Chương 2
Ngày Ngâu Ðổ

Thân ngâu quặp lá đổ nằm trên sân gạch ngày hôm trước, mẹ tôi chưa kịp cho người dọn đi thì hôm sau tin anh Thanh qua đời, cũng sấp trên một mặt phẳng nóng hổi nắng trưa. Cô út tôi, mẹ anh Thanh thẳng đứng trời trồng giữa ngưỡng cổng. Hai môi sưng vều, cặp mắt trồi ra, cô lắp bắp vài tiếng. Mẹ tôi choàng tay ôm chặt cô vào người, cả thân bà cũng run lẩy bẩy. Còn tôi, ngồi bệt ở bậc tam cấp, đang ấm ức khóc cây ngâu.
Qua bờ vai đầy dưới làn vải phin của mẹ, tôi nghe tiếng nấc trước còn đặc nghẹn, đứt quãng bỗng dội tuôn như một tầng thác đổ. Không, đó chẳng là nấc nữa mà tiếng gào rú thất hồn của một con thú bị trúng đạn giữa hai tròng mắt. Tôi đứng bật dậy khi tên anh Thanh réo lên rờn rợn: Thanh ơi là Thanh ơi. Cũng không hiểu sao lúc đó tôi còn đủ suy nghĩ để nhận ra một điều khá lạ. Cô cao gầy như bà nội, hơn hẳn mẹ tôi dễ hơn gang tay nhưng bây giờ rút ngắn lại đến bất ngờ. Cả cái đầu chúi vào vai người chị dâu mà cô vẫn có thói quen sẵng giọng. Một lát sau cô Nhược ngửng lên, chợt thấy tôi đứng đấy trâng tráo, tay cầm một cành ngâu quẹt chạm đất, cô rùng người, cứ như chạm phải hình ảnh một bà phù thủy. Tôi muốn quay ngay vào nhà nhưng hai chân không thể nào chuyển dịch. Cuối cùng cô buông mẹ tôi ra lấy lại phong thái, không nhìn tôi, cô nói trống, giọng khàn đặc:
- Bảo con Miên sang báo tin cho bà, tôi không làm được.
Tôi long mắt nhìn cô nhưng chỉ một giây là hết đương đầu nổi, chẳng phải vì sợ cô mà là anh Thanh thật giống mẹ. Cũng ngần ấy đường nét thanh mảnh, cặp mắt to dù chúng không soi xoáy vào người đối diện như mắt cô mà hơi buồn, có chút gì nhút nhát. Trước kia tôi hay đùa gọi giật:
- Quay lại nhìn người đẹp Miên một chút coi!
Thế là anh Thanh cười, ngón tay giơ lên dọa dẫm nhưng chớp mắt vài cái lại quay chỗ khác. Anh hay ngượng nghịu, ngó mông lung lên tủ thờ hay trần nhà mờ mờ trong căn phòng mang mang tối của bà nội tôi, mỗi khi bà âu yếm cầm lấy những ngón tay thon dài của thằng cháu ngoại ấy.
Sau câu nói của cô Nhược, mẹ xua tay có ý bảo tôi đi nơi khác, thì thào điều gì đó, rồi hai người bước nhanh ra khỏi cánh cổng gỗ. Bấy giờ tôi qụy xuống bên cây ngâu đổ nằm ngang ngửa, chẳng thể gào tên anh Thanh như cô, cả người gập đôi, quặn thắt. Một nhánh cây gẫy sắc, đâm sóc vào đùi, dòng máu đỏ ứa ra trên manh quần trắng.
