Dịch giả: Nguyễn Đ. Thanh

Nguyên tác: The Moons of Jupiter

     ôi tìm thấy ba tôi trong cánh bệnh viện về tim, ở tầng thứ tám của Bệnh Viện Đa Khoa Toronto. Ông nằm trong một phòng riêng hai giường. Giường kia trống. Ông nói bảo hiểm bệnh viện của ông chỉ trả một giường, và ông lo lắng ông có thể phải trả thêm tiền. 
"Ba không bao giờ đòi một phòng riêng hai giường", ông nói. 
Tôi cho ông biết có lẽ các phòng đều đầy hết. 
"Không. Ba thấy một số giường trống khi họ đẩy ba đi ngang." "Vậy thì có lẽ vì ba cần phải gắn cái máy đó," tôi nói. "Ba đừng lo. Nếu họ tính thêm chi phí cho ba, họ sẽ cho ba biết."
"Có lẽ như vậy", ông nói. "Họ sẽ không muốn những người vô danh nào đó vào đây. Ba nghĩ ba được bảo hiểm cho vấn đề nầy."
Tôi nói chắc chắn là ông được.
Ngực của ông dán nhiều dây điện. Một màn hình nhỏ treo phía trên đầu nằm. Trên màn hình một đường răng cưa sáng được liên tục viết ra. Dòng viết kèm theo một tiếng bíp điện tử lo lắng. Tình trạng trái tim của ông được thể hiện. Tôi cố gắng không để ý đến. Dường như đối với tôi sự chú ý cặn kẻ như vậy - trong thực tế, làm cho bi thảm một hoạt động bí mật nhất - là đi tìm rắc rối. Bất cứ cái gì phơi bày ra theo cách đó có khuynh hướng bùng lên và phát điên.
Ba tôi không có vẻ bận tâm. Ông nói họ đã cho ông thuốc an thần. Con biết, ông nói, những viên thuốc hạnh phúc đó. Ông có vẻ bình tĩnh và lạc quan thật.
Đêm hôm trước là một câu chuyện khác. Khi tôi đưa ông vào bệnh viện, đến phòng cấp cứu, mặt ông đã nhợt nhạt và miệng ông khép kín. Ông đã mở cửa xe, đứng lên và lặng lẽ nói, "Có lẽ tốt hơn con có thể lấy cho ba một chiếc xe lăn." Ông sử dụng một giọng nói mà ông luôn dùng trong cơn khủng hoảng. Một lần, ống khói của chúng tôi bị cháy, đó là vào một buổi trưa chủ nhật và tôi ở trong phòng ăn đang ghim một cái váy tôi may. Ông bước vào và nói cũng với giọng nói thực tế, cảnh báo là, "Janet. Con có biết bột làm cho bánh nở ở đâu không?" Ông muốn ném nó vào để dập tắt lửa. Sau đó, ông nói, "Ba đoán đó là lỗi tại con - may áo một ngày chủ nhật."
Tôi phải chờ hơn một giờ trong phòng chờ đợi cấp cứu. Họ cho gọi một chuyên gia tim mạch đang có mặt trong bệnh viện, một người đàn ông trẻ. Ông gọi tôi ra hành lang và giải thích với tôi rằng một trong những van tim của ba tôi đã bị suy thoái rất tệ đến độ phải cần một cuộc giải phẫu ngay lập tức. 
Tôi hỏi ông cái gì sẽ xảy ra nếu không. 
"Ông ấy phải nằm trên giường," bác sĩ nói. 
"Bao lâu?" 
"Có lẽ ba tháng." 
"Tôi muốn nói là, ông sẽ sống được bao lâu?" 
"Đó cũng là những gì tôi muốn nói," bác sĩ trả lời.
Tôi đến gặp ba tôi. Ông đang ngồi trên giường trong một góc sau bức màn. "Xấu, phải không con?", ông nói. "Ông có nói với con phần trên cái van không?"
"Không đến nổi xấu, ba" tôi nói. Sau đó, tôi lặp đi lặp lại, thậm chí phóng đại, bất cứ điều hy vọng gì bác sĩ đã nói. "Ba không bị nguy hiểm ngay lúc này. Tình trạng thể chất của ba tốt, nếu không".
"Nếu không," ba tôi nói, ủ rũ.
Tôi mệt mỏi vì lái xe - chạy lên đến Dalgleish, để đón ông, và trở lại Toronto từ buổi trưa - và lo lắng về việc trả lại chiếc xe thuê đúng thời hạn, và bực dọc bởi một bài báo tôi đã đọc trong một tạp chí tại phòng chờ đợi. Nó nói về một nhà văn khác, một người phụ nữ trẻ hơn, đẹp hơn, có thể tài năng hơn tôi. Tôi đã ở bên Anh hai tháng và vì vậy tôi không nhìn thấy bài viết này trước đây, nhưng trong tâm trí tôi vừa chợt nghĩ là ba tôi có lẽ đã xem qua. Tôi có thể nghe ông nói, A, ba không thấy bài nào nói về con trong tạp chí Maclean. Và nếu ông đã đọc một cái gì đó về tôi ông sẽ nói, A, ba không nghĩ quá nhiều về bài viết đó. Giọng của ông sẽ hài hước và dể dãi nhưng sẽ tạo ra trong tôi một tinh thần mơ mộng quen thuộc. Điều mà ông muốn nhắn với tôi rất đơn giản: Phải nỗ lực phấn đấu cho tiếng tăm, sau đó vì nó mà xin lỗi. Được hoặc không được, con vẩn bị khiển trách.
Tôi không ngạc nhiên bởi tin tức của bác sĩ. Tôi đã chuẩn bị để nghe một cái gì đó như vậy và hài lòng với bản thân đã tiếp nhận một cách bình tĩnh, giống như tôi sẽ hài lòng khi băng bó một vết thương hay nhìn xuống từ ban công không chắc của một tòa nhà cao. Tôi nghĩ, Phải, đúng lúc; phải có một cái gì đó, đây rồi. Tôi không cảm thấy bất cứ sự phản đối nào mà tôi có thể có hai mươi, thậm chí mười năm trước. Khi tôi nhìn thấy từ mặt ba tôi rằng ông đã cảm thấy - việc từ chối vụt lên trông ông sẵn sàng như thể ông ba mươi hay bốn mươi tuổi trẻ hơn - trái tim của tôi cứng lai, và tôi nói với một giọng vui vẻ, phiền não. "Rất nhiều nếu không, ba à" tôi nói.
