặng ông một chuyến đi hai tuần, trả hết mọi chi phí, hạng nhất đến Vịnh để "thanh tra" những trạm của họ dọc theo bờ biển. Dù ông cũng chưa bao giờ đến đây, nhưng ông cũng phải công nhận ông chẳng mấy say mê với những cái như vợ mình, nhưng ông thích thấy bà như thế. Ôc những con sông đó, những người sản xuất nghĩ tốt hơn hết là ở lại nhà mình.
Thật may mắn, Martin lại bắt đầu từ chợ gia vị ở đường Shurja, rồi đạp xe đến nhà thờ Thánh Joseph để đến con đường đi vòng sau nhà thờ. Khi nhìn thay dấu phấn, anh thiếu điều nhảy dựng lên. Dấu phấn trên bức tường đặc biệt này luôn được thỏa thuận là số 8 viết đúng chiều, với một nét ngắn đi qua giao điểm của hai đường tròn. Nhưng anh đã nói Jericho trong trường hợp thực sự khẩn cấp sẽ thay một nét ngắn bằng hai đường tròn nhỏ, mỗi cái trong một hình tròn tạo nên số 8 đó.
Hôm nay dấu vết quả là như thế. Martin đạp vội đến cái sân đường Abu Nawas, đợi cho đến khi mọi người đi cả, lại dừng xe cúi xuống như thể đang sửa dép, luồn một tay vào kẽ tường, và tìm thấy cái bì thư mềm. Khoảng giữa trưa, anh trở về ngôi biệt thự, giải thích cho ông bếp đang cáu kỉnh rằng anh đã cố lắm nhưng thực phẩm hôm nay chẳng chịu đến thành phố gì cả. Anh có thể quay lại để mua vào buổi chiều.
Khi đọc thông điệp của Jericho, anh cảm thấy lạnh toát như người bị một cơn sợ rất lớn. Martin thảo nhanh một thông điệp của chính mình, giải thích cho Riyadh tại sao anh cần phải tự mình đứng ra giải quyết theo cách riêng của mình. Không còn đủ thời gian cho những cuộc họp ở Riyadh và những lần gửi tin tức qua lại nữa. Điều tồi tệ nhất, đối với anh, là tin Phản gián Iraq đã biết được về một máy phát tin bất hợp pháp gửi đi những tín hiệu mật. Anh có thể không biết họ đã ở gần mình đến đâu, nhưng anh phải đặt giả thuyết không thể tiếp tục gửi tin với Riyadh được nữa. Do đó anh phải tự mình ra quyết định.
Martin đọc thông điệp của Jericho bằng tiếng Arập trước, rồi dịch sang tiếng Anh vào máy thu. Anh đọc luôn vào đó thông điệp của chính mình và chuẩn bị để gửi đi. Anh không thể gửi tin đi cho đến đêm muộn - đêm luôn được chọn vì cả nhà Kulikov đều đi ngủ sớm. Nhưng, cũng giống như Jericho, anh có cách liên lạc trong những trường hợp khẩn cấp
Đó là một lần chuyển tin với một âm thanh dài và sắc, trong trường hợp này, là một tiếng huýt gió cao, trên một tần số khác hẳn, so với dải VHF vẫn thường sử dụng.  Anh kiểm tra lại xem người lái xe đã đi cùng Bí thư thứ nhất Kulikov đến đại sứ quán ở trung tâm thành phố chưa và người quản gia Nga cùng vợ mình đã đi ăn trưa. Rồi. dù có nguy cơ bị lộ, anh vẫn dựng đĩa vệ tinh ra gần cứa ra vào mở rộng và gửi đi tiếng còi dài.
Trong căn phòng trực đài, một phòng ngủ trước đây trong ngôi biệt thự của SIS tại Riyadh, một ánh đèn lóe lên. Đã là hai giờ rưỡi chiều. Người trực điện, đang nhận những thông tin thường ngày giữa ngôi biệt thự và London, ngừng việc mình đang làm, kêu to qua cánh cửa, và mở máy Nhận với tần số ngày hôm đó.
Kỹ thuật viên thứ hai thò đầu vào cửa.
- Cái gì thế
- Gọi Steve và Simon nhanh lên. Tin của Râu Đen đấy, khẩn lắm.
Người đó biến đi. Martin cho Riyadh 15 phút, rồi chuyển đi bức thông diệp chính.
Riyadh không phải duy nhất có đài bắt được tín hiệu này. Ngoài thành phố Baghdad, một đĩa vệ tinh khác, đang chầm chậm quét dải bằng VHF, cũng bắt được một phần trong đó. Bức thông điệp dài đến mức, dù đã được làm ngắn đi, vẫn kéo dài tới 4 giây. Những người nghe trộm Iraq bắt được 2 giây cuối và đã định vị dược.
Ngay khi gửi đi, Martin đóng ngay máy lại và giấu nhanh thiết bị của mình xuống dưới những tấm tôn ở sàn nhà. Anh đang làm thì nghe có tiếng bước chân trên sỏi. Đó là người đầu bếp người Nga, vốn tốt bụng, đang đi qua sân để cho anh một điếu thuốc Balkan. Martin nhận nó với trống ngực đập dữ dội và thì thầm "Shukran".
Người Nga, tự hào vì lòng tốt của mình, quay trở lại ngôi nhà. "Tội nghiệp chưa kìa". Anh nghĩ. "Đúng là cuộc đời".
Khi ở lại một mình, kẻ tội nghiệp bắt đầu viết những ký tự Arập thật sít trên một tờ giấy viết thư anh để dưới cái hộp. Trong khi anh đang làm thế, thiên tài về phát thanh tên là thiếu tá Zayeed đang dò trên một bản đồ thành phố có tỉ lệ xích cực kỳ cao, đặc biệt về quận Mansour. Khi kết thúc những tính toán của mình, anh ta kiểm tra lại lần nữa cho chắc ăn rồi gọi cho thiếu tướng Hassan Rahmani ở đại bản doanh đóng tại Mukhabarat, cách ngôi nhà hình viên kim cương ở Mansour 500 yard mà anh đang dò tìm bằng mực xanh. Cuộc gặp gỡ được ấn định vào lúc 4 giờ.
Tại Riyadh, Chip Barber đang đi vòng quanh căn phòng khác chính của ngôi biệt thự với một tờ giấy in trên tay, theo cách thức ông ta chưa từng lặp lại kể từ rời khỏi Hải quân 30 năm trước.
- Anh ta đang làm cái quỷ quái gì vậy? ông hỏi hai sĩ quan tình báo Anh cũng đang ở trong phòng.
- Dễ hiểu thôi mà, Chip. Laing nói. Anh ta đang phải làm cái quỷ quái dài hạn. Anh ta đang gặp nguy hiểm lớn đấy. Bọn xấu đang ở gần anh ta lắm rồi. Mọi đường dây đều cho chún;ng định kết thúc chuyến đi ở Abu Dhabi và Dubai. rồi mua vé khoang hạng nhất một chuyến bay thẳng về Mỹ qua London. Ít nhất thì ông cũng có khả năng mua bia Bud dài, lạnh không cần phải xin phép văn phòng công ty. Đạo Hồi có lẽ cũng tốt thôi, ông đùa. Nhưng sau khi đã ở tại những khách sạn tốt nhất ở Kuwait và Arập Xêut, những nơi khô hạn, ông tự hỏi tôn giáo nào có thể ngăn can một gã đàn ông được dùng bia vào một ngày nóng nực.
Ông ăn mặc theo đúng cách ông thấy cần phải thế đối với một tay buôn dầu mỏ trên sa mạc - bốt cao, quần jean, thắt lưng, áo phông. và Stetson - cái không thật sự cần thiết, vì thực ra ông là một nhà hoá học về quản lý chất lượng. ông nhìn máy đo: tám mươi dặm nữa đến chỗ rẽ Abu Dhabi.
- Phải nghỉ đấy, em yêu ạ. ông thì thầm.
- Anh cứ lo xa, Maybelle báo trước. Có bọ cạp ở đó đấy. Nhưng chúng nó không thể nhảy cao hai feet được, ông nói, và cười phá lên trong lời nói đùa của mình. Bị cắn vào mông bởi một con bọ cạp nhảy cao - thật là nhộn đối với những anh chàng đang đi về nhà.
- Ray, anh khủng khiếp thật đấy. Maybelle trả lời, và cũng cười. Walker lăn bánh chiếc Ram Charger đến bờ con đường vắng tanh và mở cửa xe. Cơn nóng hầm hập ập đến như thể từ cánh cửa của một cái lò. Ông bò ra và sập cửa lại sau lưng mình để giữ không khí lạnh ở bên trong. Maybelle ngồi lại trên chiếc ghế đằng sau khi chồng bà đi đến đụn cát gần nhất và đóng cửa lại sau lưng mình. Khi đó bà nhìn chằm chằm qua làn gió và thầm thì:
- Ôi. Chúa tôi, anh có thấy không kìa.
Bà với lấy chiếc máy ảnh Pentax của mình, mở cửa xe, và trườn xuống dưới đất.
- Em thích thì cứ việc, em yêu. Ai cơ?
Người Bedouin đứng bên kia đường, dường như bước ra từ giữa hai đụn cát. Anh ta thoắt ẩn thoát hiện. Maybelle Walker ngồi lên thanh kim loại phía trước chiếc xe, máy chụp hình trong tay, bất động. Chồng bà quay quanh và cũng đứng bật dậy. ông nhìn chằm chằm người đàn ông qua dường.
- Đừng làm thế, ông nói, đừng có làm. Đừng có lại gần quá nguy hiểm đấy. Anh sẽ nổ máy. Em chụp nhanh một bức ảnh, và nếu hắn ta lại gần, lập tức nhảy lên ngay nhé. Nhanh lên.
