Phần 1

Chú chuột đã nằm chết bơ vơ giữa cánh đồng đang dạo mùa gặt xôn xao…
Anh đã chết khi mùa xuân về vội vã trên những lộc biếc sáng nay vừa khai mở hội tiêu tao…
Thật ra thì anh không biết xuân về nếu cô em gái nhỏ không vừa cười vừa ùa vào lòng anh náo nức: “Hai ơi! Những cánh lay-ơn đã ra hoa rồi kìa!” Ừ, thế là năm nay cây ra hoa sớm. Mọi năm anh vẫn chọn rất đúng ngày để hoa mãn khai vào đêm giao thừa. Cũng là hay, biết đâu đấy, anh chẳng kịp đón Tết cùng nhà mình vào giao thừa năm nay. Anh phải đi, tìm về mùa xuân nơi chốn hẹn…
Anh nghĩ mình sẽ chết vào mùa xuân năm nay. Bởi từ lâu anh không còn hy vọng gì về cuộc tìm kiếm của mình – cuộc tìm kiếm vô vọng. Đã bao lần anh về nơi đó, ở cả ngày để ngắm hoa rơi tan tác trên đồi, trong gió, và chờ cô quay trở lại. Năm nay anh quyết định sẽ về và ở hẳn đó trong 3 ngày Tết, trong ngôi nhà mà anh đã từng có những tuần lễ hạnh phúc nhất đời mình…
Chuyến ấy anh về Sapa, để viết bài về chợ Tình. Những con đường bụi mù, trở thành nhầy nhụa khi mưa xuống làm anh thật sự không hăng hái nhiều lắm khi đặt chân đến. Hai đêm quẩn quanh, anh không viết được gì cả. Anh không thấy gì để viết nữa. Những nam nữ thanh niên vẫn dìu dặt khèn sáo, nhảy múa… Những đứa bé đen nhẻm được địu trên lưng mẹ, mở đôi mắt to thao láo nhìn anh mỗi khi anh gặp, khiến anh thấy khó chịu, cảm giác mơ hồ thoáng qua là anh thấy mệt lòng khi nghĩ đến. Nhà anh khá đầy đủ để anh có thể cảm thông nhiều với chúng. Thâm tâm anh, anh cảm thấy mình là người đôi khi thừa thãi nữa. Anh làm công việc này không phải vì mưu sinh, chỉ vì thích được đi nhiều. Nhưng càng đi, hình như anh càng thấy mình thiếu điều gì đó. Là người không hay chia sẻ nên anh không có nhiều bạn. Người yêu thì thời Đại Học anh quen với Vân - cô gái gia thế đàng hoàng, học rất khá, xinh xắn, lại thêm dịu dàng và rất thương anh. Nhưng không đi đến đâu. Anh chia tay vì thấy mọi thứ trong cô hình như đã được lập trình sẵn, và mọi cung bậc tình cảm cứ nhàn nhạt, êm êm…
Đang tần ngần không biết nên đi hay nên ở thêm vài ngày, biết đâu có điều gì mới chợt đến thì sao, anh nhận được điện thoại của thằng bạn lúc thực tập chung ở toà báo khi trước. Quen nhau lâu lắm rồi, hắn cũng chẳng mấy khi điện cho anh. Nghe giọng hắn bên đầu dây bên kia có vẻ nhiệt tình và xăng xái lắm: “ Này, cậu lên mà chẳng báo cho anh em biết nhé!... Mình làm ở đây cũng được gần năm rồi, lương chẳng bao lăm, được cái không ganh đua gì hết, tành tành… Không biết đi đâu à? Mình biết đấy, có một bản người Thượng chuyên nghề thổ cẩm bằng tay, làm không nhiều đâu nhưng cái nào là tuyệt vời cái ấy nhé! Cậu có viết chơi, thì hôm nào mình dẫn cậu về chỗ ấy, hơi thú vị đấy!...”
