Chương 2

Cha Hòa làm tài xế xe vận tải. Ông luôn luôn khoe với mọi người rằng trong đời cầm tay bánh của ông, ông chưa hề cán chết một con chó hay một con gà. Ông hết sức cẩn thận. Quả vậy, ông là tài xế giỏi được chủ xe rất mực quí mến, tin dùng. Ông cưng dưỡng cái xe không khác chi các con ông. Mẹ Hòa thường nửa đùa nửa thật nói rằng không biết con ông với cái xe, ông quí cái nào hơn. Cha Hòa cười xoà, vui vẻ:
- Làm sao lại thương cái xe hơn con mình được, nhưng mà chủ người ta đã tin mình, giao xe cho mình, mình phải giữ gìn cẩn thận, khỏi phụ lòng tin cẩn của người ta.
Dạo trước xe chạy đường Lục Tỉnh. Mỗi lần về đến nhà, người đầy bụi bặm, mệt phờ, song ông vẫn lục xách tay lôi quà ra cho vợ con rồi mới chịu nằm nghỉ trên cái võng trước hiên.
Cha Hòa mua nhiều thứ: chuối khô, cam, ổi, ốc, cua, bánh phồng tôm v.v… thổ sản địa phương có gì, ông mua về thứ ấy. Nằm nghỉ một lát, ông ngồi dậy, ra săm soi cái xe cả đỗi nữa rồi mới đi tắm. Có khi ông rửa xe, có khi chỉ lau qua trước khi đi tắm. Tắm xong, lại lên võng nằm ngâm nga mấy đoạn thơ Lục Vân Tiên:
- Khoan khoan ngồi đó chớ ra.
Đó là phận gái đây (ta) là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai?
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Ông ngừng lại đột ngột, rồi tấm tắc khen:
- Đời xưa có khác, người ta giữ gìn ý tứ như vậy thiệt là hay! Tao ưa như vậy! Đúng là (lại ngâm):
Trai thời trung hiếu làm đầu.
Gái thời tiết hạnh là câu trao mình…
Hòa với chị Mai cười khúc khích. Nghe tiếng con cười, người cha chợt nhớ ra quà mình mua về chưa được các con thưởng thức, liền thôi ngâm, giục vợ:
- Mẹ nó coi luộc ốc cho trẻ ăn đi!
Hay:
- Mẹ nó chiên bánh phồng tôm cho trẻ ăn đi!
Mẹ Hoà không ngừng tay làm việc, bà đang nấu cơm hay giặt gịa chi đó, bà nói vọng lên:
- Ông làm như tụi con ông chết đói tới nơi rồi vậy. Đi đâu mà lật đật? Ăn uống phải có giờ giấc, chừng mực chớ. Gần tới bữa ăn rồi…
Cha Hòa ngắt lời vợ:
- Biết rồi, người ta có nói chưa tới giờ cơm đâu? Mà người ta muốn cho con người ta ăn trước mặt người ta, ăn liền cho nó mát con mắt một chút, có sao không?
- Chẳng có sao hết, trước mặt hay sau lưng gì rồi cũng là ăn, hối hả cái gì? Ông sợ tôi đem bán, không cho tụi nó ăn chắc?
- Ai sợ? Người ta đã nói người ta muốn nhìn con người ta ăn… đàn bà lắm chuyện.
Thật vậy, cha Hòa có thói quen thích nhìn con ăn. Ông nói rằng nhìn các con ăn, ông ngon mắt lắm, muốn no luôn! Hễ trong túi rủng rỉnh chút tiền là ông lén vợ chở con đi ăn tiệm liền. Lén, nhưng rồi chỉ một buổi, chậm lắm là một ngày sau, chuyện đổ bể ra. Mẹ Hòa không bằng lòng, bà nói:
- Cha con muốn ăn gì, nói, rồi người ta mua làm cho mà ăn, ăn tiệm tốn tiền, mắc mà không ngon.
Mai cũng theo phe mẹ, chê ăn tiệm. Chỉ Hòa với em Bé theo phe cha. Rốt cuộc, ông chê đàn bà con gái hà tiện, ưng khổ thân, không biết chuyện!
Không biết chuyện? Đó là ba tiếng ông năng dùng để chỉ những ai mà ông có ý chê. Hà tiện, xấu bụng, gian giảo, ích kỷ v.v… đều là không biết chuyện tất!
