Dịch giả: Hoàng Ngọc Tuấn

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn,

riêng tặng Hoàng Ngọc Diệp, người bay như chim.

 
SARA GALLARDO
(1931-1988)
Sara Gallardo, khi còn sống, không được nổi tiếng đúng mức; nhưng ngay sau khi qua đời, bà được xem là một trong những cây bút độc sáng nhất trong văn học Argentina thế kỷ 20. Năm 1958, bà xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, Enero. Tác phẩm này lập tức được giới phê bình đánh giá cao và được dịch ra tiếng Tiệp và tiếng Đức. Sau đó, bà đều đặn cho ra đời những cuốn tiểu thuyết và những tập truyện ngắn khác, cứ vài ba năm là một cuốn: Pantalones Azules (1963), Los galgos, los galgos (1968; đoạt các giải thưởng Primer Premio Municipal và Premio Ciudad de Necochea), Eisejuaz (1971; được xem là thành quả nghệ thuật lớn nhất của bà), El país del humo (1977; gồm những truyện ngắn kiệt xuất, được xem là ngang tầm cỡ với những truyện ngắn của Juan Rulfo hay Mario de Andrade), và La rosa en el viento (1979). Năm 1987, nhà xuất bản Editorial Celtia mời Sara Gallardo thực hiện một tuyển tập do chính bà chọn lựa, Páginas de Sara Gallardo: seleccionadas por la autora. Đây là một cuốn trong loạt tuyển tập dành cho những nhà văn sáng giá nhất của văn học Argentina đương đại.
  Bà đột ngột từ trần ngày 14 tháng 6 năm 1988 tại Buenos Aires, để lại nhiều công trình còn dang dở.
° ° °
NGƯỜI ĐÀN ÔNG TRONG CÂY BÁCH TÁN
Một người đàn ông đã bỏ ra hai mươi năm để làm cho mình một đôi cánh. Năm 1924, hắn bay thử vào lúc bình minh. Đôi cánh vỗ chậm chạp với một chuyển động chao đảo. Chúng không mang hắn bay cao quá mười mét, chỉ ngang tầm một cây bách tán ở quảng trường San Martín.
Người đàn ông bỏ bê vợ con để ở lâu hơn trên ngọn cây bách tán. Hắn làm việc cho một công ty bảo hiểm. Hắn dời vào sống trong một nhà khách trọ. Đêm đêm, vào giữa khuya, hắn bôi dầu máy may lên đôi cánh và đi đến quảng trường. Hắn mang theo đôi cánh trong một hộp đựng trung hồ cầm.
Hắn có một cái tổ trên ngọn cây bách tán, khá êm ái. Trong tổ có cả những chiếc gối.
Ban đêm, cuộc sống ở quảng trường vô cùng phức tạp, nhưng hắn không bao giờ dự vào đó. Tàn lá cây, những ngôi nhà tắt đèn, và đặc biệt những ngôi sao, đã đủ cho hắn. Tốt nhất là những đêm có trắng sáng.
Vấn đề của chúng ta là không chấp nhận những giới hạn. Hắn muốn ở suốt ngày trong cái tổ. Lúc ấy là kỳ nghỉ của công ty.
Mặt trời lên. Không gì đẹp bằng bình minh trên những ngọn cây.
Thật cao trên kia, một bầy chim bay ngang, rời bỏ thành phố bên dưới. Hắn trầm tư về chúng với cảm giác chóng mặt, nước mắt ứa ra.
Đó là điều hắn đã mơ trong suốt hai mươi năm hắn miệt mài tạo nên đôi cánh. Chẳng phải là giấc mơ về một cây bách tán.
Hắn chúc lành cho những con chim. Hắn gửi cả tâm hồn cho chúng.
Một cô đầy tớ mở rèm cửa nơi ngôi nhà của một bà già mất ngủ. Cô thấy người đàn ông nằm trong cái tổ của hắn. Bà già gọi cảnh sát và lính cứu hoả.
Họ đến vây quanh hắn với những chiếc loa phóng thanh và những cái thang.
Một lúc sau, hắn mới nhận thấy những gì đang xảy ra. Hắng mang đôi cánh vào. Hắn đứng dậy.
Những chiếc xe hơi dừng lại. Người ta kéo đến. Hắn thấy các con của hắn mặc đồng phục học sinh. Vợ hắn đang mang giỏ đi chợ. Các cô đầy tớ và các bà già đang vịn vào nhau.
Đôi cánh vỗ, chậm chạp nhấc hắn lên. Hắn chạm vào những cành cây.
Nhưng hắn không giữ được độ cao. Hắn rơi xuống bệ đặt pho tượng hoành tráng. Hắn nhảy lên. Hắn vướng vào vó ngựa. Hắn ôm ngang hông tướng San Martín. Hắn mỉm cười.
Có lần hắn đã bay đến tận La Torre Inglesa;[1] cơn gió đã giúp hắn bay về phía nam thành phố.
Bây giờ hắn sống giữa những ống khói nhà máy. Hắn già nua và ăn sô-cô-la.
-----------
Dịch từ nguyên tác tiếng Tây-ban-nha: "El hombre en el araucaria", trong Sara Gallardo, Narrativa breve completa (Buenos Aires: Emece Editores, 2004).
  Chú thích của người dịch: 
[1]La Torre Inglesa: tháp Anh quốc ở thủ đô Buenos Aires, đứng cách quảng trường San Martín không xa. Tháp này do những người di dân gốc Anh xây dựng vào thế kỷ 19. Ở nước Chile cũng có một cái Torre Inglesa tại quảng trường Armas de Antofagasta.

Xem Tiếp: ----