Hai hôm sau, anh có mặt ở bản Meklong - tên của bản ấy - vào một sáng sớm. Bản nằm khá cao và biệt lập, giữa một ngọn núi với cái tên mà anh chẳng thể nhớ nổi cho mãi về sau này. Những cây lớn khá lạ nằm hai bên đường như đứng chào anh, khuôn mặt già nua bị lấp mờ bởi làn sương lạnh tựa khói bảng lãng lặng im. Anh đi hơi khó khăn, nhưng không quên nhìn khung cảnh lạ. Màu hồng nhạt của tinh mơ ướm lên cỏ cây một thứ ánh sáng kì lạ, không hẳn đã trong veo, nhưng mang một phong thái xa xôi khác biệt. Những gam màu không tên huyễn hoặc bước chân anh nhiều hơn khi lên gần đến nơi. Phóng tầm nhìn xa khơi, phía dưới là những chấm màu xanh dịu êm, những lối đi ẩn hiện, những cành hoa dại bé nhỏ trải vàng khoảng đồi, nằm yên lặng thanh bình như từ thuở nào đã thế… Anh nghe bước chân mình rón rén hơn thường bận… Hình như có tiếng cười vọng lại, anh quay đầu, nhìn thấy hai cô gái mặc áo dệt bằng thổ cẩm, lưng mang gùi nhỏ, đang đi xuống bằng một con đường nhỏ phía bên kia. Đập vào mắt anh là cô gái đi trước, dáng bước khoan thai nhưng dứt khoát, nụ cười khoe hàm răng trắng tự nhiên làm sáng cả khuôn mặt choàng hờ một chiếc khăn voan mỏng màu xanh nơi cổ, phất phơ theo gió nhẹ. Anh mỉm cười, lòng vui vui, tiếp tục leo lên. Có cảm giác mình bị nhìn lén, anh quay lại nhưng thấy cô gái vẫn bước đều chân, quay sang nói điều gì đó với cô gái bên cạnh, cười rúc rích…
Vừa đi vừa nói chuyện, Tân, bạn của anh mới cho biết là trước đây trong một lần lạc đường, xuýt ngất xỉu vì đói, hắn gặp người trong bản rồi từ đó trở thành người quen của Meklong luôn. Tân rất thạo đường đi, dẫn anh thẳng đến nhà trưởng bản, réo ầm ĩ từ khi mới đặt chân lên chiếc thang gỗ:
- Ơ, già làng ơi, có người muốn viết về bản ta đây này…y…ỳ…
Anh hơi ngượng trước lời giới thiệu ồn ào đó, chắc gì đã viết, nhưng thái độ trầm nghị của cụ già làm anh thấy thoả mái hơn. Rót một chén nước chè đặc sánh, cụ mời anh bình thản:
- Anh uống nước đi!
- Cụ thức giấc sớm quá!
- Quen rồi anh à, từ khi biết nhớ đến giờ, già đều dậy từ khi gà gáy sớm…
Câu chuyện chợt chìm vào thinh lặng khi anh ngỏ ý muốn viết về bản và nghề thủ công của mình. Sau này thì anh biết vì sao như vậy. Bản thi thoảng cũng có người đến, hoặc vì mua hàng, hoặc vì muốn biết về nghề để giới thiệu, hầu hết được đón tiếp tử tế nhưng đều chỉ đến một lần rồi thôi, không bao giờ quay lại, chẳng hiểu vì đâu. Dân làng kháo nhau rằng hình như có một lời nguyền nào đó của bản….
Buổi tối khá buồn vì Tân đã ngồi bên bàn ruợu với mấy cụ trong bản. Anh đi xuống lưng chừng dốc, chỗ khi sáng anh để ý vì có một cội cổ thụ ở đó, với những tán lá xoè thấp, quá đầu người một chút, xung quanh là một gò hoa dại mọc thoả mái. Anh ngồi im lặng, nhìn vào khoảng không gian trải dài trước mắt. Gói thuốc lá anh đem theo đã vơi. Tự dưng anh nghĩ về Vân. Cô đã đi khỏi anh và anh không nghĩ nhiều về sự chia tay ấy. Đôi khi anh cũng tự trách mình sao quá vô tình đến mức xem một người yêu thương bước qua nhẹ nhàng đến thế!? Cô không có gì không phải với anh hết, nhưng hình như anh chán sự tự hài lòng của cô đến lạ. Tựa như từ khi nào đến giờ, chua một lần cô nghĩ: “Sao mình lại sinh ra trên thế giới này nhỉ?”… Anh mỉm cười,( như thấy mình lẩn thẩn quá! ), rồi nhẹ bật quẹt, im lặng nhả khói. Anh có thói quen hơi ngửa đầu, hơi nhắm mắt khi hút thuốc. Trong một thoáng thật nhanh, đầu óc bỗng trống rỗng thật sự, khi trí nhớ hoá mông mênh, lùi sâu trong sự tập trung vô ưu. Anh thích những khi như thế, tất cả mọi khái niệm, kí ức, buồn vui … đều như không còn ý nghĩa nào, anh là anh trọn vẹn, hoang sơ…
Nhưng hôm nay, khi hơi ngửa mặt lên, đôi mắt lim dim của anh bỗng in hình một bóng trắng thấp thoáng trước mặt.