Từ khi xe chạy ra Trung, ông hay vắng nhà hơn trước. Chừng như để bù vào chỗ thiếu sót đó, mỗi bận về ông đem cho vợ con nhiều quà quí giá hơn: tơ tằm tận Quảng Nam, võng gai ngoài Bình Định, mạch nha của Quảng Ngãi, mực khô ở Nha Trang, nón bài thơ xứ Huế… và ông ở nhà nghỉ cũng lâu hơn. Nhà vui như Tết!
Theo lời mẹ kể thì Hòa được biết cha mình vốn quê ở miền Trung. Ông bà nội hiếm hoi sinh có mình ông thôi. Nhà có nhiều ruộng đất, nhưng cha Hòa không ra tỉnh học, cha Hòa được học qua quít chữ quốc ngữ ở trường làng, còn chữ nho thì nhiều hơn, ông bà nội rước thầy về dạy trong nhà. Không phải ông bà nội hà tiện, mà ông bà nói rằng chữ thánh hiền tốt hơn chữ tụi tây u. Mà cần gì phải học nhiều? Học, theo quan niệm của ông bà, là để biết đạo làm người, xử thế, chớ không phải để kiếm cơm, hay làm quan.
Nối nghiệp nhà, cha Hòa cũng làm ruộng như ông nội. Nhưng phong trào Kháng chiến với những lời kêu gọi đầu tiên vừa hùng hồn vừa thống thiết làm xúc động sâu xa tâm hồn người thanh niên con một, quê mùa và chất phác kia. Người thanh niên hiền lành ấy nhất định ra đi trong sự bằng lòng của cha và rất nhiều nước mắt của mẹ. Anh buông cày, cầm súng, tham dự nhiều trận giao tranh một cách hăng say, tin tưởng. Anh không phải là người được nhồi nhét nhiều kiến thức mới như thanh niên thành phố, anh không quan tâm đến những danh từ lớn. Lòng yêu nước trong anh được bộc lộ một cách tự nhiên, giản dị nhưng không kém nồng nhiệt khi được thức tỉnh, kêu gọi đúng lúc.
Đó là lòng yêu nước của một nông dân, bắt nguồn từ luống cày, bó mạ, từ đồng lúa, vườn rau.
Họ là những kẻ thực thà, nhút nhát, không hề tính toán đến những điều khác lạ, cao xa, người ta có thể cho rằng suốt đời họ không bao giờ rời được lũy tre, đồng ruộng, nhưng bỗng chốc, cảm thấy mình cần phải chiến đấu, thế là họ lăn mình vào chiến đấu. Giản dị thế thôi.
Thỉnh thoảng, cha Hòa ghé về thăm nhà, lại thấy cha vui và mẹ khóc. Tuy chưa biết ai nhiều bằng mẹ anh, anh cũng kết luận rằng “đàn bà rất nhiều nước mắt.”
Cuộc Kháng chiến kéo dài, dài hơn anh tưởng, nó kéo anh đi xa lắc, hết còn dịp nào trở về thăm cha mẹ như buổi ban đầu.
Chính quyền thân Pháp tại địa phương được tái lập và họ kết tội cha mẹ anh, tịch thu hết gia sản, ruộng vườn. Ông bà già quá rồi, không chịu đựng được nỗi thảm nhục và cũng không còn sức lực để lao tác nuôi thân. Nhiều người thương xót nhưng không dám giúp đỡ và sau cùng, song thân anh lần lượt nằm xuống, không có mặt người con trai độc nhất theo sau linh cữu cũng như vuốt mặt cho, hai điều mà họ hết lòng ao ước.
Hay tin dữ, cha Hòa khóc lặng. Từng đêm, từng đêm dài anh băn khoăn tự hỏi mình: “Yêu nước là một tội ư? Mà tội lây đến cả mẹ cha ư?” và anh không thể nào tìm được câu giải đáp. Sự việc xảy ra trên sức tưởng tượng của anh. Cha Hòa không mấy tiếc những đất ruộng nay thuộc về tay kẻ khác mà anh xót đau cho cha mẹ, xót đau dai dẳng không nguôi.
Nếu ngay lúc đó mà anh được trở về thì anh sẽ chĩa mũi súng vào ngực kẻ đã làm tan nát gia đình anh rồi nhắm mắt bóp cò, rồi anh mở mắt ra nhìn kẻ ấy quằn quại trên vũng máu mới hả lòng căm tức. Anh sẽ không biết thương hại là gì đâu, trời ạ! Nhưng anh không về được, phải nén lòng chờ. “Ta sẽ về! Ta sẽ về, tụi bây phải đền tội, rồi coi!” Anh hậm hực giơ quả đấm về phía trước, thì thào trong bóng tối.
