Phần 2

Trái tim khỏe mạnh nhưng đầy tội lỗi và bất kham của kẻ tử tù đã tha hồ tung hoành, tác oai tác quái trong lồng ngực Ninh. Phải rứt bỏ nó ra khỏi đứa con trai tội nghiệp của chúng tôi, thay vô đó một trái tim khác cũng khỏe mạnh nhưng ôn hòa, nhân hậu.
Chuyện của người cha:
Ninh sinh thiếu tháng. Ninh ra đời khi thai kỳ vợ tôi mới tròn tháng thứ bảy. Lý do sinh non là vì vợ tôi bị té lúc đang đạp xe trên đường, cơ thể của cô ấy yếu quá nên mới xảy ra nông nỗi. Lúc sinh ra, Ninh cân nặng một ký hai năm chục, một trọng lượng làm tất thảy mọi người đều hốt hoảng lo ngại. Nhất là trong bối cảnh Sài Gòn mới giải phóng được một năm, đất nước còn nhiều thiếu thốn về mọi mặt, kể cả y tế. Đã vậy, Ninh còn bị bệnh tim bẩm sinh. Do đó, tôi cố gắng sắp xếp để vợ tôi nghỉ hẳn việc ở nhà, chỉ còn chăm chú cho việc nuôi nấng săn sóc đứa con đau yếu tội nghiệp.
Thời điểm đó thì đây là một quyết định rất phi thường, huống hồ cuộc sống gia đình tôi chẳng phải khấm khá gì. Vợ tôi đã suy nhược sẵn, con sinh ra lại bệnh triền miên nên cô càng đuối sức; rốt cuộc, cô ấy bị mất sữa, phải nuôi con bằng sữa ngoài. Tuổi thơ của Ninh trôi qua phần lớn trong bệnh viện, những trận cấp cứu thường xuyên như cơm bữa. Theo năm tháng Ninh lớn lên, trái tim bệnh tật trở chứng vô chừng. Đến nỗi dần dần, các bác sĩ, y tá cho tới hộ lý ở khoa nhi bệnh viện đã trở nên nhẵn mặt, “phát chán” gia đình tôi.
Tôi làm quần quật lo cho thân mình đã khó, nay lại phải cáng đáng thêm vợ, con. Khổ cực, thiếu thốn trăm bề. Ngỡ như có phải làm trâu đi cày mà được trả tiền thì tôi cũng chẳng sá. Tôi đã trải qua đủ thứ nghề, kể cả những nghề bây giờ hoàn toàn "tuyệt chủng", không còn thấy ai nhắc nữa.
Ở đây, chỉ xin kể hầu bạn đọc một vài nghề tiêu biểu. Chẳng hạn như có một dạo - vào khoảng những năm 80, một trong số những ông anh bà con của tôi bỏ một ít vốn đứng ra thu gom giá rẻ những vỏ xe tải hư, cũ. Ông ấy đem về phân loại, rồi thuê người có sức khỏe cắt, xẻ, pha ra thành từng "phiến", sau đó giao lại cho các thợ gia công. Những người thợ - trong đó có tôi - dùng một bộ đồ nghề tự chế tỉ mẩn tỉa tót, chế biến thành những đế dép với đủ loại hoa văn. Sau đó, những đế dép này được đem đi gắn quai dây dù, trở thành những đôi dép cao su tuy dày cui, nặng nề nhưng cực kỳ bền chắc, rửa nước thoải mái, có đủ kiểu dáng cho đàn ông, đàn bà, trẻ nít. Những đôi dép mà yếu tố thời trang tuyệt đối bị gạt sang bên, người đeo thấy chán thì quăng bỏ chứ chẳng đời nào hư. Một thời, hàng bán khá chạy vì tính "trường kỳ kháng chiến", đáp ứng cặn kẽ cho một thị trường phục vụ những con người kham khổ, chủ trương ăn chắc mặc bền. Mãi tới khi dép nhựa đủ màu ra đời, rồi "dép Lào" xốp mềm nhẹ nhõm tràn ngập các sạp hàng ở chợ, loại dép cao su "nặng ký" này mới thoái trào.