NGÀY HÔM SAU, ông trở lại bình thường.
Đó là những gì tôi đã nhận thấy. Ông nói rằng hình như ông cảm thấy bây giờ người bác sĩ trẻ có vẻ hơi quá háo hức để giải phẫu. "Một người thích sử dụng con dao", ông nói. Ông vừa chế giễu vừa khoe tiếng lóng của bệnh viện. Ông nói một bác sĩ khác đã khám nghiệm ông, một người đàn ông lớn tuổi hơn, và đã cho biết ý kiến của ông là nghỉ ngơi và uống thuốc có thể là giải pháp.
Tôi không hỏi giải pháp gì.
"Ông nói ba có một van bị hỏng, đúng vậy. Chắc chắn là có vài thiệt hại. Họ muốn biết nếu ba đã bị sốt phong thấp lúc nhỏ. Ba nói ba không nghĩ vậy. Nhưng lúc đó phân nửa thời gian ba không được chẩn đoán bệnh ba đã có. Ba của ba không phải là người để đi tìm bác sĩ."
Những tư tưởng về thời thơ ấu của ba tôi, mà tôi luôn luôn hình dung ảm đạm và nguy hiểm - trang trại nghèo, các chị em sợ hãi, người cha khắc nghiệt - làm cho tôi khó chấp nhận cái chết gần kề của ông. Tôi nghĩ đến lúc ông bỏ nhà đi để làm việc trong các tàu thuyền trên hồ, chạy dọc theo đường rầy xe lửa, hướng về Goderich, trong ánh sáng ban tối. Ông thường kể về chuyến đi nầy. Một nơi nào đó dọc theo đường rầy, ông tìm thấy một cây mộc qua. Cây mộc qua rất hiếm trên phần đất nước của chúng tôi; trong thực tế, tôi chưa bao giờ thấy cây nào. Cũng chưa tìm thấy được cây mà ba tôi đã gặp, mặc dù có một lần ông đã chở chúng tôi đi một chuyến thám hiểm để tìm nó. Ông nghĩ rằng ông biết ngã tư ở gần đó, nhưng chúng tôi không thể tìm thấy. Ông không thể ăn được trái, tất nhiên, nhưng ông đã bị ấn tượng bởi sự tồn tại của nó. Điều đó khiến ông nghĩ rằng ông đã bước vào một phần mới của thế giới.
Đứa trẻ trốn thoát, người sống sót, một ông già bị kẹt ở đây vì trái tim hỏng. Tôi không theo đuổi những ý nghĩ đó. Tôi không quan tâm nhớ đến những thời trẻ của ông. Ngay cả phần ngực trần của ông, dầy và trắng - ông có cơ thể của một người lao động của thế hệ ông, hiếm khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời - là mối nguy hiểm cho tôi; nó trông rất mạnh mẽ và trẻ trung. Chiếc cổ nhăn nheo, bàn tay và cánh tay đầy tàn nhang với tuổi, cái đầu hẹp, lịch sự, với mái tóc và ria mép thưa thớt bạc màu, là những gì mà tôi quen thuộc hơn.
"Bây giờ, tại sao ba muốn mình giải phẫu?" Ba tôi nói một cách hợp lý. "Hãy nghĩ đến những nguy cơ ở tuổi của ba, và để làm gì? Một vài năm ở bên ngoài. Ba nghĩ điều tốt nhất cho ba là về nhà và nghỉ ngơi. Chịu thua một cách nhẹ nhàng. Đó là tất cả những gì con có thể làm, ở độ tuổi ba. Thái độ của mình thay đổi, con biết không. Mình trải qua vài thay đổi về tinh thần. Nó có vẻ tự nhiên hơn."
"Cái gì tự nhiên, ba?" Tôi nói.
"A, cái chết. Mình không thể có cái gì tự nhiên hơn. Không, ba muốn nói, một cách cụ thể, là sẽ không giải phẫu."
"Điều đó có vẻ tự nhiên hơn sao ba?"
"Đúng."
"Tùy ba," tôi nói, nhưng tôi đã chấp nhận. Đó là điều tôi mong đợi ở ông. Bất cứ lúc nào tôi nói với ai về ba tôi, tôi nhấn mạnh tánh độc lập, tự túc, nhẫn nại của ông. Ông làm việc trong một nhà máy, ông làm việc trong khu vườn của ông, ông đọc sách lịch sử. Ông có thể kể về những vị hoàng đế La Mã hay các cuộc chiến tranh Balkan. Ông không bao giờ ồn ào.
JUDITH, CON GÁI NHỎ CỦA TÔI, đã đến gặp tôi ở Phi Trường Toronto hai ngày trước. Cô đi cùng Don, người bạn trai cô đang sống chung với. Họ lái xe đi Mexico vào buổi sáng, và trong khi tôi ở Toronto tôi đến ở trong căn hộ của họ. Hiện giờ, tôi sống ở Vancouver. Đôi khi tôi nói trụ sở chính của tôi là Vancouver.
"Nichola đâu?" Tôi hỏi, nghĩ ngay đến một tai nạn hoặc uống quá liều thuốc. Nichola là con gái lớn của tôi. Cô từng là một sinh viên Nhạc Viện, sau đó cô trở thành một cô hầu bàn lo rượu, sau cùng cô không có việc làm. Nếu cô đã có mặt tại sân bay, tôi có lẽ sẽ nói một cái gì đó sai. Tôi có thể sẽ hỏi về những kế hoạch của cô, và cô sẽ vuốt lại mái tóc của mình một cách duyên dáng và hỏi lại: "Kế hoạch?" - Như thể đó là một từ ngữ tôi đã chế ra.
"Con biết điều đầu tiên mẹ sẽ hỏi là về Nichola," Judith nói. 
"Không phải. Mẹ nói chào các con và mẹ -"
"Chúng con lấy túi xách cho mẹ", Don nói một cách trung lập. 
"Chị ấy khỏe chứ?"
"Con chắc chắn chị ấy khỏe," Judith cho biết, tạo ra một vẻ đùa vui. 
"Mẹ sẽ không giống như vậy nếu con là người không có ở đây." 
"Tất nhiên là mẹ sẽ như vậy." 
"Mẹ sẽ không như vậy. Nichola là con cưng của gia đình. Mẹ biết, chị ấy lớn hơn con bốn tuổi."
