Trong một lần, theo nhà văn lão thành Hoàng Văn Bổn về dự đám giỗ ở làng Bình Long. Khu vườn hương hoả của ông chạy dài đến tận mé sông Đồng Nai, con sông lớn nhất miền Đông Nam bộ. Giỗ quảy xong, mọi người về hết, ông rủ chúng tôi ra ngồi bên bờ sông. Ông dõi cặp mắt xa xăm dõi theo cánh lục bình chậm rãi trôi trên sông. Khác với các con sông ở miền Trung lúc nào cũng ồn ào như một sơn nữ tuổi đôi mươi lúc nhảy múa qua các núi đồi, thì sông Đồng Nai là mệnh phụ quí phái và từng trải, nó êm đềm chảy với niềm kiêu hãnh “dòng dõi thuần Việt” của mình. Nó kiêu hãnh cũng đúng, bởi từ nơi nó bắt nguồn đến lúc đổ ra biển khơi, nó nằm hoàn toàn trong lãnh thổ đất Việt. Chúng tôi ồn ào tìm cách xuống sống, nhà văn Hoàng Văn Bổn một người gắn bó máu thịt với dòng sông, vẫn lặng lẽ ngồi nhìn đăm đắm giữa dòng sông. Những tưởng ông đang nghĩ về một đoạn văn nào đó cho cuốn tiểu thuyết mới, nào ngờ than thở với tôi: “Bao giờ cho dòng sông Đồng Nai trở lại bình yên như ngày xưa!” Vừa nói, ông vừa đưa tay chỉ ra các xáng cạp đang thọc đôi hàm sắt thô bạo xuống lòng sông ngoạm hàng khối cát đổ lên xà lan. Không chỉ ở chỗ quê ông, mà cả đoạn sông Đồng Nai dài từ Vĩnh Cữu về Biên Hoà hàng ngày phải oằn mình duới hàng chục xáng cạp hoạt động ì ầm suốt cả ngày đêm. Ngay tại đoạn sông chảy qua thành phố Biên Hòa cũng có một xáng cạp hoạt động liên tục, cứ mỗi buổi nó mang đi một xà lan chở hàng trăm khối cát. Tôi thích những con sông miền Trung hơn, bởi nó nhiệt tình, dại dột và khốc liệt như tính cách người dân ở nơi “ đòn gánh” của đất nước. Lúc đầu tôi ghét cái kiểu quí phái phớt đời của những dòng sông ở miền Nam, nhưng qua văn chương của nhà văn Hoàng Văn Bổn tôi có cảm tình với sông Đồng Nai và dần yêu nó tự lúc nào tôi cũng không nhớ. Bây giờ cứ chiều nào không ra quán Cây Bàng uống ly cà phê đen để ngắm dòng sông Đồng Nai tôi lại thấy nhớ. Nhưng tiếc thay càng nhìn càng buồn, dòng nước mỗi ngày một đục hơn và tanh tưởi hơn với những mùi vị xa lạ với cái mũi có gốc gác nông dân vốn quen với mùi bùn đất của tôi! Cái máy hốt cát giữa dòng sông lạnh lùng thản nhiên hành hạ con sông làm tôi xốn mắt, thường những lúc như thế tôi quay về phía cầu Gành để tránh nhìn cái hàm sắt thô bạo ấy. Những xáng cạp lớn hoạt động công khai giữa bàn dân thiên hạ là của các công ty được cấp giấy phép, còn hàng trăm máy hút cát lén lút hoạt động vào ban đêm. Mỗi ngày người ta đào bới không biết bao nhiêu cát trong lòng sông mà kể. Ông già chèo thuyền ở mé Tây bờ sông Đồng Nai thuộc huyện Tân Uyên nói với: “Vài năm trở lại đây khúc sông này thường xuyên bị sạt lở. Thời gian qua nạn khai thác rộ lên từ cầu Hoá An cho đến ngã ba Vàm. Trước đây bờ sông cách nhà tôi mười lăm mét, nay còn chừng tám mét, nếu tình trạng khai thác tiếp tục như hiện nay thì sẽ có ngày ngôi nhà của tôi sẽ chìm xuống sông!” Ông nói chuyện hiểm họa trong tương lai với thái độ an nhiên tự tại một cách lạ lùng, cứ như một ngày nào đó ngôi nhà của ông thực sự trôi theo dòng nước thì âu cũng là một quy luật vay trả của tạo hoá, bởi chính ngôi nhà của ông cũng được xây từ những hạt cát của con sông này. Nghe ông nói rồi nhìn xuống dòng sông tôi chợt nhớ đoạn văn trong cuốn “Câu chuyện dòng sông ” của Hermann Hesse: “Sông vẫn chảy nhẹ nhàng, thoải mái, tiếng nước reo lên một cách kỳ dị. Con sông đang cười lớn, rõ ràng đang cười lớn” Có lẽ con sông đang cười thật, nó cười sự dại dột của con người không hiểu hết sức mạnh và sự trả thù dữ dội của thiên nhiên Người chèo đò vẫn thản nhiên đưa tôi lướt qua các thuyền nhỏ chở cát đầy ăm ắp. Nóng mặt bởi các ông lớn