Tôi chuyển qua nghề mài kính. Nhận hàng qua sự giới thiệu của một người quen, từ một cơ sở sản xuất kính bảo hộ dùng cho thợ hàn. Cũng là một sự tận dụng: từ những mảnh kính màu có kích cỡ, hình dạng, phẩm chất không phù hợp (được thu mua với giá rẻ), phải tốn công sức và thời gian mài lại để có thể đưa vào sử dụng. Giá cả gia công thật bèo bọt, phải làm hoàn toàn bằng tay qua rất nhiều công đoạn như: mài phá, mài tinh, mài bóng... trên các loại đá mài và giấy nhám có độ mịn khác nhau. Chưa kể trong quá trình mài mà làm hư hay bể (rất dễ bể) thì phải đền tiền nguyên liệu rất nặng. Nhưng không làm thì đói, không làm thì có kẻ khác chờ chực sẵn giành ngay mất việc, nên tôi đành phải mắm môi mắm lợi oằn lưng. Bàn tay tôi cứ vậy bợt đi, răn reo nứt nẻ, da mòn tứa máu. Cặm cụi, kỳ cạch, cắc ca cắc củm.
Cơn sốt mài kính tan rã cũng là lúc tôi vớ được nghề uốn dây kẽm gai. Với nghề này, chủ cơ sở mua rẻ được những bó dây kẽm gai từ các cơ sở thu gom phế liệu - nhiều nhất là từ việc dỡ bỏ hàng rào các ấp chiến lược, những khu quân sự ngày trước. Họ giao cho các nhân công từng bó lớn, được tính bằng vài chục ký tới cả trăm ký. Nhân công đem về, dùng những đồ nghề tự tạo để gỡ gai trên dây kẽm, sau đó nắn thẳng, cắt ngắn ra từng đoạn phù hợp (loại bỏ những đoạn bị sét gỉ), rồi uốn lại thành những đầu móc của sợi "dây ràng". Hàng giao lại cho chủ cơ sở đếm cái tính tiền - cũng rẻ bèo, rất tệ so với công sức bỏ ra. Hết dây kẽm gai thì ký sổ nhận dây mới. Cần phải ghi chú thêm rằng thời đó, sợi dây ràng chưa màu mè, kiểu cọ, đẹp đẽ như bây giờ, chủ yếu chỉ dùng cao su ruột xe cắt ra thành sợi, gắn móc hai đầu - cũng một kiểu ăn chắc mặc bền khác. Nghề nào cũng vậy, trăm hay không bằng tay quen. Khi bàn tay tôi bắt đầu chai sần vì công việc cũng là lúc năng suất tăng dần, thu nhập khấm khá hơn. Nhưng có một quy luật tất yếu, nghiệt ngã: chính đó cũng là lúc phong trào từ từ suy thoái, hàng làm ra mất dần người tiêu thụ, cơ sở càng lúc càng lụn bại, èo uột, nhân công thất nghiệp thi nhau bỏ việc, chạy lo xoay xở, tảo tần nghề khác.
Tuy nhiên, chính trong những ngày vất vả uốn móc sắt, tôi vô tình gầy dựng được mối quan hệ tốt đẹp đầu tiên cho nền tảng sau này. Nhiều lần tới tổ hợp gia công nhận kẽm gai, giao móc sắt, tôi quen được với Út Hơn, con trai ông chủ cơ sở mua bán sắt thép phế liệu. Ân nhân này - vì quý mến và cảm thông cho hoàn cảnh của tôi - đã lôi tôi về làm chiến hữu, mở ra cho tôi những đường hướng làm ăn mạnh dạn và lớn lao hơn gấp nhiều lần, so với những công việc chân tay lượm bạc cắc mà tôi đã từng trải nếm.
Tôi thơ thới đạp bỏ quá khứ nhọc nhằn, tận tụy theo chân Út Hơn rong ruổi khắp các nẻo đường từ miền Tây sang miền Đông, ở đâu có dấu vết chiến tranh để lại thì ở đó có mặt chúng tôi. Những đống sắt thép - vốn là tàn dư những thứ vũ khí khủng khiếp trong cuộc chiến - trở thành mỏ vàng của dân thu gom. Thời buổi khó khăn, đất nước còn nhiều vấn đề ngổn ngang cần được ưu tiên giải quyết trước, phế liệu chiến tranh như lãnh địa tạm thời bị bỏ ngỏ, kẻ nào nhanh tay quơ quào thì kẻ đó dễ bề nặng túi. Sau mỗi chuyến đi trở về, tôi kha khá tiền để dúi tay vợ lo cho con, còn dư dả để sắm vàng, từng chỉ góp dần thành cây, gói kỹ, bỏ lon sữa bò chôn dưới chân cột nhà.
