Người bạn tôi ở góa đã sáu bảy năm, tuổi ngót bốn mươi, mới tục lấy một người con gái. Hôm sau lấy          tình thân mật, tôi cười mà hỏi:          - Đêm qua cái quang cảnh tân hôn thế nào?          Bạn tôi nét mặt tần ngần, có ý cảm thương. Tôi coi lấy làm lạ.          Hồi lâu, bạn tôi thở dài mà nói:          - Tôi không muốn giấu bác chuyện này, vả cũng không có hề gì mà phải giấu. Người thân nhân tôi cũng          là con nhà tai mặt, về sau sa sút, mới phải đi làm thuê trong nhà máy sợi, gọi là "con gái nhà máy", với          nhà tôi từ xưa vốn là nhà thế nghị1, xa cách nhau đã hơn mười năm, nay lại được sum họp một nhà, bâng          khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa, tưởng cái ý vị đoàn viên hôm ấy càng đằm thắm lắm là phải. Sao          mà trong lúc đứng ngồi, lui tới, tân nhân cứ thời thời2 giấu một tay tả, như có sự gì bí mật, không có thể          để cho ai biết mà tiết lộ ra ngoài. Tôi lấy làm nghi, cầm lấy tay mà hỏi. Tân nhân càng hoảng hốt thất thố,          cứ dựa mình vào vách. Thừa lúc vô ý, tôi kéo tay mà xem, thì thấy bàn tay chỉ còn có ba ngón. Thân          nhân tinh thần thê thảm, nói thật là vì máy kẹp phải tay, nhân kể nguyên uỷ thâm thường vừa cho đến          sáng. Thương ôi! Người tân nhân tôi khổ thật, mà thiên hạ trầm luân trong khổ ấy biết là bao nhiêu!          Tôi (Thuật giả tự xưng) nghe chuyện càng cảm càng thương, dù đó là sự không may riêng của một          người, mà cũng là cái dấu thương tâm chung cho đồng loại. Nhân thuật lời tân nhân nói như sau này:          "Than ôi! cái khổ cảnh của thiếp sao nỡ để cho chàng nghe, song thiếp cũng không dám giấu chàng mà          không nói. Trong mấy năm nay trên thờ mẹ già, dưới nuôi cháu mồ côi, một thân thiếp vừa làm con gái,          vừa làm con dâu; ngày ngày còn phải đi làm thuê làm mướn để hồ khẩu3 một nhà, ngày không được          ngồi, đêm không được ngủ, dù người sắt cũng phải đau lòng. Hồi tưởng những ngày cha anh tôi còn,          đang như cây ngọc đầy sân, hạt châu trên án, nào bao lâu vật đổi sao dời, nay đã thành ra cảnh mộng.          "Sau khi cha tôi đã mất, liền bị mấy lần4 tàn phá, mẹ tôi đem chúng tôi về ở làng Cổ Sư, là nơi mẫu quán.          Anh tôi đi dạy học làng xa, cũng mất ở đó. Chị dâu tôi ở nhà nhân sản nạn mà chết, để lại cho mẹ tôi một          chút con thơ, sự bất hạnh trong gia đình đến thế là cực.          1. Chơi thân lâu đời.          2. Luôn luôn.          3. Giúp đỡ miệng ăn.          4. Nguyên in: mất lần.          "Bấy giờ tôi mới có 17 tuổi, mẹ tôi đã ngoài 50 tuổi, bình thời tinh thần linh mẫn, như người ba bốn          mươi. Mới trong hai năm khóc con khóc dâu mà tóc bạc hồ hết, mắt càng loá, tay càng run, như người          bảy tám mươi tuổi. Thiếp đã lo gia biến lại thương mẹ già, cũng muốn chia cay sẻ đắng, lấy chữ cần che          chữ chuyết1, để mẹ con nương náu qua thời. Tiếc thay! Từ xưa cha tôi làm quan, không tập cho chúng tôi          theo đường thực nghiệp; chỉ tưởng những nỗi một người đội ơn vua, cả nhà ăn lộc nước, lấy phấn sức làm          thanh cao, cho doanh sinh là trục mạt. Để cho con em tập thói kiêu xa, quen thân biếng nhác, chỉ xu          hướng về sự phù hoa, không có thể suy ra thực dụng. Đến bây giờ trí vụng, tài hèn, cơ hàn thiết thân, còn          giữ sao cho được phong thể!          "Sau tôi đến nhà một bà láng giềng, kể cảnh ngộ cho bà nghe, và xin bà bày tỏ cho tôi một lối mà đi làm          mướn. Bà nói: "Đã lâu nay, trong vùng này có nghề gì là làm ăn được. Từ khi có máy sợi, máy dệt, thời          bao nhiêu khung cửi, guồng sợi đều gác lên xà nhà, từ khi có máy rượu máy xay, thời khó nhọc nhất là          nghề đâm xay nuôi lợn, cũng không làm cho đủ mà ăn được. May thuê vá mướn là nghề của con gái nhà          nghèo, mà từ khi có máy khâu, thời còn ai hỏi đến đường kim mũi chỉ nữa. Tội nghiệp thay! Làm thân          con gái, gặp buổi nghèo nàn như con ngày nay, trừ một cách bán cái sỉ nhục đi mà kiếm ăn thời không          còn phương kế gì là tự cứu được. Này, có một lối là vào làm công trong nhà máy, suốt ngày dùng hết sức,          hai tay hai mắt cũng chỉ đủ cung một cái dạ dày. Còn đến điều xảy ra nguy hiểm trong việc làm, thực          chưa có pháp luật nào bảo hộ bênh vực cho kẻ khổ công cả".          "Tôi nghe nói lại càng ngao ngán, trong thích lý1 đã không có cha chú nào tí hộ2 ngoài xóm làng lại          cũng gặp buổi gian nan. Thôi! Đã sinh ra làm đời dân vô cốc3, còn tránh sao cho khỏi kiếp lầm than. Thà          chịu một thân mình nắng dãi mưa dầu, còn hơn là ngồi mà trông thấy một nhà đói rét. Tôi xin bà dẫn lối          cho tôi vào nhà máy sợi.          "Bà đưa ngay tôi đến một người cai con gái. Người cai cũng nói cho nghe các chương trình về việc làm          trong nhà máy. Công nhất mỗi ngày là 25 xu, công nhì 20 xu, công ba 17 xu, còn con gái mới vào làm          việc chưa quen, công ăn mỗi ngày 14 xu, lâu lâu sẽ lên hạng nhì, hạng nhất. Chỉ giờ làm việc có điều hơi          ngặt, mỗi ngày phải làm 15 giờ; từ 6 giờ sáng cho đến 9 giờ tối, trừ cho nửa giờ ăn. Ai đến làm trễ giờ          thời phải phạt.          1. Lấy chăm chỉ thay cho vụng về.          1. Thân thích.          2. Giúp đỡ.           3. Không có thóc gạo.          "Nghĩ mà chán thay! Thân giá một người khổ công hèn hạ đến thế là cực: cả ngày lao động tổn phí bao          nhiêu là tinh lực, mà một giờ không đáng được một xu. Cũng là vì việc có ít người thời nhiều, cho nên          người ta thắt buộc người mình, bói rẻ còn hơn là ngồi rỗi. Tưởng những thuở cha anh mình đang đắc ý,          cứ lập thói xa xỉ, huy hoắc tiền của như đất bùn; nghĩ đâu những nông nỗi con em sau này phải đi làm          thuê làm mướn cho người ta, cực khổ không bằng thân trâu ngựa. Hôm sau, tôi dậy từ lúc 4 giờ sáng,          thổi cơm cho mẹ và cháu ăn rồi, 5 giờ tôi tự làng ra đi, vừa đến 6 giờ thời vào làm nhà máy. Việc làm ở          máy con (xe cúi thành sợi), cũng là việc giản dị, chỉ phải đứng không được ngồi.          "Các chú đốc công trong nhà máy, lại là những người Hoa kiều, các chú ngôn ngữ bất đồng, chỉ nghe          những tiếng xì xồ, tiếng roi vọt, đánh mắng người ta mà mình đã khiếp. Tính các chú sạch sẽ, thấy người          ta ăn mặc rách rưới cũng ghét; tính các chú mạnh mẽ, thấy người ta yếu đuối cũng ghét; hễ một lời          không hiểu là chửi mắng theo ngay; hễ một bước sai lầm là roi vọt theo liền. Tội nghiệp thay! Cũng là          một loại người, sao nỡ coi nhau như thù nghịch. Cũng vì nhà mình nghèo, cho nên thân mình yếu; vì thân          mình yếu cho nên người mình hèn. Ôi! Các chú ăn của ta, ở đất ta, sao nỡ ngược đãi người ta. Đối với          nhân đạo thời các chú có phụ với lương tâm; song cứ lẽ tự nhiên, thời thực là mình có điều tự thủ1.          "Cơ cực nữa cái lúc ăn. Người đem cơm cho con gái, cứ phải đứng chực ở ngoài hàng rào. Chờ đến giờ          các chú gọi từng tên, như điểm số tù, cho ra nhận, lấy cơm vào ngồi bên chỗ làm mà ăn.          1. Như bảo thủ          Còn hàng quà hàng nước đi lại đi qua đều phải phạt.          "Từ khi tôi vào làm trong nhà máy, không còn được trông thấy mặt trời. Từ 4 giờ sáng, còi nhà máy gọi          lần thứ nhất, tôi trở dậy mà nấu ăn, đến 5 giờ còi gọi lần thứ hai, tôi bắt đầu ra đi, đến 6 giờ đến nơi vào          làm, lại cho đến 9 giờ tối ra về, 10 giờ đến nhà, dọn dẹp cho đến 12 giờ thời đi ngủ.          "Nghe nói các nước văn minh trong thế giới, đều có hạn chế giờ làm giờ nghỉ cho những kẻ khổ công, có          đâu ép uổng người ta làm quá sức mình mất cả đạo dưỡng sinh đến như thế.          "Tính các chú lại hay cợt nhợt, thấy con gái sạch sẽ hay thương hay yêu, khi ra bẹo má, khi vào nắm tay,          con gái nhà máy là cái quà của các chú. Chị nào vô ý chống cự lại thời các chú nói với ông chủ phải đuổi,          mất việc làm ngay. Bấy giờ tôi mới hiểu lời bà láng giềng nói "bán cái sỉ nhục đi mà kiếm ăn" là vì thế.          "Một hôm trước ngày phát tiền công, theo lệ, tôi đang lau các máy chỗ mình làm cho sạch sẽ, thấy một          chú nhăn nhở đi lại, tôi đã sợ, đứng nép vào một bên. Bỗng chốc thấy có tay ai mó vào mình tôi, giật          mình tôi ngã xô vào cái máy đang chạy. Nghe một tiếng "soọt", thấy máu ở tay toé ra, đau buốt lên tận          óc, tôi kêu lên một tiếng thời liền ngã ra, không còn biết gì nữa.          "Đang bàng hoàng sợ hãi, thân hình tiều tuỵ, cứ đi vơ vẩn bên đường không biết đâu là làng đâu là nhà.          Chợt thấy những lũ đông người, kẻ thời đang chen chen chúc chúc trong đám chèo hát, kẻ thời đang cười          cười nói nói trong cuộc tỉnh say, tôi lại gần mà trông thời là những người có quen biết với cha anh tôi khi          trước cả. Tôi cứ kêu cứ gọi, mà không có một người nào ngoảnh lại mà nhìn tôi. Cũng có người đứng lại          mà hỏi, thấy con nhà khốn khó cũng ra ý ngậm ngùi, rồi có bọn khác lại kéo lại lôi, thời lại xô tôi ngã          xuống một bên đường mà đi mất.           "Nhớ ngày nào cha anh tôi còn sống, với những người này vốn là đồng chí, hay luận bàn về việc tiến hóa          cho quốc dân, nào khai thương điếm, nào là lập công xưởng, nào là chấn hưng thổ hóa1, nào là bảo thủ          lợi quyền; rút cục đến bây giờ vẫn để con em nình chết mòn sống tủi dưới những tay chuyên lợi, tay          cường quyền; thậm chí điên nguy không ai cứu ai, thân cố cũng không ai nhìn ai, những bọn này chẳng          qua là mượn hai chữ "đồng bào" để làm cái mặt nạ, xu thời xu thế. Tôi càng kêu càng khóc, họ càng làm          thinh, thành ra một lũ vừa câm vừa điếc.          "Tôi đương thiêm thiếp, nghe thấy tiếng gọi văng vẳng bên tai, bừng mở mắt, thấy mẹ tôi đang đứng một          bên năn nỉ mà nói: "Mẹ đây, con có biết không, con? Mẹ nghe tin con phải máy kẹp mất tay, người ta đưa          con vào nhà thương từ trưa đến nay, mẹ lật đật đến đây, con có biết không, con?". Tôi mới bàng hoàng          tỉnh lại, thấy mình đã mất hẳn hai ngón tay: "Mệ ôi! Mười mấy đồng xu, con đã bán rẻ cái mệnh con,          may mà con còn trông thấy mẹ đây, biết bao giờ trả cái tủi nhục này cho được!".          "Tôi phải ở lại nhà thương hai tuần lễ nữa, bình phục rồi lại về nhà, không còn đi làm con gái máy sợi          nữa.          "Ngày chàng cho băng nhân lại hỏi chính là ngày mẹ tôi đang phải chứng đau tức kịch lắm. Mẹ tôi cứ bối          rối mà nhận lời. Tôi nghe nói thất kinh rụng rời, vì mẹ đang đau cháu còn dại, chưa biết ỷ thác1 vào đâu.          Nghĩ mình thiếp đã vô đức vô tài, lại mang lấy tiếng tàn tật vào thân, dù trượng phu có đức bao dung,          song tự mình cũng lấy làm hổ thẹn lắm. Mẹ tôi gạt nước mắt mà nói: "Mẹ nay đã già, con cũng đã lớn,          trước sau cũng phải về nhà người, dữ kỳ mẹ con tạm thời lẩn quẩn với nhau mà cùng khốn, sao bằng gửi          thân vào nơi có đức để phòng khi hoãn cấp mà dựa nương. Vả mẹ nay bệnh ngày một nặng, biết có nay,          nào biết có mai, mong cho con được yên vợ yên chồng thời mẹ nhắm mắt dưới cửu toàn cho đành dạ".          Tôi nghe bấy nhiêu điều, không còn muốn cưỡng lời mẹ tôi nữa. Than ôi! Sự mình càng nói càng đau,          dẫu người đá cũng sa châu nghìn hàng. Trời đã rạng đông, xin chàng đi nghỉ...".                                                                                Tạp chí Nam Phong                                                                               số 46, Tháng 4 - 1921.          1. Như nội hóa.          1. Nhờ cậy.