Ông nhảy lên chỗ lái xe và giật cần khởi động. Máy điều hoà cũng tự động được bật lên.
Maybelle Walker tiến lên trước vài bước và giương máy ảnh lên.
- Tôi có thể chụp hình anh không bà hỏi. Máy ảnh? ảnh? Click click? Cho album ảnh ở nhà tôi?
Người đàn ông chỉ đứng yên và nhìn bà chằm chằm. Chiếc djéllaba, cũ và bẩn, rơi từ vai anh ta xuống cát dưới chân anh ta. Cái  keffiyeh xấu xí màu đỏ trắng buộc trên đầu anh ta bằng một cái dây hai mảnh màu trắng, và một trong những góc được buộc lại dưới thái dương bên kia để quần áo
- Ray, anh nghĩ là em có thể chụp ảnh anh ta không?
Ray đang quay mặt sang hướng khác, đang sung sướng theo lối một người đàn ông đứng tuổi, quấn lấy mặt anh ta từ chỏm mũi xuống. Phía trên quần áo cũ nát là đôi mắt đen nhìn mãi vào bà. Cái mà lớp da trán nhỏ và tròng mắt bà có thể nhìn thấy bị cháy nâu bởi sa mạc.
Bà đã có nhiều bức hình cho album ảnh mà bà định làm ở nhà, nhưng không có bức nào chụp người bộ lạc Bedouin với sa mạc trải dài sau lưng như thế này. Bà nâng máy ảnh của mình lên. Người đàn ông không nhúc nhích. Bà nhìn qua ống kính, lấy hình thật chuẩn khuôn mặt thuôn, tự hỏi liệu có kịp nhảy lên xe nếu người đàn ông Arập chạy qua đường đến chỗ bà. Click.
- Cám ơn nhiều. bà nói. Anh ta vẫn không cử động. Bà đi giật lùi về phía chiếc xe, cười rạng rỡ. "Cứ cười nhé" bà nhớ tờ Reader's Digest từng quảng cáo người Mỹ bị tấn công bởi ai đó không hiểu nổi tiếng Anh.
- Em yêu, lên xe di! Chồng bà kêu lên.
- Ổn mà, em nghĩ anh ta ổn thôi, bà nói, mở cửa xe.
Đài không chạy nữa khi bà đang chụp ảnh. Sóng đài đã bị cắt. Tay Ray Walker với ra và kéo bà vào trong xe, nó chồm lên khỏi vệ đường.
Người Arập nhìn họ đi, nhún vai, và bước vào sau đụn cát, nơi anh ta lái chiếc Land-Rover không mui của mình ra. Trong một vài giây anh ta cũng lái chiếc xe về hướng Abu Dhabi.
- Tại sao phải gấp thế? Maybelle Walker phàn nàn. Anh ta sẽ không tấn công em đâu.
- Đó không phải là vấn đề, em yêu - Ray Walker mím chặt môi, con người có kiểm soát, có khả năng đối đầu với bất kỳ sự nổi lên nào của quốc tế - Chúng ta sẽ đến Abu Dhabi và đi chuyến bay gần nhất để về nhà. Có vẻ như là sáng nay Iraq đã tấn công Kuwait, mẹ kiếp. Họ có thể đến đây bất kỳ lúc nào.
Đã mười giờ, giờ vùng Vng người dân sự ngừng nói, bốn vị tướng ngồi trong sự im lặng bão tố.
- Việc đó là nghiêm túc đấy chứ? Một trong số những người Mỹ hỏi.
- Một trăm phần trăm. Barber nói, thì chúng tôi không chắc. Nhưng chúng tôi nghĩ rất nhiều khả năng thông tin đó là đúng.
- Cái gì làm anh chắc chắn đến thế hả? viên tướng của USAF hỏi.
- Như các ông chắc cũng đã từng đoán. từ cách đây vài tháng chúng tôi đã có một cá chìm làm việc cho chúng tôi ở chức vụ cao ở Baghdad.
Nhiều nụ cười mỉa mai hiện ra.
- Xin đừng nói rằng thông tin về mục tiêu đến từ quả bóng chiêm tinh của Langley nữa nhé, vị tướng của Không quân nói, vẫn còn thù CIA vì đã làm ông mất đi các phi công.
- Vấn đề là, Laing nói, cho đến giờ, chúng tôi vẫn chưa hề thấy một thông tin nào của anh ta là không chính xác cả. Nếu anh ta nói dối chúng ta vào lúc này, thì thật kỳ quặc. Thứ hai, chúng ta liệu có sẵn sàng chấp nhận nguy cơ này không?
Một sự yên lặng kéo dài trong nhiều phút.
- Có một việc người của các anh đã lầm. Người chỉ huy USAF nói. Vận chuyển.
-  Vận chuyên ư? Barber hỏi.
- Đúng đấy. có một vũ khí là một chuyện: chuyên chở nó đi ngay trước mũi kẻ thù thì lại là chuyện khác. Xem nào, không ai có thể tin Saddam lại có tài thu nhỏ mọi vật. Cái đó đòi hỏi công nghệ cực kỳ cao. Tóm lại ông ta không thể bắn cái thứ đó đâu, nếu quả thật ông ta có nó, từ một nòng súng xe tăng. Hay là một thứ pháo bình thường. Hoặc một khẩu đội theo kiểu Cachiusa. Hoặc một hoả tiễn.
- Thế tại sao không phải là bằng rocket được: thưa Tướng quân?
- Vì tải trọng của nó. viên phi công nói vẻ châm chọc. Cái thứ tải trọng quỷ quái. Nếu đó là một thứ vũ khí dữ dội. thì chúng ta phải tìm được đến nửa tấn. Tức là chừng 1000 pound. Nếu giờ đây chúng ta đã biết được những quả tên lửa Al-Abeid và Al-Tammuz vẫn chỉ đang  được phát triển khi chúng ta nghiền nát dụng cụ ở Saad-l6. Al.Abbas và Al-Badr, cũng giống thế. Không thể được đâu - dù là nghiền ra hay tải trọng cực nhỏ.
- Thế còn Scud thì sao? Laing hỏi.
- Cũng thế thôi, vị tướng nói. Tầm xa được gọi là Al- Husayn sẽ làm vỡ nòng khi bắn và có một tải trọng lên tới 160 kg. Ngay cả với tên lửa Scud do Liên Xô tài trợ cũng chỉ có tải trọng tối đa lên tới 600 kg. Quá nhỏ.
- Thế thì vẫn còn một quả bom ném từ trên máy bay, Barber gợi ý.
Viên tướng Không quân nhăn mặt: " Thưa các quý ngài, tôi dám đưa ra đảm bảo của riêng mình, bây giờ và ở đây: kể từ lúc này. không một máy bay chiến đấu nào của Iraq ra được tới biên giới nữa. Thậm chí không thể rời được đường bay. Những cái đi về phía nam sẽ bị bắn hạ cách biên giới nửa dặm. Tôi đã có đủ AWACS, đủ máy bay chiến đấu - tôi có thể đảm bảo điều đó.
- Thế còn Pháo đài thì sao? Laing hỏi. Cái máy phóng, Một hangar tuyệt đối bí mật.có thê là ngầm dưới đất. một thứ chỉ rất ít người biết: có một chiếc Mirage, một chiếc MIG, một Sukhoi - đã được lắp đặt và sẵn sàng đi. Nhưng chúng ta sẽ tóm được nó trước khi nó đến biên giới.
Quyết định đã được đưa ra bởi vị tướng Mỹ ngồi đầu bàn chủ trì.
- Các anh có đi tìm kiếm nơi đó không. cái pháo đài ấy? Ông trầm tĩnh hỏi.
- Có thưa ngài. Barber nói. Chúng tôi bây giờ đã thử rồi.
- Chúng tôi cho rằng sẽ mất không nhiều ngày nữa đâu.
- Hãy tìm ra nó đi, và chúng tôi sẽ tiêu diệt nó.
- Thế còn thời hạn đổ quân sắp tớỉ. thưa ngài? Laing hỏi.
- Tôi sẽ cho các anh biết sau nhé.
Tối đó, đã được thông báo rằng cuộc tấn công trên bộ vào Kuwait và Iraq đã được hoãn lại và được lên lại kế hoạch vào ngày 24 tháng Hai.
Sau này. các sử gia đã đưa ra hai nguyên nhân cho sự trì hoãn này. Một: Hải quân Mỹ muốn chuyên trục tấn công chính sang xa hơn vài dặm về phiía tây và như thế cần rất nhiều vận chuyển, về đồ đạc, và các chuẩn bị khác nữa. Điều này cũng là đúng.
Lý do thứ hai đi trước trên báo chí cho rằng hai tên tin tặc người Anh đã đột nhập hệ thống máy tính của Bộ Quốc phòng và phá mất các thông tin về dự báo thời tiết cho khu vực sẽ tấn công, gây ra sự hoang mang đối với lựa chọn ngày tốt nhất cho cuộc tấn công từ quan điểm khí hậu.
Trên thực tế, thời tiết vẫn đẹp và trong giừa ngày 12 và ngày 24, và nó chỉ xấu đi khi đội quân tiên phong bắt đầu tiến lên.
Tướng Norman Schwarzkopf  là một người đàn ông to lớn và mạnh khoẻ, về thể chất cũng như tinh thần. Nhưng tâm trạng của ông có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những ngày vừa qua không bắt đầu nói với ông.