Hình như bà ở trong căn nhà này đã từ lâu lắm, ít nhất cho tới năm nay, tôi mười lăm tuổi, con đường từ nhà sang thăm bà vẫn chỉ là một. Quang cảnh trong cái ngõ nhỏ ấy thay đổi nhiều, nhà cửa xây dựng khang trang hơn, cùng lúc người ta đành đoạn chặt bỏ mấy thân cây choàng bóng mát. Bà tôi phải tranh đấu mãi mới giữ được cây trứng cá rộng tàn trước cửa. Chiều khi ngắt nắng, nếu không quá mệt thế nào bà cũng bảo cô con gái đầu hay chị người làm nhấc chiếc ghế mây ra ngoài hàng hiên. Ngồi nơi ấy, bà trông chừng lũ nhỏ không để chúng thọc cây rụng những trái trứng cá đỏ lừ hay đá thốc một cú banh bay qua bờ rào thấp, đáp binh vào hai chậu mẫu đơn. Hai chậu hoa này chú Hoà đem đến biếu bà một ngày giáp Tết, đã nhiều năm nay. Nghe nói chú đem từ bên Tàu sang, chính bà tự tay tưới nước, tiả lá, mân mê từng nhánh. Cô Châu, chị cả của ba tôi luôn miệng kêu mẫu đơn là hoa quý phái xứ lạnh, trồng Saigòn chưa chết là mừng, đừng mong nó trổ hoa. Mỗi lần như vậy bà quay lại mắng cô mấy câu, hai chậu hoa chừng thỏa lòng, lá héo rụng rồi lại mọc xanh tươi dù chưa bao giờ nở được một nụ hoa nào. Mẹ tôi hay can chị dâu:
- Hoa hay không chẳng việc gì, cứ để me chăm nom cho đỡ nhớ, me bảo hồi xưa nhà me là cả một vườn mẫu đơn.
- Xa tít cả đời người. Nhớ, nhớ, lúc nào cũng nhớ làm gì cho khổ.
Cô Châu vẫn có tính nói thẳng như thế, nhất là mỗi khi cô nói tiếng Tàu với bà nội giọng đâm oang và cứng. Giọng nói này lạ thay không trái ngược mà còn đi đôi với dáng điệu đài các bắt đầu nặng nề của người đàn bà lỡ tuổi. Nhưng cô Châu rất tốt bụng, thích lo lắng cho mọi người, có lẽ từ khi cô còn trẻ lắm. Song song với một định mệnh dài mấy mươi năm, nét xuân sắc tàn biến trong cô độc.
Bà cô thứ nhì, thua ba tôi một tuổi thì khác. Cô Phượng không có con, chồng cô chắc chẳng cho đó là điều quan trọng. Người đàn ông này phong cách tây phương, mặt vuông sáng láng, râu viền mép thường làm con bé tôi dẫy nẩy, đẩy ra mỗi lần ông cúi xuống hôn gò má. Ông đã có hai con với người vợ cả, một người đàn bà gia đình giàu có nhưng an phận. Thuở tôi còn nhỏ, ông thường kéo ghế cho ngồi cạnh, chìa cây bút Parker mạ vàng óng ánh và một tờ giấy trắng sang trọng, có dấu triện son oai phong. Tôi tha hồ viết vẽ nhằng nhịt bên dưới sau khi đã thanh toán xong xuôi những con toán nhân chia với hằng chục con số sau dấu phẩy. Nếu khách tới bất ngờ, bao giờ ông cũng vui vẻ xốc lại hai vè áo veston, đứng dậy giới thiệu:
- Cháu gái tôi đấy, bé thế nhưng tính toán như chớp.
Mỗi anh tài xế đưa đón ông bằng chiếc traction đen bóng biết con cháu ấy rất lười và ông chủ của anh ta giữ một chức vụ rất quan trọng trong ngân hàng quốc gia.
Ðối với anh tài, chỉ có cậu cả Nghi là đáng nể. Mỗi khi anh đón cậu tới gặp ông bố, cậu chỉ ngồi đợi trong xe, không một lần bước chân vào nhà. Tôi từng nhìn thấy Nghi, một thanh niên da mặt tái, tóc phủ một vạt ngang trán, đôi môi hay mím và cặp kính cận cùng nghiêm nghị như nhau. Ngày ấy tuy biết Nghi chẳng ưa những gì liên quan đến người vợ sau của bố nhưng tôi hay bắt gặp hai con mắt nhìn theo mình trong sân sỏi trắng, khi tôi đến thăm bác Quân và cô Phượng. Tôi mê mảnh vườn sau đầy bướm, chim chóc chui rúc giữa cây cối mọc tự do, hân hoan theo mưa và nắng. Bác Quân chìu vợ tất cả, chỉ nghiêm nhặt ở mỗi việc là không được cắt xén cây cỏ, ngay cả hái một đóa hoa vào cắm trong bình. Cô Phượng cằn nhằn về sự vô trật tự lan lấn, ông cười:
- Có ai muốn bị chặt đầu đâu, thảo mộc cũng thế.