"Mẹ cần biết."
Judith nói cô không biết chính xác Nichola ở đâu. Cô nói Nichola đã dọn ra khỏi căn hộ của cô (một ổ rác!) và cô ấy thực sự có gọi điện thoại (thật là cả một thỏa thuận, bạn có thể nói, Nichola gọi điện thoại) để nói cô muốn được biệt lập trong một thời gian nhưng cô không sao cả.
"Con nói với chị ấy là mẹ sẽ lo lắng," Judith nói một cách tử tế hơn trên đường đi đến xe van của họ. Don đi trước mang va li của tôi. "Nhưng mẹ đừng lo. Chị ấy không sao, tin con đi."
Sự hiện diện của Don khiến tôi không thoải mái. Tôi không thích anh ta nghe những điều này. Tôi nghĩ đến các cuộc trò chuyện giữa Don và Judith. Hoặc Don và Judith và Nichola, bởi vì Nichola và Judith đôi khi có quan hệ tốt. Hoặc Don và Judith và Nichola và những người khác mà thậm chí tôi không biết tên. Họ có thể sẽ nói về tôi. Judith và Nichola so sánh các ghi nhận, những giai thoại liên quan; phân tích, hối hận, đổ lỗi, tha thứ. Tôi ước gì tôi đã có một đứa con trai và một đứa con gái. Hoặc hai đứa con trai. Họ sẽ không làm như vậy. Con trai sẽ không có thể biết quá nhiều về tôi.
Tôi cũng đã làm điều tương tự ở tuổi đó. Khi tôi ở tuổi Judith bay giờ, tôi nói chuyện với bạn bè trong nhà ăn trường đại học hoặc, đêm khuya, vừa uống cà phê trong những căn phòng rẻ tiền của chúng tôi. Khi tôi ở tuổi Nichola bây giờ, tôi đã có Nichola nằm trong một cái nôi nhỏ có thể mang theo hoặc bế nó trong lòng tôi, và tôi thường uống cà phê suốt các buổi chiều mưa ở Vancouver với một người bạn hàng xóm, Ruth Boudreau, cô ấy đọc rất nhiều và hoang mang với hoàn cảnh của cô, như tôi vậy. Chúng tôi nói chuyện về cha mẹ, tuổi thơ, mặc dù trong một thời gian không để cập đến hôn nhân của chúng tôi. Chúng tôi đối xử với cha mẹ tận tâm thế nào, lên án cuộc hôn nhân của họ, tham vọng sai lầm của họ hoặc sợ hãi tham vọng, chúng tôi đã xếp tất cả lại đàng hoàng thế nào, xác định chúng để không có một thay đổi nào có thể xảy ra. Cả một giả thuyết.
Tôi nhìn Don đi phía trước. Một anh chàng cao lớn, vẻ khổ hạnh, đội một kết Thánh Phanxicô trên mái tóc đen, một rìa râu gọn gàng. Anh có quyền gì để nghe nói về tôi, để biết những điều chính bản thân tôi có lẽ đã quên? Tôi quyết định rằng râu và kiểu tóc của anh bị ảnh hưởng.
Một lần, khi các con tôi còn nhỏ, ba tôi nói với tôi: "Con biết những năm con còn trẻ - A, tất cả đó chỉ là một bóng mờ đối với ba. Ba không thể phân biệt năm này với năm kia." Tôi cảm thấy bị xúc phạm. Tôi nhớ mỗi năm riêng biệt với nổi đau và rõ ràng. Tôi có thể nói tôi bao nhiêu tuổi khi tôi đi ra nhìn những váy dạ hội trong cửa tiệm Quần Áo Phụ Nữ Benbow. Mỗi tuần suốt mùa đông một chiếc váy mới, nổi bật bằng kim tuyến và vải lưới, mau hồng và hoa cà, ngọc xanh, thủy tiên vàng - và tôi như một tín đồ ngoan đạo lạnh cóng trên vỉa hè ướt tuyết. Tôi có thể nói tôi bao nhiêu tuổi khi tôi giả mạo chữ ký của mẹ tôi trong một bản báo cáo xấu, khi tôi bị bệnh sởi, khi chúng tôi dán đầy giấy phòng phía trước. Nhưng những năm mà Judith và Nichola còn nhỏ, khi tôi sống với cha của các con - đúng, mờ nhạt là từ ngữ dành cho thời gian này. Tôi nhớ treo tã ra, mang vào và gấp tã lại; tôi có thể nhớ các quầy bếp của hai ngôi nhà và nơi để giỏ quần áo. Tôi nhớ những chương trình truyền hình - Popeye Sailor, The Three Stooges, Funorama. Khi đến giờ xem Funorama, đó là lúc để bật đèn lên và nấu bữa ăn tối. Nhưng tôi không thể phân biệt những năm đó. Chúng tôi sống bên ngoài Vancouver ở một vùng ngoại ô ký túc xá: Dormir, Dormer, Dormouse - một cái tên gì như vậy. Luc đó, tôi luôn luôn buồn ngủ, mang thai làm tôi buồn ngủ, và những cử bú ban đêm, và cơn mưa vùng Bờ Biển Phía Tây. Cây bách hương đen nhỏ giọt, cây nguyệt quế bóng láng nhỏ giọt; người vợ ngáp, ngủ trưa, đi chơi, uống cà phê, và gấp tã; người chồng về nhà ban đêm từ thành phố phía bên kia bờ. Mỗi đêm tôi hôn người chồng trở về trong chiếc áo Burberry ướt sũng và hy vọng anh có thể đánh thức tôi dậy; tôi dọn món thịt và khoai tây và một trong bốn loại rau mà anh cho phép. Anh ăn một cách ngon miệng ồn ào, sau đó ngủ thiếp đi trên ghế dài ở phòng khách. Chúng tôi ở tuổi đôi mươi nhưng đã trở thành một cặp trong phim hoạt hình tuổi trung niên nhiều hơn là khi chúng tôi sẽ sống đến thời điểm đó.
Những năm khó khăn là những năm con cái sẽ nhớ suốt đời. Những góc sân tôi chưa bao giờ đến sẽ luôn ở trong đầu của nó.
"Nichola không muốn gặp mẹ sao?" Tôi hỏi Judith.