Song, than ôi! Đó chỉ là lời dọa suông thôi. Kể từ sau gia biến, anh không bao giờ còn được trở lại gia hương.
Trong một trận giao tranh, anh bị thương, bị bắt, bị giam giữ suốt hai năm ròng. Khi được thả ra, anh lạc lõng giữa một đô thị xa lạ và xa hoa đáng sợ: Sài Gòn! Sài Gòn mà từ thuở bé anh chỉ nghe thoang thoáng như một địa danh xa lạ, không ngờ rằng có ngày mình lại có mặt ở đây. Một thân đau ốm, quanh mình không một ai là thân thuộc họ hàng.
May sao, anh gặp ông ngoại của Hòa. Trong con mắt ông thì cha Hòa là hình ảnh của người con trai ông, người con trai đã bỏ xác vì yêu nước năm nào.
Ông đưa anh về nhà, tận tình thuốc men chạy chữa. Mỗi lần nhìn cha Hòa, ông lại mang máng nhớ đến cánh thư cuối cùng của con trai ông, anh viết rằng: “…Cha hãy coi như không có con, như con không còn trên đời nữa, vì con không biết chắc có ngày về không. Nếu con được trở về thì vui, còn không thì em con sẽ thay con mà phụng dưỡng cha. Con cam tội bất hiếu. Trên đời này có những mối tình lớn, những nghĩa vụ lớn hơn tình nghĩa gia đình. Con không thể nào một mình hoàn tất cùng một lượt nhiều nghĩa vụ. Con mong cha hiểu mà tha tội cho…”
Không! Ông không thể hiểu và cũng chẳng cần tìm hiểu. Ông cảm thấy rằng ông sắp mất con ông, đứa con trai ông chắt chiu từ khi còn tấm bé, một mình ông còm cọm gà trống nuôi hai con – nhưng mẹ Hòa là gái rồi sẽ theo chồng -- từ khi mẹ chúng nằm yên vào lòng đất. Ông không nuôi con cho nước. Tại sao đến lúc con ông trưởng thành thì nước lại cướp mất con ông? Mặc con ông nói gì thì nói, ông không cần biết, ông chỉ biết một điều ghê gớm: ông sắp mất nó, thế thôi!
Quả như ông nơm nớp lo sợ: đó là cánh thư chót mà người con ông có thể gửi về. Sau đó, ông không nhận được chữ nào. Ông nhớ con quay quắt thiết tha nhưng ông ngụy trang lòng nhớ thương sâu đậm đó, phủ nhận niềm mất mát lớn lao đó bằng cách không bao giờ giở cánh thư cũ ra đọc lại, cũng không bao giờ nhắc đến tên con. Nào nó có thương ông mà ông thương nó?
“Con bạc bẽo thì thôi” ông thốt câu trên bằng giọng hờn dỗi, buồn rầu.
Rồi tin dữ đến. Ông đón nó một cách trầm tĩnh, thản nhiên đến độ làm cho mẹ Hòa hoảng sợ, cô gái vừa lau nước mắt, vừa nghẹn ngào van xin cha tha thứ cho anh cô vì anh cô đã chết rồi.
Ông quay đi, giọng chìm xuống, mơ hồ như từ cõi xa xăm nào vọng lại:
- Không, cha có giận nó đâu, cha thương nó lắm… nhưng mà…
Đôi vài gầy run run qua lần lụa mỏng, ông che mặt khóc, khóc thảm thiết, khóc tức tưởi, tưởng như bao nhiêu khổ sở, nhớ thương, mong đợi, dồn nén lâu nay tan hoà trong nước mắt ông.
Đó là lần đầu mà cũng là lần cuối, mẹ Hòa thấy ông nhắc đến anh mình, tỏ lòng nhớ tiếc anh mình.
Ông thu gói tình thương đó lại, kín đáo, lặng lẽ cũng như ông lặng lẽ kín đáo thu thập di vật của người con trai ngắn số cất vào một chỗ, một chỗ sâu kín của lòng ông.
Năm ấy mẹ Hoà mười chín tuổi. Cô từ chối những lời cầu thân của nhiều người vì cô chưa nghĩ đến tình yêu, song có lẽ phần lớn cô do dự bởi ngại nỗi về nhà chồng thì cha già hiu quạnh một mình. Cứ lần lữa đến đâu hay đó. Mỗi bận cha cô bàn đến chuyện chồng con thì cô lại thưa cha hãy thong thả, rằng cô muốn được gần cha ngày nào hay ngày ấy, rằng sớm muộn gì mà cô không phải lấy chồng?