Ông đã làm việc mỗi ngày 20 tiếng đồng hồ trong suốt 6 tháng mà không nghỉ. Ông không chỉ được coi là nhà quân sự lớn nhất và nhanh nhất trong lịch sử, một kỷ lục có thể hạ gục một người kém cỏi hơn, nhưng ông cũng phải đối mặt với những điều phức tạp về quan hệ với những điều nhạy cảm trong xã hội Arập Xêut, phải giữ cho được hoà bình hàng chục lần có nguy cơ làm tan rã Liên quân, và phải nghe theo những can thiệp rất nhiều nhưng chẳng mấy cần thiết của đồi Capitol.
Và đó còn chưa phải là mọi thứ quấy nhiễu giấc ngủ cực kỳ cần thiết của ông trong những ngày vừa qua. Chính trách nhiệm về những sinh mệnh trai trẻ đã khiến ông có những cơn ác mộng.
Trong cơn ác mộng, có một tam giác. Luôn như thế. Đó là một tam giác đất đều đặn, nằm trên bờ của nó. Cái có thể là đáy của tam giác là được từ Khafji trải xuống đi qua Jubail cho đến ba thành phố nối liền với nhau là Dammam, Al Khoba và Dhahran.
Đường chéo của tam giác là đường biên giới chạy sang phía tây từ bờ biển, đầu tiên là giữa Arập Xêut và Kuwait, rồi đi vào trong sa mạc để trở thành biên giới của Iraq. Đường trung trực là đường nối điểm ngoài cùng phía tây trong sa mạc với bờ biển ở Dhahran.
Trong tam giác đó gần nửa triệu đàn ông và đàn bà đang ngồi đợi lệnh của ông. 80 phần trăm trong số họ là người Mỹ.
Phía đông là người Xêut, những đội quân Arập khác, và Hải quân. Tại trung tâm là các đơn vị bộ binh Mỹ đồ sộ trang bị tối tân. và giữa họ là Sư đoàn Thứ nhất của Anh. Ớ sườn bên kia là người Pháp.
Lại thêm một lần nữa, cơn ác mộng lại là hàng chục nghìn chàng trai trẻ đổ vào để tấn công, để rồi phải hứng lấy một trận mưa khí độc và chết giữa những bức tường cát và hàng rào dây thép. Giờ đây mọi chuyện lại còn tồi tệ hơn.
Chỉ mới một tuần trước thôi, quan sát tam giác trên một bản đồ quân sự, một sĩ quan tình báo Quân đội đã thực tế gợi ý, có thể Saddam định sẽ đặt quân ở đây". Người đó từng nghĩ là mình đang nói đùa.
Đêm đó, vị tướng tổng chỉ huy lại cố ngủ và lại thất bại. Luôn là cái Tam giác. Rất nhiều người, và không gian thì quá nhỏ hẹp.
Tại biệt thự của SIS, Laing, Paxman, và hai kỹ thuật viên phát thanh đang chia nhau một cái gì đó được bí mật mang từ Đại sứ quán Anh đến. Họ cũng đang nghiên cứu bản đồ; họ cũng nhìn thấy cái Tam giác. Họ cũng cảm thấy kinh sợ.
- Quả bom khốn khiếp, một quả bom nhỏ, tàn bạo chết mẹ, lần đầu tiên sau quả bom Hiroshima ở đây sẽ có một quả khác, không khí tung lên hay mặt đất sẽ tung lên... Laing nói.
Họ không cần đến các nhà khoa học để biết được rằng vụ nổ đầu tiên có thể giết chết 100.000 người lính trẻ trung. Trong nhiều giờ, cơn mưa phóng xạ, sẽ nhiễm vào hàng tỷ tấn cát trong sa mạc, có thể bắt đầu tác hại, làm mọi thứ trên đường đi của nó phải chết.
Những chiếc tàu đậu ngoài biển có thể còn đủ thời gian để chạy thoát, nhưng những đội quân đang đóng trên mặt đất ở các thành phố Arập Xêut này thì không thể. Về phía đông nó có thể lan rộng về phía Bahrain và các sân bay của Liên quân, làm nước biển nhiễm xạ, đi qua cho đến bờ biển của Iran, tại đó sẽ loại trừ  những người mà Saddam Hussein từng tuyên bố là không xứng đáng được sống - " Bọn Ba Tư, bọn Do Thái,. và ruồi"
- Hắn ta nhất định không thể phóng nó đi được. Paxman nói Hắn không thể có một quả hoả tiễn hay một máy bay có thể làm được việc đó.
Rất xa về phía bắc, giấu mình trong Jebal ở Hamreen, rất sâu trong nòng một khẩu súng với nòng dài 180 mét và tầm bắn hàng nghìn km. Cú đấm của Thượng đế đang nằm im lìm nhưng đã sắp được gọi để bay lên.
Ngôi nhà ở Qadisiyah chỉ mới lơ mơ tỉnh dậy và còn chưa chuẩn bị cho các vị khách đến vào lúc bình minh. Khi người chủ nhà xây nó vào nhiều năm trước. nó đã được đặt vào giữa một vườn hoa lan lớn. Nó nằm đó cách bốn biệt thự ở Mansour mà thiếu tá Zayeeh của Cục phản gián đã chuẩn bị để giám sát đúng ba dặm. Sự lan rộng của vùng ngoại ô tây nam của Baghdad đã bao bọc lấy ngôi nhà, và đường cao tốc Qadisiyah lao lên qua cái đã từng là những đồng ruộng trồng lê và mơ.
Nó vẫn là một ngôi nhà đẹp thuộc sở hữu của một người giàu có từ lâu đã về hưu, kín cổng cao tường và vẫn giữ được một số cây ăn quả ở cuối vườn.
Có hai chiếc xe tải lớn đầy lính AMAM dưới sự chỉ huy của một thiếu tá,='height:10px;'>
Và anh đã được giao việc. Trong hai mươi tư giờ Badri đã được tnệu tập đến hành lang của khu sĩ quan. nơi một chiếc xe cho nhân viên màu đen đợi sẵn. với hai người từ Amn-al-Khass, đội cận Vệ Của tổng thống. Anh được đưa thẳng tới dinh thự của tổng thống để đến với cuộc gặp rùng rợn và đáng sợ nhất trong đời mình.
Dinh thự dược đặt ở góc đường Kindi và 14 tháng Bảy, gần cầu cùng tên, cả hai đều để kỷ niệm ngày của hai vụ đảo chính dều tiên vào tháng Bảy năm 1968 đã đưa đảng Ba'ath lên nắm quyền và chấm dứt thời kỳ thống trị của các vị tướng. Badri được dẫn vào một phòng chờ và ở đó trong hai tiếng. Anh bị khám xét rất kỹ lưỡng, hai lần, trước khi được đến trước mặt tổng thống.
Ngay khi các vệ binh sau lưng anh dừng chân, anh cũng dừng lại, rồi cung kính cúi gập người chào và giữ nguyên tư thế đó trong ba giây, trước khi bỏ mũ beret và kẹp nó dưới nách. Sau đó anh tập trung chú ý.
- Thế anh là con người thiên tài của Maskirovka đó hả?
Anh đã được cho biết không được nhìn Rais thẳng vào mắt, nhưng khi nói anh không thể không làm vậy. Saddam Hussein đang có tâm trạng vui vẻ. Mắt của vị sĩ quan trẻ trước mặt ông đầy vẻ kính trọng và ngưỡng mộ.
- Tốt, không việc gì phải lo cả. Bằng âm điệu nhỏ nhẹ Rais nói với kỹ sư điều ông mong muốn. Ngực Badri nảy lên vì tự hào và sung sướng.
Trong vòng năm tháng tiếp theo đó, anh làm việc với tốc độ không thể tưởng tượng và làm xong trước được mấy ngày. Anh đã có mọi thiết bị mà Rais hứa cho. Mọi thứ và mọi người đều đặt dưới quyền của anh. Nếu cần thêm bê tông và thép, anh chỉ cần gọi điện thẳng cho Kamil theo số cá nhân, và con rể của tổng thống sẽ cung cấp ngay lập tức từ các nguồn của Bộ Công Nghiệp. Nếu cần thêm người, hàng trăm nhân công sẽ được đưa đến, luôn là những người Triều Tiên và Việt Nam sang làm việc ở đây. Họ cắt và đục, họ sống trong những lán trại tồi tàn dưới thung lũng trong mùa hè này, và sau đó họ được đưa đi, anh không biết là đi đâu.
Ngoài các công nhân. Không ai có thể đi vào bằng đường, chỉ có một lối nhỏ khó đi, đã được tính toán kỹ khi xây dựng, chỉ dành cho những xe tải chở thép và các kiện hàng, và các máy trộn xi măng. Mỗi người khác ngoài những tài xế xe tải đến bằng một trong những chiếc trực thăng Nga hiệu MIL, và chỉ khi họ đến thì băng bịt mắt họ mới được bỏ ra, lại được đeo lại khi họ rời nơi đó. Điều này được áp dựng cho người cao cấp nhất cũng như người Iraq bình thường nhất.
Badri đã tự chọn chỗ này, sau nhiều ngày xem xét kỹ càng từ trực thăng bay qua các núi. Cuối cùng anh đã tìm được địa điểm này, phía trên Jebal al Hamreen, phía bắc và xa hơn vào trong núi từ Kifri, nơi những ngọn đồi của dãy Hamreen trở thành núi trên con đường đến Sulaymaniyam. Mỗi ngày anh làm việc hai mươi giờ, ngủ ngay ở công trường, doạ nạt, răn đe, ve vãn, và lừa phỉnh người của mình để tăng tốc độ, và cuối cùng anh đã hoàn thành trước khi tháng Bảy kết thúc. Địa điểm đã được xoá mọi dấu vết công việc, mọi viên gạch và mọi chồng vật liệu. mọi mẩu thép có thể ánh lên trong ánh nắng mặt trời, mọi vết trên đá. Ba ngôi làng bảo vệ đã được hoàn thành và được dùng để nuôi dê và cừu. Cuối cùng, đường vào đã được lấp đi, ba thung lũng và đỉnh núi cao đã được khôi phục nguyên trạng. Gần như thế.