"Thường chị ấy không muốn gặp ai hết", cô nói. Judith đi lên phía trước và chạm vào tay của Don. Tôi biết cử chỉ này – biểu hiệu một xin lỗi, một an tâm lo lắng. Cô sờ một người đàn ông như vậy để nhắc nhở anh là cô cảm ơn, là cô biết anh đang làm một cái gì đó vì cô, mà anh cảm thấy phiền hoặc hơi đe dọa nhân phẩm của anh. Nó làm cho tôi cảm thấy già hơn các cháu nếu nhìn thấy con gái tôi chạm vào một người đàn ông - một cậu bé - như vậy. Tôi cảm thấy nổi bồn chồn buồn bã, có thể đoán được sự quan tâm dịu dàng của cô. Đứa con thẳng thắn, lùn và mập, tóc vàng và công bình của tôi. Tại sao tôi nghĩ cô sẽ không nhạy cảm, mà sẽ luôn luôn chân thật, nặng nề, tự tin? Cũng giống như tôi đi khắp nơi nói rằng Nichola ranh mảnh và cô độc, lạnh lùng, quyến rũ. Nhiều người phải biết những điều đó sẽ mâu thuẫn với những gì tôi nói.
Buổi sáng Don và Judith lên đường đi Mexico. Tôi quyết định muốn gặp ai đó không liên hệ đến tôi, và không mong đợi bất cứ điều gì đặc biệt ở tôi. Tôi gọi một người yêu cũ, nhưng điện thoại của anh được trả lời bằng một cái máy: "Đây là Tom Shepherd. Tôi sẽ vắng mặt nguyên tháng chín. Xin vui lòng để lại tin nhắn, tên và số điện thoại."
Giọng nói của Tom nghe có vẻ rất dễ chịu và quen thuộc đến độ tôi mở miệng để hỏi anh ý nghĩa của sự điên rồ này. Sau đó, tôi gác máy. Tôi cảm thấy như thể anh đã cố tình bỏ rơi tôi, như thể chúng tôi đã dự định gặp nhau ở một nơi công cộng và sau đó anh không xuất hiện. Một lần, anh đã làm như vậy, tôi nhớ.
Tôi rót một ly rượu vermouth, mặc dù chưa phải là giờ trưa, và tôi gọi điện cho ba tôi. 
"A, thật là ngẫu nhiên", ông nói. "Mười lăm phút nửa là con sẽ hụt ba rồi." 
"Ba đi xuống phố?" 
"Xuống phố Toronto."
Ông giải thích là ông sẽ đi bệnh viện. Bác sĩ của ông ở Dalgleish muốn các bác sĩ ở Toronto khám nghiệm ông, và đã đưa cho ông một lá thư gởi cho họ trong phòng cấp cứu.
"Phòng cấp cứu?" Tôi hỏi. 
"Không phải một trường hợp khẩn cấp. Ông chỉ có vẻ nghĩ rằng đây là cách tốt nhất để giải quyết. Ông biết tên của một đồng nghiệp ở đó. Nếu ông lấy cho ba một buổi hẹn, nó có thể mất vài tuần."
"Bác sĩ có biết là ba sẽ lái xe đi Toronto không?" Tôi hỏi. "A, ông không có nói là ba không thể."
Kết quả sau cùng của chuyện này là tôi thuê một chiếc xe, lái đi Dalgleish, chở ba tôi trở lại Toronto, và đưa ông vào phòng cấp cứu lúc bảy giờ tối hôm đó. 
Trước khi Judith rời nhà tôi nói với cô, "Con chắc chắn Nichola biết mẹ đang ở đây?" 
"Có, con có nói với chị ấy", cô nói. 
Đôi khi điện thoại reo lên, nhưng đó luôn luôn là một người bạn của Judith.
"TỐT, CÓ VẺ NHƯ ba sẻ giải phẫu," ba tôi nói. Đó là vào ngày thứ tư. Ông đã thay đổi hoàn toàn qua đêm. "Có vẻ như tốt hơn là ba nên làm." 
Tôi không biết ông sẽ muốn tôi nói cái gì. Tôi nghĩ có lẽ ông nhìn tôi để có một phản đối, một cố gắng để ngăn cản ông. 
"Khi nào họ sẽ làm chuyện đó?" Tôi hỏi. 
"Sau ngày mai." 
Tôi nói tôi cần đi nhà vệ sinh. Tôi đến phòng y tá và tìm thấy một người phụ nữ tôi nghĩ là y tá trưởng. Cô có mái tóc màu bạc, tử tế, và vẻ nghiêm trọng. 
"Có phải là ba tôi sẽ giải phẫu sau ngày mai không?" Tôi hỏi. "Ồ, đúng vậy."
"Tôi chỉ muốn nói chuyện với ai đó về vấn đề này. Tôi nghĩ đã có một quyết định cuối cùng là tốt hơn ông không nên. Tôi nghĩ đó là vì tuổi của ông."
"Nhưng, đó là quyết định của ông và của bác sĩ." Cô ấy mỉm cười với tôi bình thản. "Thật khó để lấy các quyết định này." 
"Những thứ nghiệm của ông thế nào?" 
"A, tôi không nhìn thấy tất cả."
Tôi chắc chắn cô đã có xem. Sau một lúc, cô nói, "Chúng ta cần phải thực tế. Nhưng các bác sĩ ở đây rất tốt."
Khi tôi quay trở lại vào phòng, ba tôi nói, bằng một giọng ngạc nhiên, "Biển không bờ."
"Ba nói cái gì?" Tôi nói. Tôi tự hỏi nếu ông đã phát hiện ra bao nhiêu thời gian hay ít hơn ông có thể hy vọng. Tôi tự hỏi nếu những viên thuốc đã đưa ông vào một trạng thái phởn phơ không đáng tin cậy. Hoặc nếu ông muốn chơi trò đỏ đen. Một lần, khi ông nói chuyện với tôi về cuộc đời của ông, ông nói: "Vấn đề là ba luôn luôn sợ lấy cơ hội."
Tôi hay kể với mọi người là ông không bao giờ nói một cách tiếc nuối về cuộc đời ông, nhưng đó không đúng sự thật. Chỉ là vì tôi không lắng nghe. Ông nói phải chi ông gia nhập Quân Đội như một thương gia - ông sẽ khá hơn. Ông nói phải chi ông tự lập, như một người thợ mộc, sau chiến tranh. Phải chi ông rời khỏi Dalgleish. Một lần, ông nói, "Một cuộc sống lãng phí, phải không?" Nhưng ông nói chỉ cho vui về ông thôi, bởi vì nó quá bi đát để nói. Khi ông trích dẫn thơ, cũng vậy, ông luôn có một vẻ nhạo báng trong giọng nói, để che đậy sự phô trương và niềm vui.