Cô rất cảm tình với người thanh niên nghèo khổ xa lạ mà cha cô đưa về. Từ cảm tình đến tình yêu thật không xa cách mấy, nhưng mỗi lúc nghĩ đến miền Trung xa tít tắp nào đó mà mình sẽ phải đi theo, để cha già còm cọm, thui thủi lẻ loi sớm chiều trong gian nhà vắng lặng thì lửa tình cô tắt biến. Mãi cho đến khi cô thú thật điều lo ngại của mình, thì cha Hòa thổ lộ hết chuyện gia đình và bằng giọng xót xa, anh nói:
- Tôi còn về đó làm chi? Đau lòng quá lắm! Tôi sẽ lấy quê em làm quê tôi, cha em làm cha tôi…
Trầm ngâm một lát, anh tiếp:
- Mà dù có tính đến chuyện về cũng còn lâu lắm, chừng nào cha em…
Thế là họ thành hôn. Ông ngoại Hòa vui vẻ, vuốt râu chờ bế cháu. Ông chờ có hơi lâu, vì mẹ Hòa chậm sinh, mãi đến ba năm mới có tin mừng.
Ông nhắc đi nhắc lại một câu ông đã nói nhiều lần, mỗi lần bế cháu trên tay:
- Vậy mà ông cứ lo cháu đợi ông chết rồi mới ra đời chứ!
Hết sức mãn nguyện vì rể tốt, cháu ngoan, ông ngoại Hòa nói rằng ông sẵn sàng chờ chết. Và ông mất trong một giấc ngủ yên lành.
Khi cái cớ duy nhất ngăn cản ý định về quê của cha Hòa không còn nữa, thì chiến tranh lại tái diễn đến mức không ngờ. Tái diễn một cách khốc liệt, dữ dội. Riêng đối với cha Hòa thì càng vô lý, khó hiểu. Ông tưởng rằng cởi bỏ ách thống trị, dân tộc mình có thể sống trong sự tương thân…
Dù không muốn, gia đình cha Hòa đã mặc nhiên trở thành thị dân và nghề tài xế dù không phải là một nghề ông vừa ý, song ít nhất nó cũng là một nghề đủ nuôi sống gia đình.
Như hoa hướng dương luôn luôn quay về hướng mặt trời, cha Hòa cũng vậy, tình quê dào dạt trong lòng ông. Ông thường nhắc đến ước mơ được về quê cầm lại cái cày, cán cuốc. Nhưng điều ao ước tầm thường, nhỏ nhặt đó cũng mịt mùng, xa xôi, cũng thăm thẳm khó đạt, khó với tới như cái hy vọng được thấy hoà bình vãn hồi trên mảnh đất thân yêu.
Cha Hòa ngạc nhiên thấy thù hận bây giờ nhạt nhoà hẳn trong trí nhớ, mối thù mà ông từng nghiến răng thề sẽ trả cho bằng được, ngày đêm ôm ấp đợi chờ từng phút từng giờ đó, sao bây giờ tan biến như sương buổi sớm, như khói lam chiều, không để lại dấu vết nào. Thù oán làm chi nữa? Cha mẹ mình có sống lại được đâu? Mà chắc gì kẻ gây tội ác được sung sướng? Chưa biết chừng ruộng đất đó đã đổi chủ cũng nên? Chao! Cuộc đời dâu bể…
Cha Hòa không mong muốn được làm giàu. Giàu có thì sung sướng chi? Ông cho rằng dù giàu có đến bao nhiêu đi nữa, người ta vẫn ngủ một đêm bảy hay tám giờ, mỗi lần chỉ mặc một bộ quần áo và ban đêm không thể choán chỗ trên hai chiếc giường. Ông tỏ ý thương hại những người giàu có khư khư khổ sở chắt bóp để có thêm mà không dám tiêu dùng chuyện đáng tiêu, như vậy có sung sướng chi đâu? Mình làm chủ của cải chớ của cải sao làm chủ được mình?
- Chuyện gì gọi là chuyện đáng tiêu đâu? Làm sao anh biết?
Mẹ Hòa cười, gặng hỏi. Cha Hòa nghiêm trang:
- Sao tôi lại không biết chuyện đáng tiêu? Như tôi đây này, tôi mà có tiền nhiều thì tôi cất trường học, xây nhà thương, làm những việc có ích…
- Nhưng anh thì làm gì có nhiều tiền để làm nổi những chuyện có ích? Còn nói thí dụ như anh có tiền, biết chừng đâu lúc ấy anh lại đổi tính nghĩ khác cũng nên…
- Khác làm sao đâu?