Với anh, Osman Badri, đại tá kỹ sư, người kế thừa những kỹ năng xây dựng cao cấp, học trò của Stepanov vĩ đại nước Nga, bậc thầy của maskirovka, nghệ thuật nguỵ trang những cái để nó như là không có gì cả hoặc như là một cái khác, đã xây dựng cho Saddam Hussein "Qu'ala"( pháo đài). Không ai có thể thấy nó, và không ai biết nó ở đâu.
Trước khi hoàn thành tất cả, Badri đã nhìn những cái khác, những tập hợp và nhà khoa học về súng, làm nên cái nòng súng khủng khiếp dường như vươn tới những vì sao thật xa xôi. Khi mọi thứ đã hoàn thành họ đi khỏi đó, để lại đội khác ở lại. Họ sẽ ở lại và sống ở đó. Không ai được phép ra khỏi. Những người phải đến và đi phải đi bằng trực thăng. Không ai trong số đó được hạ cánh: họ có thể đi bằng một con đường nhỏ đầy cỏ xa ngọn núi. Một số ít người đến hay đi có thể luôn phải đeo khăn bịt mắt. Những người phi công và đội lái phải được để trong một căn cứ không quân không có khách đến thăm cũng không có điện thoại. Những cọng cỏ hoang cuối cùng đã phủ lên, những cây cuối cùng được trồng, và pháo đài được bỏ lại cô đơn một mình.
Sự mơ mộng của Badri bị cất đứt bởi một tiếng kêu to từ lều chỉ huy, lệnh tấn công đã được ban xuống: "khởi hành".
Kỹ sư chạy đến xe tải của mình và nhảy lên chỗ ngồi, tài xế của anh nổ máy. Họ ngồi vào chỗ là những đội lái xe tăng của hai sư đoàn vệ binh khai hoả cuộc tấn công làm ngập không khí với âm thanh xé màng nhĩ và những chiếc T-72 của Nga lao lên khỏi các sân bay để lên đường đến Kuwait.
Sau này anh sẽ nói với người anh Abdelkarim của mình, một phi công máy bay quân sự và đại tá trong không quân, điều này giống như tiếng gà tây quang quác vậy. Trạm cảnh sát đáng thương ở biên giới bị hất sang bên cạnh và bị nghiền nát. Khoảng hai giờ sáng đoàn quân đã qua biên giới và lao về phía nam. Nếu người Kuwait dám chống lại đội quân này: quân đội lớn thứ tư trên thế giới, đang tiến đến Multa Ridge và vào tận sâu trong nước theo lệnh của Rais, họ có chẳng có tý vận may nào cả. Nếu phương Tây nghĩ rằng quân đội này chỉ có thể chiếm được những hòn đảo đáng thèm muốn của Warbah và Bubuiyan, mang lại cho Iraq lối vào đầy hấp dẫn vùng Vịnh, thì họ quá lầm. Mệnh lệnh từ Baghdad là: chiếm lấy tất cả.
Trong lúc Ray Walker, sau câu nói của mình, đang lao như điên đến phi trường Abu Dhabi, hăm doạ người bán ở quầy vé đòi quyền của người Mỹ để kiếm bằng được vé máy bay ngay tắp lự, một số những người đồng hương bạn ông đã kết thúc một đêm không ngủ. Cách Washington tám múi giờ, Hội đồng An ninh Quốc gia đã bị dựng dậy giữa đêm. Trong những ngày trước đó họ đã thường xuyên có những cuộc gặp cá nhân với Nhà Trắng; công nghệ mới giờ đây cho phép họ có được những đường dây liên lạc có hình ảnh từ nơi họ đang ở.
Tối hôm trước, vẫn là mồng Một tháng Tám ở Washingtơn, những báo cáo sớm đã xác định một vài vụ nổ dọc theo biên giới phía bắc Kuwait. Điều này không nằm ngoài dự kiến. Trong nhiều ngày các thông tin từ các vệ tinh khổng lồ KH-11 trên bầu trời phía bắc Vịnh đã cho thấy sự hình thành các lực lượng của Iraq, cho Washington biết nhiều hơn vị đại sứ Mỹ ở Kuwait thực sự biết được. Vấn đề là, đâu là dụng ý của Saddam Hussein: đe doạ hay xâm chiếm?
Những điều tra thẳng thắn ngày hôm trước đã được gửi tới cho trụ sở CIA ở Langley, nhưng cơ quan đã kém hiệu quả, quay ra với những phân tích "có thể" trên cơ sở những hình ảnh vệ tinh do Cơ quan do thám Quốc gia cung cấp, cùng sự sôi sục về chính trị đã được biết đến ở Phân khoa Trung Đông của Bộ Ngoại giao.
- Nhẽ ra chúng ta phải có một của chìm. Chẳng nhẽ không có ai cắm trong chế độ Iraq đó sao?
Câu trả lời là một tiếng Không đầy đáng tiếc- Để giải quyết vấn đề này cần đến hàng tháng trời.
Câu trả lời đến trước mười giờ tối, khi tổng thống George Bush đi ngủ và không nghe điện thoại từ Scowcruft nữa. Đó là sau khi hoàng hôn buông xuống theo giờ vùng Vịnh, và các xe tăng Iraq đã đến Jahra, xâm nhập vào những ngoại ô tây bắc Kuwait City.
Đã gần nửa đêm, những người tham dự sau đó nhớ lại. Đã có tám người trong máy video, là đại diện của NSC, của Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, CIA, các phó giám đốc về nhân sự, và Lầu Năm Góc. Một loạt những mệnh lệnh được đưa ra và được gửi đi: Một loạt tương tự cũng đến từ cuộc gặp hội đồng COBRA (Phòng phụ của Cơ quan Tin tức Chính phủ) ở London, tức là cách Washington năm múi giờ nhưng chỉ cách vùng Vịnh có hai giờ.
Cả hai chính phủ đã phong toả mọi tài sản tài chính của Iraq có ở nước ngoài, cũng như (với sự đồng ý của các đại sứ Kuwait ở cả hai thành phô) và các tài sản của Kuwait, do đó mọi chính phủ mới dựng lên làm việc cho Baghdad sẽ không thể mó tay được vào các ngân quỹ. Những quyết định đó đã làm đóng băng hàng tỷ và hàng tỷ đôla dầu mỏ. Tổng thống Bush được đánh thức vào 4 giờ 45 sáng mồng Hai tháng Tám để ký vào các tài liệu. Ở London. Margaret Thatcher, theo dõi vụ việc từ lâu ký các tài liệu của mình trước khi đi lên máy bay sang Mỹ.
Một bước quan trọng nữa là đưa Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đóng ở New York vào việc lên án sự xâm lược và kêu gọi khẩn cấp Iraq rút quân. Điều đó đã được ghi trong văn kiện số 660, được ký vào bốn giờ rưỡi sáng cùng hôm. Vào lúc bình minh khi cuộc hội đàm qua điện đàm kết thúc, và những người dự họp có hai giờ về nhà, tắm rửa, thay quần áo, cạo râu, và quay trở lại Nhà Trắng cho cuộc họp toàn thể vào tám giờ của NSC. do đích thân tổng thống Bush chủ trì.
Những người mới đến ở cuộc họp toàn thể gồm có Richard Cheney của Bộ Quốc phòng. Nicholas Brady của Bộ Tài Chính. và tổng chưởng lý Richard Thornburgh. Bob Kimmitt tiếp tục đại diện cho Bộ Ngoại giao vì bộ trưởng James Baker và thứ trưởng Lawrence Eagleburger cả hai đều đi vắng. Người phụ trách các viên tướng Cohn Powell đã quay trở lại từ Florida, mang theo ông tướng tổng tư lệnh, một người đàn ông to lớn râu rậm sau này sẽ được biết đến nhiều. Norman Schwarzkopf đi bên cạnh tướng Powell khi ông này đi vào phòng họp.
George Bush rời cuộc họp vào lúc 9 giờ 15. khi Ra anh muốn nói đến một cachette phải không. Dĩ nhiên rồi. Anh biết đấy, anh bạn trẻ, nhiều năm trước, khi một người có thể bị gọi ra và bị giết trong một cuộc dấu súng về một vấn đề danh dự, một quý bà có việc gì đó thật là bí mật. Không có điện thoại, không fax. không vi deo vào thời đó. Mọi thứ tư tưởng kỳ dị nhất của người tình bà ta sẽ được viết ra giấy. Thế thì bà ta phải giấu chồng mình như thế nào? Không phải trong một tủ sắt trong tường -  họ không hề có đâu. Cũng không phải trong một cái hộp sắt - chồng bà ta có thể sẽ đòi đưa chìa khóa.
Thế thì những người trong xã hội thời đó cần phải có những loại đồ gỗ có cachette. Không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng có lúc Cần phải làm thật khéo, nếu không sẽ lộ mất.
- Thế làm cách nào người ta có thể biết nếu một thứ đồ như thế... nghĩ đến chuyện mua một cái cachette như thế.
Ôi thế này thì tuyệt quá rồi. Người đàn ông từ Mossad sẽ không đi mua bureau của Riesner, anh ta đang cần phá một cái như thế.
- Anh có muốn nhìn một cái không? Levy hỏi.