Có lẽ tôi cũng chưa dứt khỏi cái nghề thu gom phế liệu đó nếu không xảy ra một biến cố kinh hoàng. Đó là lần tôi cùng Út Hơn đi thu gom hàng ở Phước Long, Sông Bé (tức Bình Phước bây giờ). Chuyến hàng oan nghiệt có lẫn một quả mìn trong đống mảnh vụn sắt thép đã bất ngờ phát nổ. Thật đúng như ông bà xưa nói "Sinh nghề, tử nghiệp", Út Hơn chết bất đắc kỳ tử, không kịp nói với tôi hay với bất cứ ai nửa lời trăng trối, thân xác chẳng còn được mảnh nào trọn vẹn. Tôi đã cùng với gia đình anh tổ chức tang lễ trọng thể, sau đó đưa hỏa táng những phần thi thể còn lại, rồi đem tro cốt vào thờ trong chùa. Cái chết của Út Hơn đã gây cho tôi nỗi đau đớn, xót xa, như lòng tôi bị một vết thương khó thể lành miệng. Tôi đau buồn tới mức quyết định bỏ nghề.
Mười hai năm tiếp theo, vợ tôi tiếp tục một mình xoay xở lo cho Ninh, để tôi hoàn toàn rảnh rang bươn chải làm ăn. Đã dành dụm được chút vốn, tôi mở một cửa tiệm nhỏ buôn bán sắt thép xây dựng. Công việc làm ăn thuận lợi, vốn liếng của tôi phình to dần. Dĩ nhiên, trên bước đường tôi đi, không tránh khỏi những cuộc bon chen, so kè từ những kẻ ganh đua, chọc phá. Nhưng, giống như được Út Hơn phù hộ, bao giờ tôi cũng có đủ tâm sức và bản lãnh vượt qua, để cuối cùng, mọi xung đột căng thẳng cạnh tranh gay gắt đều hóa giải được. Kết thúc chặng đường mười hai năm, tôi trở thành một trong các đại gia mua bán sắt thép khá hùng mạnh trên thương trường. Tôi đã có đất đai, nhà xưởng, phố lầu, xe hơi, đã lo được cho vợ con một đời sống sung túc, dư dả. Thì bỗng nhiên căn bệnh tim của Ninh bùng phát cơn nguy kịch.
Ninh năm đó mới vào tuổi mười chín, lứa tuổi thanh xuân tươi đẹp. Đứa con trai duy nhất tội nghiệp của tôi, vì bệnh tật nên vẫn chưa tốt nghiệp xong trung học phổ thông. Suốt bao năm qua, nó sống hầu như trong cô độc, bởi lẽ không thể lớn lên bình thường như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác. Ước mơ một thời thơ dại của nó - có lẽ chôn vùi quẩn quanh đâu đó giữa bốn bức tường bệnh viện... Bây giờ, nó nằm đó, thoi thóp trên giường bệnh giữa những dây nhợ, chai lọ, máy móc, thuốc men.
Thời gian tuyệt vọng đếm lùi... Ninh. Nó là tất cả tình yêu thương, niềm hy vọng, là mục tiêu phấn đấu của sự nghiệp, tiền tài, là hạnh phúc mà vợ chồng tôi theo đuổi, cả đời hướng tới. Chỉ còn một cách cuối cùng, nếu khả thi sẽ là tia sáng ở đáy đường hầm. Tôi và vợ bám lấy lời ông bác sĩ như người chết đuối bám cọng cỏ rỗng làm phao. Chúng tôi không tiếc bất cứ điều gì để đổi lấy tính mạng cho Ninh. Bác sĩ trầm giọng: "Có lẽ phải thay tim!". Vấn đề không chỉ là tiền, không chỉ là việc thành lập một ê-kíp phẫu thuật cực giỏi có thể đảm đương công việc nặng nề, mà chính là một trái tim. Chúng tôi rất cần một trái tim khỏe mạnh.