ngang nhiên “hốt tiền”, nhiều cơ sở nhỏ hàng đêm dong thuyền ra sông thi nhau móc cát tạo nên tình trạng khai thác hổn loạn ở đoạn sông này. Con sông Đồng Nai vốn đã gánh chịu hàng triệu tấn chất thải từ các KCN đổ ra nay phải oằn mình chịu đựng sự đào bới tàn bạo của con người. Theo lời kể của những người dân ở quê hương nhà văn Hoàng Văn Bổn, ngày trước con sông Đồng Nai nước trong xanh còn cá tôm nhiều vô kể, mùa nước lên cá tràn lên đồng sinh đẻ, đến mùa nước xuống hàng đàn cá con bay vun vút xuống dòng sông. Những người dân mang rổ ra hứng. Loài cá này không có tên, theo cách di chuyển của nó, người dân đặt tên là cá bay. Cá bay kho tiêu hoặc hấp lên cuốn bánh tráng ăn với đậu rồng không có gì ngon bằng. Bây giờ cá bay hiếm dần bởi ngay cá lớn đôi khi còn chết trắng sông, huống chi cá con. Trong những ngày đầu tháng 8/2002 vừa qua, trên một nhánh sông Đồng Nai chảy qua phường Tân Mai, TP Biên Hoà có gần một trăm hộ làm nghề nuôi cá bè, có nguy cơ phải bán nhà trả nợ, vì bỗng dưng cá đang độ lớn lăn ra chết hàng loạt! Những ngày ấy nước sông Đồng Nai trở nên đỏ và đục ngầu, sau đó vài giờ, cá phơi bụng trắng lăn trên mặt nước! Bà con ngư dân cho rằng: “Có thể thời gian qua nắng hạn kéo dài nước thải ứ lại tại các mương rãnh từ nhà máy, khi mưa, luồng nước này đồng loạt chảy ra sông hoặc có nhà máy nào đó thải chất nguy hại có nồng độ cao nên cá chết! Nhìn đàn cá chết tôi chợt nghĩ: “Phải chăng dòng sông Đồng Nai đã gởi lời cảnh báo đến với 14,4 triệu dân vùng hạ lưu đang uống nước lấy từ dòng sông này!” Theo điều tra của Sở KHCN &MT Đồng Nai cùng Viện Thuỷ sản thì nguồn nước sông Đồng Nai đang gánh chịu luồng nước thải khổng lồ từ hai trăm nhà máy và gần bảy ngàn cơ sở lớn nhỏ trong và ngoài KCN. Ngoài ra dòng sông còn chịu hàng ngàn tấn chất thải từ sinh hoạt, thuốc trừ sâu, dầu mỡ do các phương tiện giao thông đường thuỷ và hàng trăm xà lan móc cát đang hoạt động trên sông. Hiện nay tỷ lệ colifom trong nước tăng ở mức đáng lo ngại, lượng oxy ở tầng mặt giảm ở mức báo động 0,3 - 3,6mg/ 1000cm. Trên đất Đồng Nai còn có một dòng sông nặng ân tình khác cũng đang nằm trong tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, đó là dòng sông Thị Vải. Trong một lần cùng đi thăm dòng sông với đại tá Lê Bá Ước con người nặng nợ với dòng sông Thị Vải, lần ấy tôi có bài viết ngắn có tựa là “Chuyện ông đại tá và dòng sông đen!”. Bài báo này đăng trên báo Tiền Phong, nhưng nói để mà nói còn nước thải vẫn cứ phải đổ ra sông, chứ biết đổ đi đâu bây giờ? Ông Bảy Rừng Sác tức đại tá Lê Bá Ước, chính uỷ trung đoàn 10 đặc công thuỷ rừng Sác, một thời lừng lẫy. Đó là một con người huyền thoại đã gắn bó với dòng sông Thị vải suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đứng với tôi, ông chỉ tay ngay trên nền cầu cảng và bảo: "Hồi trước, Mỹ ngụy cử một đại đội lính ra đóng quân ở đây chặn đường, không cho đồng bào tiếp tế quân ta. Chúng khủng bố cả tháng liền. Ban đêm chúng rọi đèn tuần tra trên sông cả đêm. Vào các buổi trưa tôi cắm lá cờ ba que trên xuồng, giả làm tàu tuần tra của địch, chạy sát bờ để thị sát. Sau vài lần quan sát nắm được quy luật của chúng. Vào các giờ ăn chúng tụ tập lơi lỏng cảnh giác, tôi cho lính mang theo B41 dộng vô đồn mấy quả. Địch chết vô kể, bọn chúng thất đởm bỏ hẳn bến Gò Dầu cho quân ta hoạt động" Ông chỉ qua bên kia sông, khoát tay một vòng và nói tiếp: "Trước kia anh em đặc công thuỷ rừng Sác sống trong những cánh rừng ấy. Những ngày không được tiếp tế, sống nhờ con tôm con cá trên sông Thị Vải này. Dòng sông nước trong vắt xanh thẳm, cá nhiều vô kể, ở sông này có loài cá nâu, thịt ngọt như cá chim. Sông Thị Vải nước lợ, con tôm to như ngón chân cái, chặt mớ chà bỏ xuống hôm sau kéo lên bắt cả rổ" Nói xong ông buồn bã nhìn dòng sông, dòng sông đen ngòm, đen đến nỗi nhìn từ xa người ta tưởng đó là con đường nhựa, chứ không phải dòng sông. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc, những người nhạy cảm hắt hơi liên tục. Chúng tôi đứng chưa được năm phút người nào cũng có cảm giác cổ bị gắt. Một cán bộ cảng Gò Dầu cho biết, công nhân cảng làm việc phải đeo khẩu trang quanh năm mà người nào cũng bị viêm mũi. Cảng Gò Dầu là nơi có thể tiếp nhận được tàu trên mười vạn tấn nhưng không có nơi ở cho thuỷ thủ. Chúng tôi nêu thắc mắc, ông giám đốc cảng Đồng Nai cười và gượng gạo nói: "Có ai dám ở đây đâu mà xây nhà, dự án có rồi nhưng khi thuỷ thủ nước ngoài đến ai cũng nhăn mặt, lắc đầu…" Thủ phạm làm cho dòng sông đen là những dòng nước thải của hàng chục công ty trong các KCN Long Thành, Nhơn Trạch, Mỹ Xuân. Riêng công ty V. có đến hai ống nước thải có đường kính dài hơn hai mét, ngày đêm tuôn dòng nước đen ngòm ra dòng sông. Việc xả nước thải ra sông hàng chục năm nay, không biết bao nhiêu bài báo lên tiếng, không biết bao nhiêu lá đơn kêu cứu của nhân dân nhưng lần nào ông môi trường về thanh tra cũng khẳng định như đinh đóng cột là:"Không độc hại, không gây ô nhiễm môi trường" Nghe kể chuyện này một nhà văn trong đoàn nói vui:"Cái mũi của mấy ông môi trường khác cái mũi của người thường mình chăng?" Nhìn dòng sông, ngửi cái mùi kinh khủng của nó, một nhà thơ thốt lên:"Tôi sẽ làm một bài thơ phản ánh chuyện này" Mọi người cười ồ, hàng trăm bài báo còn chưa thấm béo nói gì là thơ với phú! Xe khởi hành, một luồng gió đưa mùi hôi xộc vào mũi, đại tá Lê Bá Ước lẩm bẩm:"Hồi ấy hàng tấn bom đạn kẻ thù trút xuống đây dòng sông vẫn xanh thẳm một cách kiêu hãnh vậy mà…" Ông bỏ dỡ câu nói và nhìn đăm đắm về phía dòng sông.” Trước đây tiến sĩ Haroled Jack Day cố vấn dự án AEQM khi về nghiên cứu nước sông Đồng Nai đã đưa ra lời báo động: "Sông Đồng Nai đang trên đà suy thoái nặng. Nếu cứ tiếp tục bị ô nhiễm, dòng sông không thể tự hấp thu lượng thải và sẽ chết dần mòn!" Sông Đồng Nai sẽ chết ư? Một người quen đã cười lớn khi nghe tôi kể lại câu nói ấy, dòng sông làm sao mà chết được cơ chứ, chỉ có con người mới chết, nếu nhà máy đóng cửa, nếu không có việc làm. Không có việc làm thì không có cái ăn, không có cái ăn mới chết chứ! Giọng cười của anh ta cứ ám ảnh tôi mãi, đi trên sông nhìn những ống khói nhà máy phun mù mịt lên trời tôi lại nghe giọng cười ấy. Cố xua tiếng cười bên tai tôi nhìn gương mặt của người chèo đò in trên dòng sông, gương mặt méo mó bởi sự phản chiếu của dòng nước động vẫn không mất đi vẻ thản nhiên, tôi giật mình bởi tôi thấy gương mặt của ông giống như gương mặt của Vệ Sử trong trí tưởng tượng của tôi, khi tôi đọc “ Câu chuyện dòng sông” năm tôi mười tám tuổi, tức cách đây đã hai mươi năm. Người chèo đò ấy đã khuyên Tất Đạt, nhân vật chính của câu chuyện hãy lắng nghe tiếng nói của dòng sông, Tất Đạt đã lắng nghe và chàng đã “ngộ” được lẽ đời! Không biết bây giờ nơi nào đó suốt chiều dài của con sông Đồng Nai vĩ đại và con sông Thị Vải hiền lành, có ai lắng nghe tiếng nói của con nước không? Dù không ai lắng nghe, dù người ta đối xử thế nào đi nữa thì dòng sông vẫn độ lượng bao dung nuôi sống hàng triệu con người trên đường nó đi qua. Nhưng đến bao giờ thì những dòng sông này sẽ chết như lời cảnh báo của tiến sĩ Haroled Jack Day thì còn tuỳ thuộc vào cách con người đối xử với nó.
Biên Hòa 28-10 -2002
N.M

Xem Tiếp: ----