Ông ta gọi nhiều cú điện thoại, và một lúc sau họ cùng ra khỏi cửa hàng của ông ta và lên một chiếc xe bus. Đó là một người môi giới khác. Levy trò chuyện một lúc ngắn, người đàn ông gật đầu và để họ lại một mình. Levy đã nói nếu ông ta có thể đảm bảo một vụ mua bán, thì sẽ chỉ mất một khoản phí không đáng kể, và chỉ có thế. Người môi giới tỏ ra hài lòng: vẫn thường là như thế trong thế giới đồ cổ.
Chiếc bàn mà họ xem xét rất giống cái ở Vienna.
- Bây giờ, Levy nói, cái cachette sẽ không rộng lắm đâu,. Nó có thể ở bên ngoài cũng như gắn ở bên trong. Nó sẽ rất mỏng. thẳng đứng hoặc nằm ngang. Có khả năng không rộng hơn hai cm đâu, giấu trong một cái ngăn có vẻ như rất cứng, rộng tới ba cm, nhưng trên thực tế có hai ngăn bằng gỗ với cái cachette nằm ở giữa. Đầu mối là cái nút bấm.
Ông kéo một trong hai ngăn trên cùng ra.
- Đây này. ông ta nói.
Barzilai sờ bằng đầu ngón tay cho đến đáy.
- Vòng quanh xem nào.
- Chẳng có gì cả. viên katsa nói.
- Thế là bởi vì chẳng có gì thật, Levy nói. Không phải ở trong cái ngăn này. Nhưng có thể có một cái nút hoặc lẫy gì đó.
Một cái nút rất mềm. Anh ấn vào đó đi: một cần gạt, anh quay nó đi; nếu là một thanh ngang. Anh hãy dịch chuyển sang hai bên, và xem điều gì xảy ra.
- Cái gì sẽ xảy ra?
Một tiếng động nhẹ, và một mẩu hoa văn bằng ngà thò ra, nhảy lên. Bên dưới đó là cái cachette.
Ngay cả sự tài hoa của người thợ đồ gỗ thế kỷ XVIII cũng có chỗ hạn chế. Trong suốt một giờ đồng hồ, mexừ Levy dạy cho viên katsa về mười chỗ cơ bản cần xem xét cái lẫy bí mật có thể làm mở được cái ngăn đó.
- Đừng bao giờ cố đẩy mạnh quá để tìm. Levy nhấn mạnh vì nó đề lại dấu vết trên gỗ đấy.
Ông ta liếc nhìn Barzilai và mỉm cười. Barzilai thết ông già một bữa trưa thịnh soạn ớ nhà hàng Coupole, rồi đi taxi ra sân bay để quay về Vienna.
Sáng sớm hôm đó, ngày 16 tháng Hai, thiếu tá Zayeed và đội của mình cũng có mặt ở ngôi biệt thự đầu tiên trong số ba biệt thự sẽ bị khám xét. Hai cái khác đã bị niêm phong, với những người án ngữ ở tất cả các lối vào và những người canh gác cẩn mật ở bên trong.
Viên thiếu tá vô cùng lịch sự, nhưng lệnh của anh ta là không thể chống lại. Không giống người của AMAM cách đó một dặm rưỡi tại Qadisiyah, người của Zayeeh là các chuyên gia, rất ít gây ra các thiệt hại trong khi khám nhà, và rất hiệu quả trong việc tìm kiếm của mình.
Bắt đầu từ tầng trệt, tìm kiếm lối vào của một địa điểm bí mật dưới các mái tôn. rồi đi khắp nhà, từng phòng một, từng tủ một, từng hầm một. Khu vườn cũng bị tìm kiếm, nhưng không dấu vết nào được tìm thấy Trước buổi trưa, viên thiếu tá cuối cùng cũng thỏa mãn: xin lỗi những người sống trong đó và rời đi. Anh ta bắt tay vào khám xét ngôi nhà kế bên.
Tại căn phòng dưởi đại bản doanh của AMAM tại Saadun, ông già đang bị treo ngược. cổ tay cổ chân buộc chặt vào một cái bàn gỗ và xung quanh là bốn chuyên gia đang khai thác lời khai. Ngoài những người đó ra, còn có một bác sĩ, và tướng Omar Khatib bàn bạc với trung sĩ Ali ở góc phòng.
Chính người chỉ huy của AMAM đã quyết định danh mục các đòn tra tấn sẽ được thực hiện. Trung sĩ Ali nhướng lông mày; anh ta có thể, anh ta nhận ra, chắc chắn cần đến mọi biện pháp trong ngày hôm nay. Omar Khatib gật đầu đồng tình và đi ra. ông ta có giấy hẹn gặp ở tầng trên.
Ông già tiếp tục van xin nói rằng mìnhy và Maybelle Walker nhờ trời đã lên được máy bay ở đâu đó ở Arập Xêut theo hướng tây bắc để về nhà một cách an toàn. Tống thống đi một chiếc máy bay trực thăng từ vùng phía nam lên cơ sở Không quân Andrews. nơi ông chuyển sang Không lực Một và bay đến Aspen, Colorado. Ông dự định ra lệnh chi tiền cho quốc phòng.
Trên không trung ông có một cuộc nói chuyện dài qua điện thoại với quốc vương Hussein của Jordan, láng giêng yếu thế hơn và bị chìm khuất hơn nhiều của lraq. ông vua Hashemite đang ở Cairo, họp với tổng thống nước này Hosni Mubarak. Hussein van nài nước Mỹ để cho các quốc gia Arập một vài ngày để giải quyết mọi việc không cần đến chiến tranh. Ông đề xuất một cuộc gặp bốn bên, gồm tổng thống Mubarak, ông, và Saddam Hussein và chủ toạ là quốc vương Fahd của Arập Xêut. ông tự tin rằng cuộc gặp như thế có thể thuyết phục lraq rút quân khỏi Kuwait một cách hoà bình. Nhưng ông cần ba, có thể là bốn ngày, và không có một lời kết tội nào công khai chống lại Iraq bởi bất kỳ nước thành viên nào sẽ tham dự cuộc họp.
Tổng thống Bush nói với ông: "Tôi đồng ý, tôi ủng hộ ông". Vị tổng thống không may chưa gặp được bà thủ tướng đến từ London, đang đợi ông ở Aspen. Họ gặp nhau tối hôm đó.
Người đàn bà thép sớm có cảm giác rằng người bạn tốt của mình đã lại bắt đầu dao động. Trong hai giờ bà dồn cho tổng thống đến chân tường.
- Ông ta không thể, chỉ đơn giản là ông ta không thể, được phép thoát ra theo cách đó, George ạ.
Đối mặt với cặp mắt xanh lơ sáng rực và những âm điệu sắc lạnh qua máy điều hoà nhiệt độ, George Bush chấp nhận rằng đó cũng không phải là ý định của nưỏc Mỹ. Những người thân cận của ông sau đó cảm thấy ông ít bị lo lắng bởi Saddam Hussein với pháo binh và xe tăng của ông ta bằng cái túi xách đầy ám ảnh này.
Ngày Ba tháng Tám, nước Mỹ gửi một lá thư điềm đạm cho Ai Cập. Tổng thống Mubarak đã được nhắc lại lực lượng quân sự của ông phụ thuộc vào vũ khí của Mỹ như thế nào, Ai Cập nợ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ thế giới bao nhiêu tiền và sự giúp đỡ của Mỹ có thể giúp đỡ về phương diện này đến đâu. Ngày bốn tháng Tám chính phủ Ai Cập ra một văn bản chính thức lên án cuộc tấn công của Saddam Hussein.
Trong sự thất vọng nhưng không đến nỗi bất ngờ lắm đối với quốc vương Jordan, chính quyền Iraq ngay lập tức tử chối đến cuộc họp Jeddah và ngồi bên cạnh Hosni Mubarak dưới sự chủ toạ của vua Fahd.
Với quốc vương Arập Xêut đó là một sự nhục nhã: trong một cái văn hoá mà những điều kiêu hãnh cần đi đôi với lịch thiệp. Quốc vương Fahd, người có một bộ óc chính trị cao thủ bên cạnh một cá tính tầm thường, không cám thấy thoải mái. Đó là một trong hai yếu tổ làm hỏng cuộc họp Jeddah. Yếu tố còn lại là vị quân vương Xêut đã được xem những bức ảnh của người Mỹ chụp từ vũ trụ cho thấy quân đội Iraq, không hề giảm bước hành quân, mà vẫn còn trong mệnh lệnh quân sự và di chuyển về phía nam đến biên giới Saudi ở những rìa tây của Kuwait.
Liệu Iraq có đủ táo tợn để đến và xâm chiếm cả Arập Xêut không? Thế nghĩa là mở rộng lãnh thổ. Arập Xêut có những giếng dầu lớn nhất thế giới. Đứng tiếp theo là Kuwait, với hơn một trăm năm mươi giếng vào thời điểm mức sản xuất hiện nay. Thứ ba là Iraq. Khi chiếm lấy Kuwait, Saddam Hussein đã làm nghiêng cán cân di. Hơn thế nữa, chín mươi phần trăm các giếng và kho chứa dầu của Xêut bị khoá lại ở góc xa đông bắc của vương quốc, quanh Dhahran, Al-khobar, Dammam, và Jubail, và vùng nội địa từ các cảng đó. Tam giác nằm ở giữa đường tiến quân của các đội Vệ binh Cộng hoà, và những bức ảnh cho thấy nhiều đơn vị nữa đã kéo vào Kuwait.
May mắn thay, ngài ngự không bao giờ phát hiện rằng những bức ảnh đã bị nguỵ tác. Các sư đoàn gần biên giới thì có thật, nhưng những chiếc xe ủi làm chứng cứ thì được vẽ thêm vào.