- Hình như anh không thấy vui?
Hơi ngạc nhiên, khi thấy cô gái nói tiếng Kinh rất sõi, anh trả lời, như trong cơn mê vây bọc:
- Cô không phải là người ở bản?
- Em là người Kinh, nhưng sống đây từ khi lọt lòng.
Aùm ảnh của cô là đôi mắt rất to, và đôi váy trắng điểm hoa nhỏ li ti quá gối, hơi xoè, trông cô bé nhỏ, thanh nhã và hơi xa cách. Làn da của cô không trắng như những cô gái miền xuôi khác, hơi rám nắng, nhưng không nâu như các cô ở bản này, anh nghĩ. Nhìn kỹ hơn, anh trông cô quen, tựa đã gặp đâu đó một lần. Nét nhìn vời vợi này, đôi mắt như biết cười này… Anh ngờ ngợ, và rồi nhớ ra, anh đã gặp cô ban sáng, là người có nụ cười làm anh thoáng giật mình. Anh hỏi:
- Còn cô bạn kia của cô đâu?
- Lam hả? Nó đi ngủ từ sớm, vì mai còn xuống chợ phiên. Cô nói, và khẽ đỡ váy, ngồi xuống bên cạnh anh, hồn nhiên. Im lặng rất lâu, cả cô và anh. Cô nhìn xa, đôi mắt tinh anh lấp loáng trong đêm, rồi mở lời, như tự bạch:
- Tôi đã yêu cái chỗ ngồi này, mỗi đêm trăng lên, từ trước khi anh đến (dường như cômuốn giải thích lí do cô đến đây). Ngày mẹ tôi mất, tôi đã đứng trên triền dốc này, và nhìn xuống đoàn người tiễn mẹ tôi đi. Tôi đã khóc một mình, hình như rất lâu, không rõ nữa, như lúc bố tôi mất sau đó hơn năm. Thuở ấy tôi còn bé lắm, chắc 15, 16 tuổi gì đó. Tôi thích đến đây một mình để ngồi và nhìn về phía ấy. Có những bận, tôi nghĩ; “ Chắc mình rồi cũng sẽ ra đi như vậy, vào một ngày nào không biết nữa, chẳng rõ lúc đó có ai đứng nhìn từ đây như tôi đã nhìn mẹ và bố tôi không?”. Rất nhiều lần, tôi muốn rời khỏi bản này, đi thật xa, thật xa, đến một nơi không còn kỉ niệm nữa, không còn hình bóng của mẹ tôi, bố tôi và những ngày thơ dại của mình. Anh có bao giờ nghĩ như thế là giải pháp tốt không? …Aø, anh tên gì ấy nhỉ? … Tôi là người duy nhất ở bản này, biết đàn, hát và cách sinh hoạt của người dưới xuôi…
Anh lặng im ngồi nghe cô nói, trăng hạ huyền phủ lan bàng bạc mơ màng lên khuôn mặt hình trái xoan buồn buồn, làm nên một bức tranh mênh mang, huyền diệu những hư thực mơ hồ của bóng tối và ánh sáng trộn lẫn nhạt nhoà. Anh nhìn vào đôi mắt cô, sáng lóng lánh như một vì sao lạ trong bóng tối. Anh thích nhìn những vì sao khuya. Những đêm ngồi trong phòng riêng, bên khung cửa sổ kiểu Pháp mà anh tự vẽ mẫu, anh thường ngước nhìn qua bên kia khung cửa vào bầu trời xa. Hàng triệu triệu tinh cầu đang nhấp nháy thầm lặng, vẫn sáng mỗi đêm, mỗi ngày nhưng ngưòi ta chỉ đặt tên cho một số. Bản thân mình, anh không bao giờ nhìn vềphía sao Bắc Đẩu, bởi anh thích những vì sao lạ, hình như chúng có một ánh sáng riêng, Chúng có thể bé nhỏ, ít ai chú ý, mặc kệ, thế nhưng đấy là ánh sáng của riêng anh. Anh dường như cảm thấy vì sao ấy chỉ thuộc về mình, chỉ có mỗi mình anh nhìn nó, và nó như cũng biết rằng có người đang dõi theo mình từ xa xôi tỷ năm ánh sáng. Những đêm như vậy anh thường ngồi giữa tịch hạp chon von mà nghe nhạc tiền chiến với tách trà đắng hoặc ly vang nhỏ, và mơ màng ngủ thiếp đi, giữa