- Nghĩa là anh cũng nghĩ như những người mà anh chê hiện nay đó: khư khư ky cóp kiếm thêm…
Cha Hòa kêu lên, vẻ phật ý:
- Trời ơi! Mẹ thằng Hòa! Mình cho tôi là hạng người gì chớ? Tôi này, cha thằng Hòa, cha con Mai này mà lại không biết chuyện như vậy hay sao? Không đời nào!
Hai người cười vang lên. Các con cũng cười theo. Chúng vui vì thấy cha mẹ vui.
Những lúc vắng nhà lâu, cha Hòa gửi thư về. Ông cũng là tay văn chương có hạng.
Ông viết như sau:
“… Anh nhớ mình với các con lắm, cho đến nỗi nhiều khi anh muốn từ bỏ quách cái nghề tài xế này đi. Anh biết là mình cũng muốn vậy, song nghĩ lại anh thấy không thể nào ngồi không, chờ mình chạy gạo cho cả nhà được.
Mình đáng được sung sướng hơn. Các con cần học hành tới nơi, tới chốn. Chuyện con Mai thôi học tôi buồn lắm đó, tôi không muốn vậy, nhưng bởi mình nghèo, phải chịu thôi.. Con Mai nay học may đã khá chưa? Chừng nào thì ba khỏi đem vải ra cho thợ? Còn Hòa, con mà đậu tiểu học thì ba sẽ cho con cái xe đạp. Gắng lên! Con Mai sẽ có máy may. Chịu không? Còn Bé nữa, ba không quên đứa nào đâu. Kỳ này ba đi xa, khó nhọc nên ba có nhiều tiền hơn.
Mưa dữ quá, lại lạnh nữa. May nhờ mẹ con phòng xa bỏ trong xách ba cái áo len chớ không thì phải biết. Mẹ con là người biết chuyện. Ba cảm ơn mẹ con nhiều lắm đó. Chắc vài tuần nữa ba về. Chỉ tại cái xe nó già rồi, hay làm nũng, nằm vạ luôn, thật khó chìu, khó dỗ. Tức cười không? Ba cũng già mà không làm nũng, cái xe thì trái lại. Đi xa thì dỗ xe, về nhà thì dỗ các con. Coi chừng kẻo mẹ đánh, không có ba, không ai dỗ đâu, nghe không?
Thôi, ba ngừng nơi đây. Thăm các con với mẹ, nghe không…”
Buồn cười thay: mẹ con Hòa ít khi có dịp thưởng thức được cái tài văn chương của ông trong khi ông vắng mặt vì một điều giản dị là thư luôn luôn về đến sau người viết! Mẹ Hoà phàn nàn dữ lắm, nhưng Hòa thì không. Thằng con trai ưng đọc thư cha trước mặt cha: nó có dịp thấy cha đỏ mặt lên ngượng nghịu vì những lời lẽ âu yếm do chính tay mình viết, do ý nghĩ thành thực của mình. Nó làm sao ấy… nó kỳ cục… nó tiểu thuyết, chịu không được.
Người cha nhoài tới, giằng lấy lá thư, song Hòa nhanh chân chạy biến ra đường. Khi Hòa trở vô, ông làm bộ giận, kêu lên:
- Đưa cái thơ đây, thằng nhỏ!
- Ủa, ba gởi cho mẹ với tụi con thì để con đọc chớ, ba gởi làm chi mà không cho con đọc?
Ông chịu thua, xuống giọng:
- Thì đọc đi, mà đừng có đọc to, thằng nhỏ rắn mắt!
Nhưng thằng nhỏ rắn mắt không đọc nhỏ như lời cha bảo, nó đọc to cốt để trêu cha, sau cùng mẹ nó can thiệp, đòi phết cho mấy roi vào mông, nó mới thôi.
Sau những chuyến đi xa và lâu, cha Hòa trở về với rất nhiều quà, có nhiều chuyện kể cho các con nghe và cũng nghỉ ngơi lâu hơn.
Nằm trên võng, ông nghêu ngao cất giọng ngâm một đoạn Lục Vân Tiên – vì ông không biết gì khác hơn:
- Làm con đâu dám cãi cha,
Dẫu cho muôn dặm đường xa cũng đành.
Chẳng qua là sự bất (ớ ớ… ớ) bình.