Rặng cây dần dần vươn lên che mất tầm nhìn qua sân tennis bên kia. Hai anh tài xế và nấu bếp thường rủ nhau leo lên sân thượng để ngó sang mấy bà đầm chạy lăng quăng, cánh tay cầm vợt giương cao vùng nách rêu nâu rêu vàng anh ánh, cặp đùi dài rượm nắng. Ngoài khu vườn gần như hoang dại giữa thành phố nóng rang, tôi còn mê mẩn những thứ trang trí bày biện ông bác đã đem về sau bao chuyến đi ngoại quốc. Cả bao nhiêu tạp chí tiếng Tây hình ảnh bóng đẹp, lộng lẫy. Không chỉ có thế, tôi thèm thứ bánh kem và món thịt bò hầm vang mà Thư, anh nấu bếp hay làm vào buổi chiều thứ bảy mỗi tuần. Anh Thư này người dịu nhỉu, da trắng, tóc ép sát thật mịn để quăn quăn vài sợi sau tai. Mấy bà bạn đến chơi tổ tôm với cô Phượng thường chặc lưỡi nho nhỏ với nhau:
- Nó làm bếp mà hai bàn tay dài như thư sinh ấy nhỉ. Trẻ vậy mà biết nấu thức ăn Tây, tài thật.
- Này, chị ở giữa đám đàn ông thế thích nhé, tha hồ được phục dịch cẩn thận.
Một bà vừa cười vừa nói với cô, rồi họ cùng khúc khích. Cô Phượng nguýt dài, giọng nhẹ bâng:
- Ấy, bố nó bếp chính Brodard. Trông hiền hiền nhưng lắm khi mắt lém như dao.
°
Chẳng phải một sớm một chiều mà cây ngâu lâm bệnh. Những cánh lá nhỏ thuôn dần dần co quặm đã mấy tháng nay. Mẹ tôi bảo gọi người đến xịt thuốc, nhưng chưa làm đột nhiên cây lại trổ từng chùm hoa lấm tấm. Lá một ngày một đen khô, hoa mỗi ngày mỗi nở trắng, thơm tỏa trên khuôn sân hàng gạch tàu tôi vẫn ngồi gội đầu những trưa nắng vẽ bóng cây. Rặng dâm bụt với cây ngâu là gia sản của tôi thơ ấu. Mẹ nói tôi bao nhiêu tuổi cây ngâu ngần ấy năm. Lúc ngân nga bài học thuộc lòng, tôi thường ngồi ở bệ cửa phòng khách trổ ra sân, thỉnh thoảng ngoắng tay vào bể nước mưa, mùa hè đầy lăng quăng tung tăng trong ánh lá lung lay.
Thấy cây ngâu khô héo tôi sốt ruột sợ cây chóng chết, nhưng mẹ muốn hái thêm một lần hoa để ướp trà nên thuốc diệt sâu vẫn để đó. Bà không uống bao nhiêu nhưng mê ướp, mua về từng thúng sen thúng sói. Những cánh hoa sen hồng mơn mởn, vỡ tung trên các mảnh lá xanh tròn úp ngửa giữa sân gạch au đỏ là hình ảnh tuyệt diệu nhất. Mỗi buổi sáng, khay trà ngát thơm ở bàn thờ Phật, khay khác bày ba cái chung nhỏ dưới đôi mắt ba tôi lặng lẽ. Tôi thắc mắc, sao nơi nào cũng bàn thờ, đi đến nhà ai tôi cũng thấy. Nhưng đúng ra, không phải những bàn thờ khiến tôi ray rứt từ bé cho tới lúc này mà chính là khuôn mặt quá trẻ, cặp mắt quá yêu đời của bác, chú và ba tôi luôn luôn có đó, nhìn vào chúng tôi từ mọi hướng. Trên bàn thờ phòng khách nhà bà nội còn thêm ảnh các bé trai, trong ấy thằng anh tên Tuấn năm tuổi của tôi thật xinh xắn tinh anh. Có lần tôi thì thào với anh Thanh, anh lại nhìn xa vắng rồi nói:
- Miên đừng thèm ngó lên đó.
Tôi chán nản:
- Không thèm cũng đâu được, bà bắt cúng giỗ, lạy bàn thờ hoài.