"Biển không bờ", ông nói một lần nửa."  'Phía sau ông là vùng đảo Azores màu xám,/ Đằng sau các Cửa của Hercules;/ Phia trước ông chỉ là những biển không bờ. Đó là những gì diễn ra trong đầu của ba đêm qua. Nhưng con có nghĩ ba có thể nhớ loại biển gì không? Ba không thể. Biển cô đơn? Biển trống? Ba đã đi đúng hướng nhưng ba vẩn không thể nhớ ra được. Nhưng lúc bấy giờ khi con bước vào phòng và ba không hề suy nghĩ đến nó nửa, từ ngữ xuất hiện trong đầu ba. Luôn luôn là như vậy, phải không con? Thật không hẳn tất cả đều đáng ngạc nhiên. Ba hỏi tâm trí của ba một câu hỏi. Câu trả lời ở đó, nhưng ba không thể nhìn thấy tất cả các kết nối mà tâm trí thực hiện để có được nó. Giống như một máy vi tính. Không có gì bên ngoài hết. Con biết, trong trường hợp của ba điều này đúng, nếu có bất cứ điều gì con không thể giải thích ngay lập tức, có một sự cám dỗ lớn để - A, để biến nó thành cả một bí ẩn. Có một sự cám dỗ lớn để tin vào - Con biết."
"Linh hồn?" Tôi nói, một cách nhẹ nhàng, cảm thấy một cơn vội vã kinh khủng của tình thương và chấp nhận.
"Ồ, ba đoán con có thể gọi như vậy. Con biết, khi ba mới bước vào phòng này có một đống sách báo ở đây bên giường. Ai đó đã bỏ lại - một trong những loại báo lá cải ba không bao giờ đặt mắt tới. Ba bắt đầu đọc. Ba sẽ đọc bất cứ cái gì. Có một loạt bài đăng trong đó về những kinh nghiệm cá nhân của những người đã chết, nói một cách y tế - chủ yếu là tim ngừng đập - và đã được đưa trở lại cuộc sống. Đó là những gì họ nhớ về thời gian khi họ đã chết. Kinh nghiệm của họ."
"Ba thấy thú vị hay không -?" Tôi hỏi.
"Ồ, thú vị. Ồ có chứ. Họ bay lên trần nhà rồi nhìn xuống chính họ và thấy các bác sĩ đang làm việc trên thân xác của họ. Sau đó họ bay xa hơn và nhận ra một số người mà họ biết đã chết trước họ. Không hẳn họ nhìn thấy những người đó chính xác nhưng giống như cảm nhận được họ. Đôi khi như có một tiếng ồn ào và đôi khi như có một ánh sáng hoặc màu sắc xung quanh một người?"
"Hào quang?"
"Đúng. Nhưng không có người. Đó là tất cả những gì họ cảm nhận được trong thời gian ấy, sau đó họ thấy mình trở lại trong cơ thể và cảm thấy tất cả nỗi đau sinh tử và tiếp theo đó - họ đã trở lại với cuộc sống". 
"Ba thấy nó có vẻ - thuyết phục không?" 
"Ồ, ba không biết. Tất cả chỉ tùy theo con có muốn tin điều này hay không thôi. Và nếu con sẽ tin, hay nghiêm túc, ba nghĩ con nên nhìn tất cả mọi vấn đề khác một cách nghiêm trọng mà họ in ra trong những sách báo này."
"Họ còn nói những gì khác nửa?"
"Những chuyện vô lý - phương pháp chữa trị ung thư, chữa trị chứng hói đầu, chuyện đau bụng về thế hệ trẻ và những người ăn tiền xã hội. Những tin nhảm về ngôi sao điện ảnh." "Ồ, có. Ba biết."
"Trong trường hợp của ba, con cần phải để ý", ông nói, "còn không con sẽ bắt đầu tự đánh lừa con." Sau đó, ông nói, "Có một vài chi tiết thực tế chúng ta cần phải giải quyết," và ông nói với tôi về di chúc của ông, ngôi nhà, miếng đất ở nghĩa trang. Tất cả mọi thứ đều đơn giản. 
"Ba có muốn con gọi điện cho Peggy?" Tôi hỏi. Peggy là em gái tôi. Cô kết hôn với một nhà thiên văn học và sống tại thành phố Victoria. 
Ông có nghĩ về điều đó. "Ba nghĩ chúng ta phải nói với họ," cuối cùng ông nói. "Nhưng nói với họ đừng lo sợ." 
"Dạ được rồi."
"Không, chờ một phút. Sam phải đi dự một hội nghị vào cuối tuần này, và Peggy dự định đi cùng với anh ta. Ba không muốn họ thắc mắc về việc thay đổi kế hoạch của họ."
"Ba có biết hội nghị ở đâu không?" 
"Amsterdam", ông hãnh diện nói. Ông rất tự hào về Sam, và theo dỗi những cuốn sách và bài viết của anh ấy. Ông sẽ chọn lên một cuốn và nói, "Hãy nhìn xem, con thấy không? Và ba không thể hiểu một chữ nào trong đó!" với một giọng kinh ngạc vừa hàm chứa một vẻ chế giễu.
"Giáo sư Sam", ông sẽ nói. "Và ba đứa bé Sams." Đó là cách ông gọi mấy đứa cháu trai của ông, chúng thật giống cha trong trí não và gần như trong cách huênh hoang dễ mến - một sự khoe khoan ngây thơ đầy năng lượng. Họ đi học ở một trường tư với kỷ luật thời xưa và bắt đầu học toán ở lớp năm. "Và những con chó", ông có thể liệt kê thêm, "đã học được cách vâng lời ở trường. Và Peggy..."
Nhưng nếu tôi nói, "Ba có cho rằng cô ấy cũng đã vâng lời khi đi học không?" Ông sẽ ngưng trò chơi ngay. Tôi tưởng tượng khi ông gặp Sam và Peggy ông nói về tôi cùng một cách - ám chỉ tánh yếu đuối của tôi như ông ám chỉ tánh buồn tẻ của họ, nói những chuyện đùa nhẹ nhàng về tôi, không hoàn toàn che giấu sự ngạc nhiên của ông (hoặc ông giả vờ không che giấu) rằng người ta trả tiền cho những bài tôi viết. Ông phải làm như vậy để ông không bao giờ có vẻ khoe khoang, nhưng ông sẽ ngưng ngay lại khi nói đùa quá lố. Và tất nhiên là tôi tìm thấy sau đó, trong nhà, những thứ của tôi ông đã giữ - một vài tạp chí, báo cắt, những thứ tôi không bao giờ bận tâm đến.