Ngày Sáu tháng Tám vương quốc Arập Xêut chính thức yêu cầu quân đội Mỹ tiến vào nước mình để bảo vệ. Những chiếc phi cơ chiến đấu đầu tiên của các máy bay thả bom đã rời căn cứ đến Trung Đông vào cùng ngày. Chiến dịch Lá chắn Sa mạc bắt đầu.
Thiếu tướng Hassan Rahmami nhảy ra khỏi chiếc xe của mình và chạy nhanh đến khách sạn Hilton, toà nhà đã nhanh chóng được trưng dụng làm tổng hành dinh của các lực lượng an ninh Iraq trên đất Kuwait bị chiếm đóng. Anh thấy vui, khi đi qua những cánh cửa kính vào buổi sáng mồng Bốn tháng Tám này, vì Hilton nằm ngay bên cạnh Đại sứ quán Mỹ, cả hai đều ven biển với những cảnh sắc ngoạn mục trên
làn nước xanh óng ánh của vịnh A rập. Thế này thì chẳng chóng thì chầy nhân viên toà đại sứ sẽ bị tóm cả thôi – theo lệnh của anh toà nhà đã ngay lập tức bị Vệ binh Cộng hoà bao vây. Tất nhiên không thể ngăn chặn các nhà ngoại giao nước san Rahmani.
- Thế thì có nghĩa nó không nằm ở đó, anh ta nói với chỉ huy Cục Phản gián. Nếu có, chúng tôi đã tìm ra rồi. Thế thì chỉ còn lại ngôi biệt thự thứ tư, của tay ngoại giao đó thôi.
- Anh tin là mình không nhầm chứ? Rahmani hỏi. Cũng có thể là ngôi nhà khác thì sao?
- Không. thưa ngài. Ngôi nhà gần bốn biệt thự nhất nằm bên ngoài khu vực mà chúng tôi định vị được. Nguồn gốc của những lần chuyển tin nhanh đó là nằm ở trong hình viên kim cương này trên bản đồ. Tôi xin thề đấy..
Rahmani lưỡng lự. Các nhà ngoại giao thật là quỷ quái để mà có thể kiểm tra, luôn luôn sân sàng gửi lời phàn nàn lên bộ Ngoại giao. Để vào được trong nhà của đồng chí Kulikov, anh có thể phải lên cấp cao - cao đến mức anh có thể tới được.
Khi viên thiếu tá đã đi, Rahmani gọi điện cho Bộ Ngoại giao. Anh may mắn: Bộ trưởng Ngoại giao, người đã đi liên tục trong mấy tháng nay. đang ở Baghdad. Hơn thế nữa, ông ta đang ngồi ở phòng làm việc của mình. Rahmani có được lời hẹn gặp vào lúc 10 giờ sáng hôm sau.
Viên dược sĩ là một người đáng mến, đã cố gọi điện suốt trong đêm. Ông không liên lạc được với người con trai, nhưng, sử dụng một đầu mối liên lạc trong Quân đội, ông đã chuyển được tin cho đứa con út của người quá cố. Ông không thể trực tiếp nói chuyện với anh ta, nhưng bên Quân đội sẽ chuyển tin đó hộ ông.
Thông tin đến được với người con trai út tại căn cứ của anh rất xa Baghdad vào bình minh. Ngay khi nghe tin, viên sĩ quan đã lên ôtô lái xe trở về. Thường thì anh chỉ mất không đầy hai giờ lái xe. Nhưng lần này, ngày 17 tháng Hai, anh mất tới sáu tiếng. Có đầy các đội tuần tra và chốt giao thông. Với cấp bậc của mình, anh ta được phép lái xe lên đầu hàng, không phải xếp hàng, và được vẩy tay cho qua.
Điều này không thể làm được với các cây cầu gẫy. Tại tất cả cầu anh phải dừng xe đợi phà. Mãi đến giữa trưa anh ta mới về được đến căn nhà của bố mẹ anh ở Qadisiyah. Mẹ anh chạy ra ôm chầm lấy anh và kêu gào trên vai anh. Anh cố hiểu được các chi tiết chính xác những việc đã xảy ra, nhưng bà không còn trẻ nữa và đã bị lên cơn động kinh. Cuối cùng, anh phải bế bà lên và đưa bà về phòng. Trong sự hỗn loạn những dấu vết nhà binh để lại mọi nơi trên sàn nhà tắm, anh ta tìm thấy một cái chai thuốc ngủ bố anh đã sử dụng khi mùa đông lạnh đưa mua ở hiệu thuốc. Anh đưa cho mẹ hai viên, và bà nhanh chóng thiếp đi.
Trong bếp anh ra lệnh cho ông già Talat pha cà phê cho cả hai người, và họ ngồi vào bàn trong khi người hầu miêu tả điều đã xảy ra kể từ bình minh ngày hôm trước. Khi ông ta dừng lại, ông chỉ cho cậu chủ cái hố trong vườn nơi bọn lính đã tìm thấy cái gói với bộ đồ điện đàm. Chàng thanh niên khám xét bờ tường và phát hiện những dấu vết mà kẻ đột nhập đã để lại trong đêm để lẻn vào chôn nó. Rồi anh ta trở lại ngôi nhà.
Hassan Rahmani phải ngồi đợi, điều mà anh không thích, nhưng anh có cuộc hẹn gặp với Bộ trưởng Ngoại giao, Tariq Aziz, ngay trước 11 giờ.
- Tôi không nghĩ hiểu rõ điều anh nói lắm. vị bộ trưởng tóc màu ghi nói, nhìn một cách thông minh qua cặp kính. Các đại sứ quán được phép liên lạc với thủ đô của họ qua radio, và những lần phát sóng của họ luôn được mã hóa.
- Phải, thưa Bộ trưởng, và chúng đến từ tòa nhà đại sứ quán. Đó là một phần trong công tác ngoại giao. Nhưng đây thì khác. Chúng ta đang nói về một máy phát bí ẩn, được các gián điệp sử dụng, gửi đi các thông tin cực ngắn cho một máy phát mà chúng tôi tin là không phải ở Matxcơva mà ở gần hơn nhiều.
- Những lần phát cực ngắn? Aziz hỏi.
Rahmani giải thích đó là cái gì.
- Tôi vẫn không thể theo kịp anh dược. Thế tại sao một nhân viên KGB nào đó - và hẳn đây là một chiến dịch của KGB - lại gửi đi những thông điệp cực ngắn từ nhà của Bí thư thứ nhất trong khi họ có quyền tuyệt đối được gửi chúng từ những máy phát mạnh hơn nhiều từ đại sứ quán?
- Điều này thì tôi không biết.
- Thế thì anh phải cho tôi những lời giải thích tốt hơn mới được, thưa tướng quân. Thế anh có ý tưởng nào về những việc đang xảy ra ở bên ngoài văn phòng của anh không? Chẳng nhẽ anh không biết rằng hôm qua mãi muộn tôi mới từ Matxcơva về sau những lần thảo luận căng thẳng với ngài Gorbachev và đại diện Yevgeny Primacov của ông ta, người đã ở đây vào tuần trước? Anh không biết rằng tôi đã mang theo mình một đề nghị
hòa bình mà, nếu Rais chấp nhận - và tôi sẽ trình lên ông trong hai giờ nữa - có thể khiến Liên Xô phản đối trong Hội đồng Bảo an và chặn Mỹ tấn công chúng ta sao? Và trước tất cả những việc đó, vào chính lúc này, anh lại bảo tôi làm nhục Liên Xô bằng cách cho lục soát biệt thự của Bí thư thứ nhất của họ? Thẳng thắn mà nói, thưa tướng quân, anh có lẽ bị điên rồi đó.
Cuộc nói chuyện đã kết thúc như vậy. Hassan Rahmani rời Bộ cảm thấy đã tuyệt vọng. Dù sao, cũng có một điều mà Tariq Aziz không cấm. Trong những bức tường của ngôi nhà, Kulikov có thể là bất khả xâm phạm. Trong xe anh ta có thể là không thể chạm tới. Nhưng đường phố thì không thuộc về Kulikov.
- Tôi muốn nó phải đầu hàng, Rahmani nói với đội theo dõi giỏi nhất của mình khi quay trở về văn phòng. Hãy yên lặng, kín đáo, chậm rãi thôi. Nhưng tôi muốn phải theo dõi sát sao tòa nhà đó. Mọi người khách đến và đi - và sẽ phải có khách khứa đấy - tôi muốn các anh phải theo đuôi họ.
Vào buổi trưa. các đội theo dõi đã vào vị trí. Họ ngồi trong những chiếc ôtô đậu dưới những tán cây phủ lên bốn bức tường của ngôi nhà của Kulikov và theo dõi cả hai đầu của con đường duy nhất dẫn đến đó. Những người khác, đứng xa hơn nhưng có liên lạc bằng điện đàm, có thể báo cáo về mọi sự đến gần và có thể đi theo bất kỳ ai ra khỏi nhà.
Người con út ngồi trong phòng ăn của ngôi nhà bố mẹ mình và nhìn vào cái bao tải lớn có chứa bố mình. Những dòng lệ chảy dài trên mặt và rơi xuống bộ quân phục anh ta đang mang. Anh nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ngày xưa. Bố anh là một bác sĩ giàu có vào thời đó, với một phòng khám lớn, thậm chí còn khám bệnh cho một số gia đình người Anh sau khi được giới thiệu đến cho họ bởi người bạn Nigel Martin.
Anh ta nghĩ về khoảng thời gian cùng anh trai mình chơi đùa trong sân nhà Martin với Mike và Terry, và anh ta tự hỏi không biết điều gì đã xảy đến với họ vào lúc này.