Bà có hai người con dâu, vợ bác Chương tôi người nam bộ, nói cười rổn rảng ăn uống hồn nhiên. Sau khi bác trai qua đời, thỉnh thoảng vào dịp giỗ tết bác gái vẫn dẫn các con, hai trai một gái về thăm bà nội. Bác vào nhà ào ào như cơn gió, lăng xăng lôi từ trong giỏ mây nào xoài nào sầu riêng, măng cụt, trước cái nhìn thất vọng của mẹ chồng. Bác thật vô tư, vô tâm, có khi hơn cả tôi dù là đứa con gái nhỏ cũng biết bà nội rất bảo thủ trong vấn đề cúng giỗ. Bao giờ cũng một khay trái cây với những loại quả cam táo chuối phật thủ. Bà không chấp nhận thứ trái cây miền nam nực nồng mùi vị. Chẳng phải vì không thích, bà có ăn bao giờ đâu, chỉ là tự ngày xưa bà không thấy bày những quả ấy trên bàn thờ nhà chồng. Mâm cỗ cúng cũng mang chung số phận. Ngần ấy năm tôi lớn lên, từng ấy lần nhân với số ảnh thờ, tôi có thể nhắm mắt lại mà vẫn thấy rõ ràng các món ninh món nấu dọn ra. Bao giờ cũng thế, mẹ tôi, người con dâu bắc kỳ được bà tin tưởng, phụ trách phần chỉ huy nấu nướng cho đúng qui củ gia đình nhà chồng của bà từ mấy mươi năm trước. Lúc nào cũng phải bày lên đầy đủ, bát bóng su hào cà rốt tiả hoa xanh đỏ, miếng mọc tròn trịa chơi vơi trong cái bát chiết yêu dưới lớp hành hoa, bát măng hầm vắt vẻo những sợi miến trong suốt. Luôn luôn bà kiểm lại mâm cỗ đã xong xuôi, tự tay sắp xếp hoặc chỉ vẽ phê bình món gì chẳng vừa ý. Tôi ngạc nhiên ngẫm nghĩ, một người quanh năm ngày tháng không ăn gì khác hơn tô cháo trắng với nửa lòng trứng mặn, hay cùng lắm bát cơm nhỏ với tương chao mà sao lại để tâm, biết cả cách nấu nướng những thức ăn rắc rối cầu kỳ.
Trong khi tôi trầm ngâm trước đĩa thịt gà xếp vun bóng mượt, chị Nga, em gái anh Thanh lấy ngọn đũa khẩy khẩy mấy miếng giò lụa cắt hình quả trám bày đẹp đẽ như một ngôi sao, khều khều đưa đẩy những hạt xôi vò vàng mịn. Mấy đứa cháu còn lại của bà ngồi chung quanh cái bàn tròn ngoài sân. Khi trời hốt nóng, các món ăn nấu nướng công phu bất biến ấy không hấp dẫn chúng tôi bằng tiếng kéo lắc cắc của chú Tàu bán đu đủ thịt bò khô hay mùi thơm bốc từ đầu ngõ của từng xiên nem nướng. Một lần cô Châu thương hại lũ cháu uể oải nên đề nghị thay đĩa thịt gà và giò chả bằng những miếng thịt quay trên xấp bánh hỏi xối mỡ hành. Bà nội trừng mắt, cô đành quay lại, vừa chỉ lên ảnh thờ vừa dỗ:
- Ngày xưa, ông nội và các bác không ăn thịt quay.
- Tụi con ăn chứ đâu phải ông nội, các bác. Chị Nga cố cãi, còn thêm:
- Mà các anh chết lúc còn nhỏ xíu, chắc chắn thích được cúng thịt quay bánh hỏi.
Cô đưa tay bịt miệng chị nhưng không kịp. Bà nội lặng yên, hai bàn tay đang vắt dọc thành chiếc ghế bành run run. Mãi sau bà trút cả một câu tiếng Tàu rất dài rồi bỏ vào phòng trong. Ðám nhỏ chẳng hiểu bà nói gì ngồi im thin thít. Vợ bác cả Chương, các cô và mẹ tôi đồng loạt thở dài. Tôi cầm mãi đôi đũa trong tay, không đặt xuống, ngẩn ngơ nhận ra nỗi gì uất khuất trên khuôn mặt những người đàn bà đang có mặt.