Bây giờ những ý nghĩ của ông di chuyển từ gia đình của Peggy đến gia đình tôi. "Con có tin tức gì của Judith không?", ông hỏi. 
"Chưa có, Ba."
"A, còn khá sớm. Họ có định ngủ trong xe không?" "Dạ có."
"Ba đoán cũng đủ an toàn, nếu họ dừng lại ở đúng nơi." 
Tôi biết ông sẽ phải nói cái gì đó nửa và đó sẽ như là một lời nói đùa. 
"Ba đoán họ đặt một tấm bảng ở chính giữa, như những người tiền phong?" Tôi mỉm cười nhưng không trả lời.
"Ba hiểu là con không có phản đối?" 
"Dạ không," tôi nói. 
"Tốt, ba cũng luôn tin như vậy. Không bao giờ xen vào chuyện của con cái. Ba cố gắng không nói gì hết. Ba không bao giờ nói gì hết khi con chia tay với Richard."
"Ba muốn nói cái gì? Chỉ trích?"
"Đó không phải là chuyện của ba." 
"Không," 
"Nhưng điều đó không có nghĩa là ba hài lòng."
Tôi ngạc nhiên - không chỉ ở những gì ông nói nhưng ở cảm giác của ông rằng ông có quyền, ngay cả bây giờ, để nói. Tôi phải nhìn ra ngoài cửa sổ và xuống giao thông để tự kiểm soát. 
"Ba chỉ muốn con biết," ông nói thêm.
Đã lâu lắm, ông nói với tôi một cách nhẹ nhàng, "Thật buồn cười. Richard khi lần đầu tiên ba gặp anh ta nhắc ba nhớ đến những gì ba của ba thường nói. Ông đã nói nếu người đó thông mình phân nửa như anh ta nghĩ, thì anh ta thông mình gấp đôi hơn sự thật."
Tôi quay lại để nhắc ông về điều này, nhưng thấy mình nhìn vào dòng trái tim của ông đang viết. Không phải như là có điều gì không ổn, một sự khác biệt trong tiếng bíp và điểm. Nhưng nó có ở đó. 
Ông thấy nơi tôi đang nhìn. "Lợi thế không công bằng", ông nói. 
"Có chứ," tôi nói. "Con cũng sẽ đòi được gắn vào máy nửa." 
Chúng tôi cười, chúng tôi hôn nhau đàng hoàng; tôi rời khỏi phòng. Ít nhất ông đã không hỏi tôi về Nichola, tôi nghĩ.
BUỔI CHIỀU HÔM SAU tôi không đến bệnh viện, vì ba tôi cần làm một số thử nghiệm nửa, để chuẩn bị cho cuộc giải phẫu. Thay vào đó tôi sẽ gặp ông vào buổi tối. Tôi thấy mình lang thang qua các cửa tiệm, thử quần áo trên đường Bloor. Một mối bận tâm với thời trang và dáng người của tôi đã xâm nhập vào tôi như một cơn đau đầu dữ dội. Tôi nhìn những người phụ nữ trên đường phố, nhìn các quần áo trong cửa hàng, cố gắng khám phá một chuyển đổi nào có thể thực hiện được với những gì tôi sẽ phải mua. Tôi nhận ra tại sao có nỗi ám ảnh này nhưng rất khó khăn để loại nó đi. Có người đã nói với tôi rằng chờ đợi tin tức về sự sống-hay-chết, họ đã đứng trước một tủ lạnh mở ra ăn bất cứ cái gì họ thấy - khoai tây luộc lạnh, tương ớt, cả chén kem. Hoặc họ không thể ngừng chơi những trò giải ô chữ. Chú ý thu hẹp vào một cái gì đó – vài giải trí – nắm lấy, trở nên nghiêm túc một cách điên cuồng. Tôi lục tìm quần áo trên các mắc áo, mặt thử vào trong phòng thay đồ nhỏ nóng bức trước tấm gương tàn nhẫn. Tôi đổ mồ hôi, một hoặc hai lần tôi nghĩ tôi có thể ngất xỉu. Trở ra đường lại, tôi biết tôi cần phải rời khỏi con đường Bloor, và quyết định đi đến viện bảo tàng.
Tôi nhớ một thời điểm khác, ở Vancouver. Đó là khi Nichola vào mẫu giáo và Judith là một em bé. Nichola đã đi gặp bác sĩ vì bị cảm, hoặc có thể để kiểm tra sức khỏe thường xuyên, và thử nghiệm máu cho thấy một cái gì đó về bạch huyết cầu - hoặc là số lượng quá nhiều hoặc là nó to hơn bình thường. Bác sĩ đòi thử nghiệm thêm, và tôi đã mang Nichola đến bệnh viện để làm.  Không ai đề cập đến bệnh bạch cầu nhưng tôi biết, tất nhiên, những gì họ đang tìm kiếm. Khi tôi cho Nichola về nhà tôi nhờ người giữ Judith ở lại buổi chiều và tôi đi mua sắm. Tôi mua chiếc váy táo bạo nhất mà tôi chưa từng có, một áo lụa màu đen với những sợi dây được sắp xếp cột lại ở phần trên phía trước. Tôi nhớ buổi chiều mùa xuân tươi sáng đó, đôi giày gót nhọn trong cửa tiệm, đồ lót in với những đốm con báo.