Sau một giờ anh ta nhận thấy mùi từ cái túi đã nặng lên. Anh ta đứng lên và đi ra cửa.
- Talat.
- Thưa cậu chủ?
- Mang kéo và một cái dao lại đây.
Còn lại một mình trong phòng, đại tá Osman Badri mở phanh cái túi ra, từ trên miệng dọc sang bên và dọc đến đáy. Rồi anh kéo đầu cái túi ra và quay nó vào. Xác của bố anh gần như trần truồng.
Theo truyền thống, đó là công việc của phụ nữ, nhưng mẹ anh không thể làm gì được vào lúc này. Anh bảo mang đến nước và bông băng, tắm rửa lau chùi cho cái xác tơi tả, lắp lại cái chân gẫy, duỗi thẳng nó ra và phủ hoa lên. Trong khi làm việc, anh khóc, và trong khi khóc, anh thay đổi.
Vào hoàng hôn anh gọi cho Imam ở nghĩa trang Alwazia ở Risafa và thỏa thuận cho một đám tang vào sáng ngày hôm sau.
Mike Martin trên thực tế đã đi vào trong thành phố trên chiếc xe đạp của mình vào buổi sáng chủ nhật, ngày 17 tháng Hai đó, nhưng anh đã quay về sau khi mua xong rau quả và kiểm tra ba bức tường xem có dấu phấn nào không, trở về đến ngôi biệt thự đúng trước buổi trưa. Trong buổi chiều anh rất bận rộn chăm sóc khu vườn. Ông Kulikov, trong khi không người Công giáo cũng như đạo Hồi nào kỷ niệm dù là ngày lễ thánh Hồi giáo vào thứ Sáu hay ngày lễ Sabbath của người Công giáo vào Chủ nhật, vẫn ở nhà với vẻ lạnh lùng, phàn nàn về tình trạng những bông hoa hồng của mình.
Trong khi Martin làm việc với những khóm hoa hồng, các đội theo dõi của Mukhabarat đã kín đáo nhìn vào trong qua bức tường. Anh lập luận rằng Jericho sẽ không có tin tức gì mới trong ít nhất hai ngày nữa; Martin sẽ có thể đi kiểm tra những dấu phấn lại vào tối ngày hôm sau.
Đám tang của tiến sĩ Badri diễn ra ở Alwazia rất ngắn sau 9 giờ. Các nghĩa trang của Baghdad rất bận rộn trong thời gian đó, và Imam phải có nhiều việc phải làm. Chỉ vài ngày trước, Mỹ đã ném bom một hầm trú ẩn công cộng, làm hơn 300 người chết. Nỗi buồn thương dâng cao. Nhiều người khóc lóc ở đám tang bên cạnh đều tưởng viên đại tá có người thân chết vì những quả bom của quân Mỹ. Anh trả lời ngắn gọn bố mình chết vì những lý do tự nhiên.
Theo phong tục đạo Hồi, tang lễ thường diễn ra nhanh chóng, không mất thời gian chờ đợi giữa khi chết và khi chôn xuống đất. Và cũng không có quan tài gỗ như ở người Công giáo; xác chết được quấn trong vải. Viên dược sĩ tới, giúp đỡ bà Badri, và họ đi về thành nhóm khi nghĩa trang nhỏ bé đã đông người.
Đại tá Badri chỉ cách vài yard từ cửa Alwazia khi anh nghe gọi tên mình. Đứng cách anh vài bước chân là một chiếc limousin với cửa sổ màu đen. Một cửa sổ ở băng ghế sau đang mở. Lại có tiếng gọi tên anh. Đại tá Badri bảo viên dược sĩ đưa mẹ mình về nhà ở Qadisiyah; anh sẽ quay về gặp họ sau. Khi họ đã đi, anh bước tới chiếc ôtô.
Giọng nói vang lên: "Lên đây nào, đại tá. Chúng ta cần nói chuyện&quve;i. Saddam có thể dựa vào sự ưu tiên Arập để giữ liên lạc cho đến khi địa ngục qua đi.
Phương Tây, với sự chú ngày càng tăng trong vài tuần, có thể chán và bỏ việc đó lại cho bốn người Arập - hai ông vua và hai vị tổng thống - và cho đến chừng nào mà dầu vẫn còn tạo ra thứ khói làm họ bị sốc, những người Anglo-saxon có thể vẫn thoải mái được. Trừ phi Kuwait bị đối xử tàn ngược một cách hung tợn, các phương tiện truyền thông có thể đưa tin, chế độ Al Sabah có thể bị quên lãng trong sự lưu vong đâu đó ở Arập Xêut, người Kuwait có thể lấy lại cuộc sống của mình dưới một chính phủ mới, và cuộc họp  về vấn đề rời khỏi Kuwait sẽ có thể cân nhắc từ ngữ cho một thập kỷ cho đến khi nó chẳng là vấn đề gì nữa cả.
Điều đó có thể được thực hiện, nhưng nó cần đến tác động đúng đắn. Tác động của Hitler - "Tôi chỉ tìm kiếm một sự giải quyết hoà bình cho những đời hỏi đúng đắn của mình. Đó sẽ là tham vọng về lãnh thổ cuối cùng của tôi." Vua Fahd có thể thất bại trong việc đó - dù sao cũng không ai có chút yêu mến gì đối với người Kuwait, không kể những kẻ ăn sen Al Sabah. Vua Fahd và vua Hussein có thể chia cắt đất nước này, như Chamberlain đã chia nước Séc vào năm 1938. 
Một cách nào đó, Hassan Rahmani lý luận, Rais có thể đi sai; ông ta không thể bỏ qua cũng không thể tiếp tục, nắm giữ đất dầu của người Xêut, và đưa ra cho thế giới phương Tây thấy một sự đã rồi mà họ không thể làm gì khác ngoài việc chấp nhận phá huỷ dầu mỏ và quyền lợi của chinh họ trong một thế hệ. "Phương Tây" có nghĩa là người Mỹ, người Anh ớ phía họ, và họ đều là Anglo-Saxon. Anh biết về người Anglo-Saxon.
Năm năm ở trường dự bị Tasisiya của ông Hartley đã dạy anh tiếng Anh một cách hoàn hảo, sự hiểu biết của anh về Anh, và sự thức nhận về thói quen người Anglo-Saxon trong việc đưa cho bạn một quả đấm chí mạng vào quai hàm không một lời báo trước. Anh xoa cằm nơi đã nhận một quả đấm nhiều năm trước đây và cười phá lên. Cậu cần vụ của anh đi rón rén vào phòng. Mike Martin quỷ quái, giờ cậu ở đâu?
Hassan Rahmani - thông minh, có học thức, quảng giao, có giáo dục, và lịch thiệp. Trong số 1,8 triệu người ở Kuwait tháng Tám này, chỉ 600.000 người là người Kuwait. Còn có thêm 600.000 người Palestine, một số trong đó có thể trung thành với nước Kuwait, một số trong đó có thể đứng về phía Iraq bởi vì PLO dã làm như thế, và phần lớn trong số họ sẽ không làm gì cả chỉ cố làm sao để sống sót được. Rồi lại có thêm 300.000 người Ai Cập, một số không nghi ngờ gì nữa đang làm việc cho Cairo, giờ đây thì cũng có khác gì làm việc cho Washington hay London, và 250.000 người Pakistan, người Ấn Độ. người Bangladesk và Philippin, chủ yếu là lao động bậc thấp hay phục vụ trong nhà - là một người Iraq, anh tin rằng người Kuwait không thể nào làm được việc gì mà không phải mượn đến bàn tay của người nước ngoài.  Và sau đó có thêm 50.000 người công dân của Thế giới Thứ nhất - Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Đan Mạch. Và anh cho rằng sẽ phải đối mặt với gián điệp nước ngoài... Là chỉ huy bộ phận phản gián, anh có thể cho đóng cửa biên giới và cắt các đường dây điện thoại. Nhưng giờ đây bất cứ một cái vệ tinh dở hơi nào cũng có thể phun các số liệu vào một điện thoại di động hay một cái modem máy tính và với đến tận California. Khó mà có thể cắt đứt hoặc theo dõi nguồn, trừ phi có thiết bị cực tốt, mà anh thì không có.
Anh biết mình không thể kiểm soát đường ra của các thông tin hay mạng lưới lằng nhằng của những người tị nạn do thám qua biên giới. Anh cũng không thể gây tác động nào tới các vệ tinh Mỹ bay tít trên trời cao, mà anh ngờ rằng giờ đây đã được lập chương trình để bay quỹ đạo quanh Kuwait và Iraq trong mỗi phút. Chẳng ích gì chú tâm vào cái không thể. Mục tiêu chính là ngăn chặn sự phá hoại chủ động, sự tấn công giết người lraq thực tế đang diễn ra và phá hoại những thiết bị của họ: và sự tạo thành của một phong trào kháng chiến. Và anh có thể phải ngăn chặn những giúp đỡ từ bên ngoài, theo hình thức người, kỹ nghệ, hay thiết bị, để có thê hình thành bất kỳ loại phản kháng nào.
Trong đó anh có thể vượt lên trước các đối thủ của mình ở AMAM, cảnh sát mật, những người đóng ở trên anh hai tầng gác. Sáng nay anh được biết Khatib đã đặt Sabaawi, làm chỉ huy AMAM ở Kuwait. Nếu những người Kuwait kháng chiến rơi vào tay mấy lão này, họ có thể phải học cách gào to như là những kẻ ly khai ở trong nước. Đó là sự tóm tắt ngắn gọn của anh.