Chưa đủ lớn để chụp bắt một nguyên do, đi tìm một giải thích, tự nhiên tôi muốn bước vào cạnh chiếc giường dài hơn của người thường, nhìn những sợi tóc khô rơi trên mặt cói của chiếc gối vuông cao tưởng gãy đôi cần cổ mảnh rộc. Lắm khi bà kéo thêm tấm chăn đơn đắp lên hai bàn chân teo tóp trong lớp vải dầy bọc như đôi hài mỏng. Căn phòng nhạt ánh sáng nhưng rưng màu sắc với các túi gấm thêu rực rỡ treo quanh giường. Chiếc tủ thờ thứ hai trong phòng bà bằng loại gỗ gì thắm đỏ như chiếc bàn chân vòng bên cửa sổ. Không nhớ bao giờ là lần cuối, tôi còn nhìn thấy bà ngồi vẽ chữ trên tờ giấy dó vân vân, mịn như vải, cây bút lông chấm vào đĩa mực mài đen sắc. Cái dáng khắc khổ lúc đó mềm xuống, bờ vai thả xuôi dưới manh áo đoạn chéo khuy cài hoa cúc. Linh hồn đang lặn vào từng dấu chấm, bốc theo từng nét bút phẩy lên, hay linh hồn đang trên đường tìm về một quê nhà mất biệt? Ngón tay dài vuốt gấp tờ giấy rồi kẹp vào một cuốn sách cũng màu ngà cũ kỹ, có sợi cước đỏ đánh dấu trang. Ðã hơn một lần tôi hỏi mẹ, bà viết thư sao không gửi. Tôi chẳng được câu trả lời thích đáng cho đến ngày anh Thanh đắc chí khoe nho nhỏ vào tai: Bà làm thơ. Làm sao không tin lời anh Thanh, khi nhớ lại cử chỉ nhẹ nhàng, nét mặt lúc đăm chiêu rồi bỗng nhiên thư dãn khi bà hạ bút phết phẩy những dấu chữ sổ dọc. Từ thuở ấy, tôi đã muốn biết bà viết gì, nhưng các cô tôi không biết đọc tuy nói và nghe tiếng mẹ đẻ nên chẳng cắt nghĩa được thêm cho đứa cháu.
Từ khi anh Thanh mách bà làm thơ, mỗi lần nhìn thấy bà ngồi viết ở bàn tôi đều nín thở, rón rén, một cảm phục len lỏi vào tâm hồn thơ nhỏ. Tôi tự hứa sẽ học ngôn ngữ của bà nội mình và một ngày phải đọc cho được những con chữ huyền bí ấy. Cũng như phải hiểu vì sao có tiếng thở dài u ẩn, có lòng mắt bạc long lên niềm gì uất ức rồi lại dịu xuống, ngoi ra từng giọt nước lăn xuống đồi má cao một nỗi truân chuyên, mỗi lần bà nhìn vào bao tấm ảnh đàn ông trai trẻ trên bàn thờ. Tôi cần biết lẽ gì họ hàng nội tộc của mình thật lẻ loi thu gọn, dù kể cả số người đã chết hay còn sống. Trong khi bên ngoại có bao ông cả bà trẻ, cậu mợ, nhánh này chi nọ. Những câu hỏi càng trở nên thôi thúc hơn vào các năm tháng mười lăm, mười sáu tuổi đầy thắc mắc suy tư. Gặp sự trả lời mập mờ tránh né của người lớn ngay cả mẹ mình, tôi không trông cậy vào ai khác ngoài anh Thanh. Anh có hứa bao giờ hiểu ra sẽ nói tôi nghe. Vậy mà Thanh chưa cho tôi biết gì rõ hơn là bà làm thơ thì anh đã rơi sấp trưa nay, trên mặt lộ đông người, trững nắng.
°
Lấy cuộn băng vải xiết chặt quanh đùi cầm máu, tôi trở ra cạnh thân ngâu. Trời vừa toang nắng tự nhiên gom mây tối sầm. Bên kia sân, mấy lọn xơ mướp máng trên giây kẽm cạnh nhà bếp khô teo như hình nhân không tứ chi, đong đưa trong ngọn gió trở mạnh báo hiệu một cơn giông. Bể nước hứng đầy nắng bao ngày trở thành xanh lục. Hôm nào cô Phượng đến, chưa kịp thốt ra lời đã gục mặt vào khuôn nước vỡ, nấc lên tiếng kêu đau điếng. Ðấy là ngày bác Quân tôi, bố Nghi, bị bắt giam vào khám Chí Hoà.