Một trái tim khỏe mạnh. Nhưng... Ở đâu? Ở đâu? Ở đâu?
Chạy đua với thời gian, chúng tôi rao tìm khắp nơi, qua nhiều người, với nhiều phương tiện, bằng nhiều cách. Tất cả đều chỉ dừng lại ở những lời hứa, trong khi tình trạng của Ninh mỗi ngày một thêm nghiêm trọng. Ánh sáng tận đáy đường hầm càng lúc càng thêm lu mờ, xa tắp. Tuyệt vọng, buồn bã, không nơi cậy dựa tinh thần, tôi lầm lũi đưa vợ tới thắp nhang ở ngôi chùa nơi để hũ tro cốt của Út Hơn. Chính ở đó, vợ tôi tình cờ quen biết một người đàn bà. Người đời quả không sai khi nói: không nỗi đau nào dễ được cảm thông hơn nỗi đau của người mẹ.
Nghe hết những lời nức nở tâm sự của vợ tôi, người đàn bà kia tỏ ra vô cùng xúc động. Hồi lâu, bằng một giọng trầm khàn u uất, bà cay đắng kể chuyện mình – câu chuyện mà bà ngỡ như sẽ mãi đào sâu chôn chặt trong tim. Thì ra, bà tìm tới nơi này để tụng kinh khấn Phật, cầu xin đấng thiêng liêng rửa sạch những tội lỗi cho con. Con trai bà là một thanh niên hăm lăm tuổi mang án tử hình vì tội cướp của, giết chết ba mạng người vô tội - hai ông bà già và một đứa trẻ lên sáu. Án đã tuyên y sau ba lần xét xử, và sẽ được thi hành trong vài ngày tới. Nỗi đau đớn tận cùng của bà là nỗi đau của người không còn nước mắt để khóc. Đôi mắt bà trống rỗng, âm u. Vợ tôi đã ngồi lặng lẽ bên bà suốt cả buổi chiều. Không một lời nào được thốt ra. Chỉ có bàn tay người này nắm lấy tay người kia, và những cái siết nhẹ. Đầy cảm thông.
Và rồi, tất cả những chuyện xảy ra tiếp theo đều vượt khỏi mọi dự định, suy nghĩ, toan tính của chúng tôi. Người mẹ của tử tội đã thuyết phục được con trai mình hiến cho Ninh trái tim khỏe mạnh của hắn trước khi bị tử hình. Bà khuyên hắn hãy coi hành động đó như một điều thiện cuối cùng, một lời tạ tội sau chót với đời, để mong hóa giải phần nào gánh nặng tội lỗi kinh hoàng của kẻ sát nhân... Mong muốn đó của bà được thực thi – không kèm theo bất kỳ điều kiện nào. Trở thành ơn nghĩa vô biên mà chúng tôi nghĩ sẽ không bao giờ trả hết. Như nỗi niềm day dứt khôn nguôi, sau khi Ninh được thay tim và nhanh chóng bình phục, bà lặng lẽ bỏ đi. Vợ chồng tôi đã cho đăng những lời cám ơn trên báo, đài, và nhắn tin tìm kiếm khắp nơi, nhưng tuyệt nhiên không có hồi âm. Ân nhân của chúng tôi đã hoàn toàn mất dấu.
Trái tim mới đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời Ninh. Từ đứa con trai bệnh hoạn, rụt rè, yếu ớt, cô độc... Ninh như lột xác thành người khác: khỏe mạnh, dạn dĩ, quyết liệt, giỏi xã giao... Chúng tôi vui vẻ dễ dãi, bật đèn xanh cho tất cả những gì Ninh muốn, Ninh đòi hỏi. Chúng tôi cố gắng đền bù cho Ninh những năm tháng thiệt thòi, thiếu thốn, khổ sở. Tốt nghiệp mười hai, Ninh thi vô đại học thiếu bốn điểm. Tôi buộc phải chạy vạy để kiếm chỗ cho nó học tiếp, nhưng Ninh tỏ thái độ không vừa ý. Chiều con, tôi bỏ tiền lo một suất du học ở Úc. Gởi gắm bạn bè, người quen (từ quen thân cho chí quen sơ) bên đó, tôi biết Ninh học thì ít mà đua đòi ăn chơi thì nhiều. Nhưng ạch đụi mãi rồi cũng phải xong, bốn năm sau Ninh tốt nghiệp trở về. Chúng tôi trích vốn, giao cho Ninh để thành lập một công ty - hoàn toàn do nó làm chủ.