Tôi cũng nhớ lúc về nhà từ Bệnh Viện St Paul qua Cầu Lions Gate trên chiếc xe buýt đông người và bế Nichola trên đầu gối. Bé đột nhiên nhớ tên gọi cây cầu bằng tiếng trẻ thơ và thì thầm với tôi:  "Cầu - qua cầu." Tôi không tránh né chạm vào con tôi - Nichola mảnh mai và duyên dáng ngay cả lúc đó, với một cái lưng đẹp và tóc mịn đen - nhưng nhận ra tôi chạm vào bé với một sự khác biệt, mặc dù tôi không nghĩ có thể hiểu được bao giờ là cái gì. Có một sự chăm sóc - không phải chính xác là một sự rút lui nhưng một chăm sóc – mà tôi không cảm thấy gì nhiều. Tôi thấy các hình thức của tình thương có thể được duy trì như thế nào với một người bị kết án nhưng với tình thương trong thực tế được đo lường và kỷ luật, bởi vì bạn cần phải tồn tại. Nó có thể thực hiện thật kín đáo để đối tượng đuợc chăm sóc như vậy sẽ không nghi ngờ, cũng như không để bé nghi ngờ bản án của cái chết. Nichola không biết, sẽ không bao giờ biết. Đồ chơi và những nụ hôn và những trò đùa sẽ ào đến bao phủ cho bé, bé sẽ không bao giờ biết, mặc dù tôi lo lắng bé sẽ cảm thấy ngọn gió thổi giữa các vết nứt của những ngày nghỉ lễ được chế tạo, những ngày bình thường được chế tạo. Nhưng tất cả đều tốt. Nichola không có bệnh bạch cầu. Cô lớn lên - vẫn còn sống, và có thể hạnh phúc. Biệt lập.
Tôi không thể nghĩ ra bất cứ cái gì trong bảo tàng mà tôi thực sự muốn xem, vì vậy tôi đi ngang qua và vào hành tinh hệ. Tôi chưa bao giờ đến đây. Chương trình sẽ bắt đầu trong mười phút. Tôi đi vào trong, mua vé, xếp hàng. Có cả một lớp toàn học sinh, có thể vài lớp, với các giáo viên và bà mẹ tình nguyện đi theo. Tôi nhìn xung quanh để xem nếu có người lớn nào khác đi một mình. Chỉ có một thôi - một người đàn ông với khuôn mặt đỏ và đôi mắt sưng húp, trông như thể ông nên vào đây để khỏi đi đến một quán rượu.
Bên trong, chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế thoải mái tuyệt vời được nghiêng về phía sau để nằm xuống như trong một loại võng, chú ý hướng đến vòm trần nhà, nó nhanh chóng chuyển màu xanh đậm, với một vành ánh sáng mờ nhạt xung quanh. Âm nhạc tuyệt dịu, chỉ huy trổi lên. Người lớn chung quanh nhắc nhở các em giữ im lặng, cố gắng không làm ồn với những túi khoai tây sột soạt của họ. Sau đó, tiếng nói của một người đàn ông, một giọng nói chuyên nghiệp hùng hồn, bắt đầu nói chậm chạp, xuất phát từ những bức tường. Giọng nói nhắc nhở tôi một chút về cách xướng ngôn viên đài phát thanh sử dụng để giới thiệu một tác phẩm âm nhạc cổ điển hoặc mô tả sự tiến hành của Hoàng Gia vào Tu Viện Westminster nhân dịp một buổi lễ hoàng gia. Có một hiệu ứng thính phòng vang lên thật nhẹ.
Trần nhà tối lấp lánh đầy sao. Chúng xuất hiện ra không phải tất cả cùng một lúc nhưng từng cái một, đúng như cách các ngôi sao thực sự hiện ra ban đêm, mặc dù nhanh hơn. Dải Ngân Hà xuất hiện, di chuyển gần hơn; các vì sao bơi vào ánh sáng và tiếp tục đi, biến mất ở các cạnh của màn hình bầu trời hoặc phía sau đầu của tôi. Trong khi dòng ánh sáng tiếp tục, tiếng nói trình bày các sự kiện tuyệt vời. Một vài năm ánh sáng nửa, nó tuyên bố, mặt trời xuất hiện như một ngôi sao sáng, và các hành tinh không nhìn thấy được. Một vài chục năm ánh sáng nửa, mặt trời không nhìn thấy được, hoặc là, bằng mắt thường. Và khoảng cách đó - vài chục năm ánh sáng - chỉ là khoảng một phần ngàn của khoảng cách từ mặt trời đến trung tâm của thiên hà của chúng ta, một thiên hà, mà bản thân nó chứa khoảng hai trăm tỷ mặt trời. Và là, lần lượt, một trong hàng triệu, có lẽ hàng tỷ, thiên hà. Vô số lặp đi lặp lại, vô số các biến thể. Tất cả những hình ảnh này quay cuồng trong đầu tôi, cũng như những cuộn sét đánh.
Bây giờ chủ nghĩa hiện thực đã bị bỏ rơi, thay vào đó sự giả tạo quen thuộc. Một mô hình của hệ thống năng lượng mặt trời quay đi xa một cách thanh lịch. Một con bọ sáng chói cất cánh khỏi mặt đất, hướng về sao Mộc. Tôi đặt tâm trí tránh né và thu hẹp một cách nghiêm khắc để ghi lại những sự kiện. Khối lượng của sao Mộc to gấp hai lần rưỡi tất cả các hành tinh khác cộng lại. Vết Đỏ Lớn. Mười ba mặt trăng. Qua sao Mộc, một cái nhìn vào quỹ đạo khác thường của Sao Diêm Vương, các vòng băng của sao Thổ. Trở lại Trái Dất và di chuyển vào sao Kìm nóng và rực rỡ. Áp suất khí quyển chín mươi lần nhiều hơn của chúng ta. Sao Thủy không trăng quay ba lần trong khi bay quanh mặt trời hai lần; một sự sắp xếp kỳ lạ, không hoàn toàn đáp ứng như những gì họ thường cho chúng ta biết - nó chỉ quay một lần khi nó đi vòng quanh mặt trời. Không có bóng tối vĩnh viễn gì cả. Tại sao họ lại đưa ra thông tin tự tin như vậy, chỉ để thông báo sau đó là nó hoàn toàn sai lầm? Cuối cùng, hình ảnh đã từng quen thuộc trong các tạp chí: đất đỏ của sao Hỏa, bầu trời sáng rực màu hồng.