Hay vầy (ơ ơ… ơ) tôi chẳng (có) đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải (ơ… ơ ơ) nguy,
Tiết trăm năm cũng (a a… a) bỏ đi…
Thình lình, ông ngồi bật dậy như cái lò xo, gọi mẹ Hòa giật giọng:
- Mẹ nó đâu? Mẹ nó ơi!
- Chuyện gì vậy?
- Mình nướng bánh chưa?
- Chưa, chi gấp vậy?
- Thì nướng để kéo mạch nha cho lũ nhỏ ăn chớ chi gấp? Người ta mua về mà không cho con người ta ăn…
Và rồi, ông nói hoài, lằng nhằng dai dẳng cho đến chừng mẹ Hòa phải ngừng công việc khác, bỏ dở đó đi nướng bánh, ông mới bằng lòng..
Nằm xuống võng, ông quên béng đoạn tiếp theo. Cũng chẳng hại gì. Ông bắt sang đoạn khác, giọng ông trầm xuống cho hợp với tâm tình người trong truyện:
- Đã đành đá nát vàng phai.
Đã đành xuống chốn tuyền đài gặp (á á… á) nhau…
Ngồi thì tim lụn dầu hao.
Hỡi (a a) người trong tượng trầu cau đây này!
Cách nhau đã mấy năm chầy.
Không ai hơn thiệt cho khuây…
Đang nằm trong lòng cha, lim dim mắt, bỗng Bé ngồi lên, vùng vằng:
- Con không chịu, con không chịu ba hát cái đó.
- Mày quyền thế dữ há? Ba muốn hát cái nào ba hát chớ, ăn thua gì mày mà không chịu? Làm trời hả? Muốn đòn không?
Mai quát em. Người cha vội vàng ngăn:
- Thôi, kệ em, con! (Ông dịu dàng hỏi Bé) Sao con không chịu? Tại cái đó buồn quá phải không?
- Con không biết (Bé càng phụng phịu) con không ưng ba hát cái đó…
- Thôi, ba hát cái hay hơn nghe không? Ba hát hay lắm chớ không phải thứ hát rên rên như chị Mai với anh Hòa con đâu.
Và ông dặng hắng lấy giọng, hát to:
- Thanh niên Việt-nam mau bồng súng ra sa trường. Thanh niên Việt-nam không lùi bước trước làn gươm. Tay phất cao lá cờ…
- Hay ghê! Ba hát hay ghê!
Bé vỗ tay tán thưởng, nhưng đúng lúc ấy người cha lại quên đoạn tiếp. Ông quên mất cái bài hát mà năm 45, 46 ông thuộc nằm lòng, bài hát đã lôi cuốn ông cùng vô số người trẻ tuổi. Trí nhớ mình tệ thật, ông nghĩ thầm. Bé giục:
- Hát đi ba! Con ưng ba hát cái đó!
Để con vừa ý, ông xoay qua điệu cải lương:
- Nối ngôi trời sửa trị, Trẫm tước hiệu Minh Vương, ra oai phong bủa khắp bốn phương, rưới nước đức thấm nhuần muôn họ, nhưng mà, Trẫm nghĩ lại Trẫm giận thay cho (ca lớn lên) các loài Tây phiên, chẳng nể, không kiêng, rất…
Lại bí. Bé dãy lên, oà khóc. Chị Mai trừng mắt một cái, xông lại bên em:
- Đi chỗ khác cho ba nằm. Đừng có làm rộn…
- Thôi, Mai! Con sao có được cái tài ăn hiếp em là nhứt. Để nó nằm với ba. Cha con tao làm gì mặc kệ cha con tao. Mày lo theo mẹ mày đi! Lôi thôi, tháng tới tao không mua máy may cho đâu.
Mai lườm em một cái, doạ:
- Còn làm rầy ba, coi chừng đó!
Rồi Mai xuống bếp. Tiếng võng lại kẽo kẹt, cha Hòa nằm xuống, trở lại đoạn thơ Lục Vân Tiên dang dở vừa chợt nhớ ra.
Cha Hòa như thế đó: cưng con, quí vợ, vui vẻ, hiền lành, tận tâm, chăm việc.
Cho đến nỗi bà Năm bán quán vẫn nói với mẹ Hòa:
- Mày thiệt là có phước! Có thằng chồng sao mà tốt nết quá chừng! Từ hồi về đây tới nay hai năm, tao chưa bán cho nó được một đồng bạc rượu, gói thuốc lá cũng không.