Trái với mong đợi của chúng tôi, Ninh càng ngày càng tệ hại. Thay vì chăm chỉ làm ăn, gầy dựng cơ nghiệp, nó mải mê sa đà vào những trò trác táng, hoang đàng, quậy phá. Công ty của nó hoạt động chẳng mấy chốc đã sập tiệm, lún trong nợ nần. Nó bị thưa kiện vì huy động vốn vô tội vạ, suýt nữa bị đi tù nếu tôi không đứng ra bảo lãnh và trả nợ thay. Ngoài ra, nó còn dây dưa cả mớ với những mối tình theo kiểu mua vui qua đường, một vài trong số đó để lại hậu quả. Chính vợ tôi (không chỉ một lần) phải đứng ra dàn xếp. Nó từng đi cai nghiện hai lần. Từng qua tận Ma-cao, rồi cả Gen-ting (Malaysia) để nướng vào casino vài chục ngàn đô chỉ trong vài đêm. Tóm lại, nó gom đủ thói xấu trong tứ đổ tường. Tôi bàng hoàng nhận ra chỉ qua bảy năm kể từ ngày thay tim, hầu như toàn bộ bản chất bên trong con người nó đã trở nên hư hỏng, tác tệ, thối nát.. tới mức không còn tường tận nổi. Thậm chí ngay cái vỏ bên ngoài, càng về sau cũng càng bị nó làm cho xa lạ, biến thái. Nhiều lần, vợ chồng tôi đã thất vọng đến nước chỉ muốn từ bỏ nó.
Cho tới một hôm, Ninh bị bắt vì tội đua xe hơi trái phép trên xa lộ, sau một chầu quậy phá mát trời ông địa trong một bar cao cấp ở khu trung tâm thành phố. Xe sau đó bị tịch thu, còn Ninh bị xử ba năm tù treo, bị phạt tiền, bị đưa đi lao động công ích sáu tháng. Tệ hại hơn, vì “thành tích” hối lộ cảnh sát không thành, gương mặt Ninh liên tục bị đưa lên báo, đài kèm hàng loạt những thông tin đen. Trong đó, người ta không quên day dứt vợ chồng tôi, những đấng sinh thành kém cỏi chỉ biết làm giàu (nứt đố đổ vách) mà không biết dưỡng dục con.
Không thể làm ngơ, chúng tôi thống nhất với nhau phải áp dụng nhanh cấp kỳ giải pháp thay thế. Rõ ràng, trái tim khỏe mạnh nhưng đầy tội lỗi và bất kham của kẻ tử tù đã tha hồ tung hoành, tác oai tác quái trong lồng ngực Ninh. Phải rứt bỏ nó ra khỏi đứa con trai tội nghiệp của chúng tôi, thay vô đó một trái tim khác cũng khỏe mạnh nhưng ôn hòa, nhân hậu. Không chỉ vấn đề tiền, không chỉ là việc thành lập một ê-kíp phẫu thuật có tay nghề thượng thặng, mà là một trái tim. Chúng tôi rất cần một trái tim vừa khỏe mạnh, lại vừa tốt đẹp, trong lành.
Một trái tim tốt đẹp, trong lành. Nhưng... Ở đâu? Ở đâu? Ở đâu?
Thần may mắn dường như lại mỉm cười thêm lần nữa khi cuối cùng, chúng tôi đã tìm được người hiến tim có đầy đủ những yêu cầu cần thiết. Một cậu trai trẻ hiền lành, nhu thuận, hiếu thảo, trong trẻo như suối nguồn. Chuyện còn lại bây giờ chỉ là thuyết phục Ninh thuận tình.