Sáng hôm đó, tiến sĩ Terry Martin kết thúc bài giảng của mình tại trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi, một trường thuộc hệ thống đại học tổng hợp London ở phố Gower. vào buổi trưa và về nghỉ ở phòng nghỉ chung của nhân viên. Bên ngoài phòng mình, anh va phải Mabel, thư ký cùng với hai giảng viên cao cấp khác về các nghiên cứu Arập.
- Ồ, tiến sĩ Martin, có một bức tin cho ông đây. Cô lục tìm trong cái cặp to đùng của mình, đeo lùng thùng xuống tận đầu gối mặc juýp ngắn của mình, và chìa ra một mẩu giấy
- Ông này gọi cho ông đấy. Ông ấy nói ông hãy gọi khẩn cấp cho ông ấy.
Trong phòng chung, Martin đắm chìm trong những ghi chép bài giảng về Abassid Caliphate rồi gọi một cú điện thoại bằng máy treo trên tường. Có người trả lời khi chuông reo lần thứ hai, và một giọng nữ trong trẻo nhắc lại số điện thoại. Không có tên công ty, chỉ có số điện thoại.
- Ông Stephen Laing có ở đó không? Martin hỏi.
- Tôi có thể biết ai đang gọi không ạ?
- Ờ... tiến sĩ Martin. Terry Martin. Ông ấy đã gọi cho tôi.
- À phải, tiến sĩ Martin. ông chờ máy nhé.
Martin nhăn trán. Cô ta biết về cuộc gọi, biết tên anh. Trong đời mình, anh chưa từng nhớ ra cái tên Stephen Laing nào hết cả.
Một người đến máy điện thoại: Stephen Laing đây. Chà, thật là rất tuyệt vì ông gọi lại sớm thế. Tôi biết đó quả là một lời nhắn quá ngắn ngủi, nhưng trước chúng ta đã từng gặp nhau ở Viện Nghiên cứu chiến lược. Ngay sau khi ông đọc bài diễn văn tuyệt vời về hệ thống tiến hành chiến tranh của lraq. ông đã có dự định gì cho trưa nay chưa?
Laing, dù là ai đi nữa: đã tỏ ra rất độc đáọ và thuyết phục.
- Hôm nay? Bây giờ luôn à?
- Trừ khi ông đã có việc gì dự định trước. -ông nhớ đến chuvện gì nào?
- Ăn xăng uých ở căng tin. Martin nói.
- Liệu tôi có thể mời ông một bữa ở nhà hàng Scott's được không? ông biết nó mà, dĩ nhiên. Phố Mount.
Martin biết có biết nhà hàng đó, một trong số những tiệm hải sản ngon nhất và đắt nhất London. Cách đây hai mươi phút xe điện. Mới mười hai giờ rưỡi. Và anh thích ăn đồ biển. Và Scott's thì lại ở ngoài tầm của lương giáo sư. Phải chăng chẳng maỵ mà Laing biết được những điều đó?
- Ông hiện có làm cho ISS không? anh hỏi.
- Hãy giải thích trong bữa trưa, thưa tiến sĩ. Một giờ nhé. Ông nhớ nhé. Điện thoại dập xuống.
Khi Martin đi vào nhà hàng, người hầu bàn chính đi về phía anh và chào anh.
- Tiến sĩ Martin đấy phải không ạ? ông Laing đang đợi ông ở bàn. Xin hãy đi theo tôi.
Đó là một cái bàn yên tĩnh ở một góc phòng, rất kín đáo. Có thể nói chuyện mà không lo bị nghe thấy. Laing, người mà cho đến giờ Martin vẫn chắc là chưa bao giờ gặp, đứng dậy để chào anh, là một người đàn ông xương xương trong bộ comple đen và ca vát màu sẫm cùng bộ tóc xám dầy. Ông ta chỉ cho ông và cúi xuống nhìn một chai Meursault hảo hạng đã có trên khay đá Martin lúc lắc người.
- Ông không hề ở Viện. phải không hả ông Laing?
Laing không dễ bị bắt nọn, ông ta nhìn vào chai rượu lạnh và người hầu bàn đi xa, bỏ lại cho mỗi người một bản thực đơn. Ông ta nâng cốc với người khách của mình.
- Nhà Thế kỷ, dĩ nhiên rồi. Điều đó có làm ông phiền không?
Sở Phản gián bí mật Anh làm việc ở Nhà Thế kỷ, một toà nhà khá kín đáo ở bờ nam sông Thames giữa Elephant và Castle và phố Old Kent. Đó không phải là một toà nhà mới và không có vẻ hợp với công việc bên trong, nó có cấu trúc rối rắm đến nỗi không cần thiết phải kiểm tra giấy ra vào của khách; trong vài giây, họ sẽ lạc đường và phải kêu cứu.
- Không, chỉ thấy thú vị thôi, Martin nới.
Trong vòng năm năm vừa qua, mặc dù mới chỉ ba mươi nhăm tuổi, còn rất trẻ nhưng tiến sĩ Martin đã dần được đặt hàng phát biểu giới thiệu những tài liệu khó nhằn của các cơ quan như là Viện Nghiên cứu Chiến lược (ISS). Viện United Services, và cho cơ quan nghiên cứu về ngoại giao, Chatham House. Survival là tờ tạp chí của ISS, và mỗi số hai mươi nhăm bài viết tự động được chuyển đến cho Cơ quan nước ngoài và Khối thịnh vượng chung ở phố King Charles, ở đó nãm bài được lọc để chuyển cho Nhà Thế kỷ.
Lợi ích của Terry Martin đối với những người này là không nằm ở sự hiểu biết tuyệt vời mang tính kinh viện của anh về Lưỡng Hà trung cổ, mà là ở điểm thứ hai mà anh có. Là một quan tâm cá nhân, từ nhiều năm nay anh đã bắt đầu nghiên cứu các lực lượng quân đội của Trung Đông, quan tâm đến các triển lãm quốc phòng và quan hệ thân mật được vun trồng giữa những nhà sản xuất và các khách hàng người Arập, nơi tiếng Arập thành thục của mình khiến anh có được nhiều mối quan hệ. Sau mười năm anh đă trở thành bách khoa toàn thư về chủ đề tay trái này và luôn được các chuyên gia hàng đầu kính trọng lắng nghe, rất giốngất Anh gửi một sản phẩm đến SIS theo lời đề nghị của họ, Nhà Thế kỷ đã chuyển ngay nó sang cho Tel Aviv. Mossad nghiên cứu nó, phá được nó, rồi chuyển về London với nhận xét chắc chắn". SIS bèn bỏ nó.
Lần tới một công ty khoá của Anh đã làm ra được một loại khoá mới rất ưu việt, Nhà Thế kỷ đã đề nghị họ mang về, giữ lấy nó, nhưng cung cấp một cái khác dễ dàng hơn cho các nhà phân tích. Cái dễ hơn đó được chuyển sang Tel Aviv. Tại đó nó được nghiên cứu và cuối cùng bị phá, rồi được chuyển về London với nhận xét "không thể phá được". SIS bèn khuyên nhà sản xuất tung khoá ra thị trường.
Điều này dẫn đến một vụ khá rắc rối một năm sau đó, khi một người phá khoá của Mossad mất nhiều giờ toát mồ hôi và tức điên lên khi làm việc với một cái khoá như thế trong hành lang một toà nhà văn phòng tại một thủ đô châu Âu trước khi phải rời đi trong cơn tức giận. Kể từ đó, người Anh tự kiểm tra lấy khoá của mình và buộc Mossad phải tự mầy mò.
Chuyên gia phá khoá mang theo từ Tel Aviv không phải là người giỏi nhất ở Israel mà là người giỏi thứ hai. Nguyên nhân cho việc này: anh ta có một số phẩm chất mà người giỏi nhất không có.
Trong đêm chàng thanh niên đã nghiên cứu một báo cáo dài sáu giờ từ Gidi Barzilai về chủ đề sản phẩm thế kỷ XVIII của nhà sản xuất đồ gỗ Đức-Pháp, Riesener, và một miêu tả đầy đủ của kẻ chỉ điểm về cấu tạo của toà nhà Winkler. Đội theo dõi yarid hoàn tất việc truyền đạt thông tin với việc thông báo các chuyển động của người gác đêm, được quan sát nhiều lần và nhiều địa điểm về ánh sáng ở bên trong cũng như bên ngoài ngân hàng trong đêm.
Cũng trong ngày thứ Hai đó. Mike Martin đợi cho đến năm giờ chiều trước khi đạp chiếc xe cà khổ của mình qua cái sân lát gạch đến cửa sau của khu vườn Kulikov, mở cửa, và đi ra.
Anh lên xe và bắt đầu xuôi phố theo hướng lối sang sông gần nhất, tại nơi nơi cầu Jumhuriya từng đứng trước khi những chiếc Tornado chú ý đến nó. Anh quay sang góc, ngoài tầm nhìn của biệt thự, và nhìn thấy chiếc ôtô đầu tiên. Rồi chiếc thứ hai, đỗ xa hơn. Khi hai người đi ra từ chiếc xe thứ hai và ra đứng giữa đường, dạ dày anh bắt đầu thắt lại. Anh cả gan ném một cái liếc nhìn về phía sau, hai người đàn ông từ chiếc xe kia đã phong toả mọi lối ra.
Biết mọi chuyện đã lộ, anh đạp xe đi. Không còn việc gì khác để làm nữa rồi. Một trong những người đàn ông đứng trước mặt anh chỉ sang vệ đường.
- Này anh kia, hắn ta kêu lên. Lại đây.
Anh dừng lại dưới các tán cây ven đường. Ba người đàn ông khác hiện ra, toàn là lính. Súng của họ chĩa thẳng vào anh. Anh chầm chậm giơ hai tay lên.