ánh sáng của đêm đang soi thấm vào người. Đứa em gái nhỏ của anh, thường ngước đôi mắt trong nhìn lên vầng trán rộng của anh và hỏi:” Hai này, sao Hai cứ hay ngủ bên cửa thế, lạnh lắm, ốm đấy!” Mỗi lúc như thế, anh thường ẵm con bé lên đôi cánh tay mạnh mẽ của mình, hôn vào trán nó, dịu dàng: “ Vì Hai cảm thấy cả vũ trụ đêm tụ hội trong con ngưòi mình, nhóc ạ! Có những điều ngưòi ta làm không thể chỉ vì sợ đau ôùm đâu! Lâu lâu nữa, lớn lên, nhóc sẽ biết! “… Cô nhóc nhìn anh, vẻ hơi khó hiểu, lại muốn cho ngưòi ta thấy rằng mình hiểu, trả lời: “ Em hiểu rồi, Hai đang cô đơn!” Anh nhìn mình sâu trong đôi mắt cô bé, khá lâu, hơi ngơ ngẩn, rồi nhẹ nhàng đặt em xuống, vỗ vỗ vai: “ Nhóc chưa lớn đâu, nên nói không đúng rồi.” Anh đi lên phòng mình, trong ánh nhìn theo phụng phịu của cô nhỏ 12 tuổi…
Tiếng cô gái làm anh không kịp nghĩ thêm:
- Anh nhớ đến cô nàng nào dưới TP rồi phải không?
- Ừ, một cô nàng…12 tuổi, em gái tôi!
Hai tiếng cười giòn hoà chung vãi vào không gian một chút gì ấm cúng, toả lan mênh mông…
Sau hôm ấy, anh không gặp lại cô gái cho đến 4, 5 hôm sau, lúc anh chuẩn bị về lại. Anh đang ngồi trong chỗ của mình ở góc nhà rông, nơi trưởng bản dành cho khách, thì cô gái bước vào (anh vẫn chưa biết tên cô). Cũng tự nhiên như lúc gặp nhau lần đầu, cô đặt vào tay anh một chiếc khăn trắng thêu những bông hoa màu xanh nho nhỏ, nói chậm rãi:
- Tặng anh đó! Anh lên đường bình anh nhé!
- Cảm ơn cô! Anh vẫn chưa hết ngỡ ngàng.
- Không có chi! Anh có trở lại bản này không?
Cô nhìn thẳng vào mắt anh, vẻ mặt nghiêm túc, khiến anh hơi bối rối:
- Tôi sẽ trở lại.
Nói xong, anh cảm thấy mình quá vội. Có ai biết, anh sẽ viết được gì sau chuyến đi này? Bao giờ thì anh có đủ thời gian và lòng nhiệt tình để trở lại đây, nằm trên sàn gỗ cứng ngắc, lạnh tê của đêm miền núi ở cái bản xa xôi này? Anh nhớ những đêm nằm bên tấm nệm nhỏ, phủ drap trắng điểm hoa xanh (đến lúc này anh mới nhớ, hình như “gu” thẩm mỹ của cô cũng giống anh) và nghe Sỹ Phú hát “ Thà làm giọt mưa” với mấy cuốn sách anh đọc đi đọc lại của Andre Gide, Anbert Camus, Saint E’peury… mà anh đã lùng kiếm rất công phu trong mấy tiệm sách cũ ở Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Nhân Tôn…
Nghĩ đến đó, anh vội chỉnh lại câu nói của mình:
- Công việc của tôi bận rộn nhiều lắm, có thể là rất lâu tôi mới trở lại. Mong cô bình an! A, cô tên gì nhỉ?
- Khánh. Phong Khánh.. Họ Trần. Anh không cần nói tên đâu, tôi biết rồi.
Chưa hết câu nói, cô đã đứng lên và đi khỏi chỗ của anh. Anh nhìn theo, nghĩ ngợi miên man…
Trưa hôm đó, bản làm tiệc nhỏ tiễn anh và Tân về. Dõi mắt nhìn trong đám đông, anh không thấy cô. Anh không dùng được gì, vội bấm nhỏ Tân. Hiểu ý, Tân thu xếp nhanh rồi hai người đi theo đường khác (bản có hai đường vào) để xuống lại. Lúc về, nhìn ngang qua chỗ hôm cô gái và anh trò chuyện, anh thấy có một bóng trắng nhỏ bé ngồi bó gối, ngước mắt nhìn đăm đăm về phía xa xôi…Anh thấy lòng mình hỗn mang gò đống…
(còn nữa)