Khi chương trình kết thúc tôi ngồi ở ghế, trong khi trẻ em trèo qua tôi, không có một ý kiến về bất cứ điều gì họ vừa nhìn hoặc nghe thấy. Họ vây quanh phiền nhiễu những người trông giữ đòi thức ăn và vui chơi giải trí nửa. Một cố gắng đã được thực hiện để kéo được sự chú ý của các em, để chúng ngưng uống nước ngọt trong hộp và ăn khoai tây chiên và thay vào đó bằng những dự kiến biết và chưa biết khác nhau và những tính bao la khủng khiếp, và dường như đã thất bại. Cũng là một điều tốt, tôi nghĩ. Đa số trẻ em có một khả năng miễn nhiễm tự nhiên, và nó không nên bị xáo trộn. Đối với người lớn nào muốn phàn nàn, những người thúc đẩy chương trình này, không phải là họ tự miễn nhiễm đến mức mà họ có thể đặt vào các hiệu ứng thính phòng, âm nhạc, trang nghiêm như ở nhà thờ, mô phỏng kinh sợ mà họ cho là họ phải cảm thấy? Kinh sợ - Cái gì sẽ như vậy? Một cơn rùng mình khi bạn nhìn ra ngoài cửa sổ? Một khi bạn biết nó là cái gì, bạn sẽ không muốn đến gần nửa.
Hai người đàn ông bước vào với chổi để quét các mảnh vụn khán giả đã để lại. Họ nói với tôi chương trình tiếp theo sẽ bắt đầu trong bốn mươi phút. Trong khi chờ đợi, tôi phải đi ra. 
"CON ĐI XEM BUỔI DIỄN ở hành tinh hệ," Tôi nói với ba tôi. "Nó rất là thú vị - về hệ thống năng lượng mặt trời." Tôi nghĩ thật là ngớ ngẩn tôi đã sử dụng từ ngữ: "thú vị." "Nó hơi giống như một ngôi đền giả tạo," tôi nói thêm. 
Ông đã bàn luận ngay. "Ba nhớ khi họ tìm thấy sao Diêm Vương. Đúng tại nơi họ nghĩ rằng nó phải ở đó. Thủy, Kim, Trái Đất, Hỏa", ông đọc tiếp. "Mộc, Thổ, Hải-không, Thiên Vương, Hải Vương, Diêm Vương. Có đúng không?"
"Dạ đúng," tôi nói. Tôi cảm thấy vui vì ông đã không nghe những gì tôi nói về ngôi đền giả. Tôi chỉ muốn nói một cách trung thực, nhưng nó có vẻ bóng bẩy và cao cấp. "Ba nói cho con biết các mặt trăng của sao Mộc."
"A, ba không biết những cái mới. Có cả một nhóm mới, phải không?"
"Hai cái. Nhưng chúng không phải là mới."
"Mới cho chúng ta," ba tôi nói. "Con có vẻ khá tráo trở bây giờ mà bà sắp sửa nằm dưới con dao." 
"Dưới con dao. Cả một biểu hiện."
Ông không nằm trên giường tối nay, đêm cuối cùng của ông. Ông đã được tháo ra khỏi bộ máy, và đang ngồi trong một chiếc ghế cạnh cửa sổ. Chân ông để trần, ông mặc một cái áo choàng bệnh viện, nhưng ông không có vẻ tự giác hoặc không ổn. Ông có vẻ chu đáo nhưng hài hước, một người niềm nở. 
"Ba chưa cho biết tên những cái cũ," tôi nói. 
"Cho ba thời gian. Galileo đặt tên cho chúng. Io.  "
"Đó là một sự khởi đầu."
"Các mặt trăng của sao Mộc là các thiên thể đầu tiên được phát hiện với kính viễn vọng." Ông nói điều này một cách nghiêm trọng, tựa như ông có thể nhìn thấy câu đó trong một cuốn sách cũ. "Cũng không phải là Galileo đặt tên chúng; đó là nguoi Đức. Io, Europa, Ganymede, Callisto. Tất cả đó con."
''Dạ.'' 
"Io và Europa, có phải họ là bạn gái của sao Mộc không ba?" 
"Ganymede là một cậu bé. Một bé chăn cừu? Ba không biết Callisto là ai."
"Con nghĩ cô ấy cũng là một bạn gái," tôi nói. "Vợ của Jupiter - vợ của Jove biến cô thành một con gấu và nhốt cô lên trên bầu trời. Gấu Lớn và Gấu Nhỏ. Gấu Nhỏ là em bé của cô."
Loa phát thanh nói đã hết giờ thăm viếng. "Con sẽ gặp lại ba khi ba ra khỏi thuốc mê," tôi nói. 
"Được."
Khi tôi đi tới cửa, ông gọi tôi, "Ganymede không phải là một người chăn cừu. Anh ta là người hầu rượu của Jove."
Khi tôi rời khỏi hành tinh hệ chiều hôm đó, tôi đã đi qua viện bảo tàng để đến khu vườn Tàu. Tôi nhìn thấy mấy con lạc đà bằng đá một lần nửa, các chiến binh, ngôi mộ. Tôi ngồi trên một băng ghế nhìn về phía đường Bloor. Thông qua các bụi cây trường xanh và hàng rào sắt cao tôi thấy nhiều người đi qua trong ánh sáng mặt trời của cuối buổi chiều. Dù sao chương trình vũ trụ đã mang lại cho tôi những gì tôi muốn - giúp tôi bình tĩnh lại, trút bỏ ra. Tôi thấy một cô gái nhắc tôi nhớ đến Nichola. Cô mặc một chiếc áo khoác và mang một cái túi thực phẩm. Cô ấy thắp hơn Nichola - không thực sự giống cô nhiều gì cả - nhưng tôi nghĩ tôi có thể nhìn thấy Nichola. Cô sẽ đi bộ dọc theo một con đường nào đó có lẽ cách đây không xa - nặng gánh, bận tâm, một mình. Cô là một trong những người trưởng thành trong thế giới hiện nay, một trong những người mua sắm đi về nhà.
Nếu tôi nhìn thấy cô ấy, tôi có thể chỉ ngồi và nhìn, tôi quyết định như vậy. Tôi cảm thấy như một trong những người đã bay lên trần nhà, thưởng thức một cái chết ngắn gọn. Một sự nhẹ nhõm, trong khi nó kéo dài. Ba tôi đã chọn và Nichola đã chọn. Một ngày nào đó, có thể là gần đây, tôi sẽ có tin của cô ấy, nhưng nó cũng sẽ vậy thôi.
Tôi định đứng dậy và đi đến ngôi mộ, nhìn vào các chạm khắc, những hình ảnh bằng đá, khắp tất cả con đường xung quanh đó. Tôi luôn có ý định đến xem và tôi không bao giờ làm. Và lần này cũng vậy. Trời đã bắt đầu lạnh ở bên ngoài, vì vậy tôi vào trong để uống cà phê và ăn một cái gì đó trước khi tôi quay trở lại bệnh viện.
HẾT

Xem Tiếp: ----