Hôm được phép thăm chồng, chẳng hiểu sao cô Phượng nhất định xin mẹ cho tôi theo. Cũng không biết vì sao giữa muôn điều quá khứ đã lọc ngoài trí nhớ thì cuộc thăm viếng này ghi lại trong tôi thật tỏ tường mỗi hai hình ảnh. Ðó là gương mặt vốn đã tái càng xanh bệch của Nghi với đôi môi mím chặt hơn thường lệ, xuất hiện ở ngưỡng cửa văn phòng viên giám đốc nhà giam. Cô tôi bước vào, Nghi cau trán, cặp lông mày nhếch lên hai mảnh dao lém tới màng tang. Lần đầu tiên con bé Miên cứng đầu biết sợ sệt chùn chân. Con bé cũng giật lùi thảng thốt trước ông bác mặc bộ đồ tù nhân trắng, bước tới chìa tay qua những chấn song. Mái tóc ông chưa già nhưng mới mấy ngày hoá trắng. Cô Phượng luồn hai bàn tay vào song sắt níu giữ khuôn mặt chồng, cả người khuỵu xuống. Ông mỉm cười cúi hôn nhè nhẹ lên những ngón trắng xanh, rồi điềm đạm dặn dò nhiều thứ. Lúc phải đi ra, tôi ngoái nhìn, ông với theo:
- Con Miên học xong bản Arabesque chưa? Mai mốt bác về nghe đấy.
Tôi vừa gật vừa bặm môi rút nước mắt lẫn nước mũi thi nhau dàn dụa. Cây dương cầm Gaveau gỗ cổ chân cong tôi đàn hằng ngày đã được chính ông bác tìm mua cho. Mẹ luôn luôn áy náy về tặng phẩm vĩ đại này, trong khi ông cười xuề xoà, tay xoa mấy sợi tóc trên đầu con cháu:
- Mợ chẳng việc gì phải ngại, con Miên cứ đàn Debussy cho tôi nghe là đủ.
Tôi không hiểu tại sao bác Quân thích Debussy đến thế. Vì những vòng cung, những lượn sóng, sự bập bềnh của âm điệu ấy chăng. Tôi không hỏi được ông một lời nào nữa kể từ lần viếng thăm thảng thốt đó, trước những song sắt nhà tù.
Mấy tuần sau, mẹ hớn hở mừng, bác đã được minh oan. Tuy thế, mãi gần đây anh Thanh mới kể cho tôi là ông đã bị cấp dưới phản bội. Họ đã biển thủ một số giấy bạc cũ mà ông ra chỉ thị đốt bỏ trong dịp phát hành giấy mới, để chính ông bị tình nghi đã chủ trương sự lưu trữ phạm pháp này. Nhưng bác Quân vừa ra khỏi nhà giam buổi sáng, xế chiều xe cấp cứu đưa ông vào bệnh viện. Mọi sự xảy ra từ đấy dồn dập, những con sóng vũ bão đập xuống tan hoang. Trong suốt khoảng thời gian đó, mỗi đêm tôi đều nhìn thấy hoặc hình ảnh bà nội co thóp lại thành một vòng cung xương xẩu, hay là những hàng sao vời vợi trong khuôn viên nhà thương. Chúng cao nghệu mà ngả nghiêng run rẩy, cành lá trên đầu lấp lánh dưới ánh trăng.
Lần đầu bước chân vào bệnh viện, tôi ngỡ ngàng trước khung cảnh khoáng đạt yên tĩnh, tây phương. Bao tàn cây to rộng, các bụi hoa màu sắc trên bãi cỏ xanh, nhất là dáng dấp cao lớn vững vàng của những ông Tây bác sĩ. Cứ ngước lên nhìn ho, tôi gỡ gạc thêm một chút niềm tin, bác tôi sẽ được cứu sống qua chứng ung thư vừa phát hiện nhưng đã đến độ trầm trọng vô cùng. Buổi trưa đổ lửa trên đầu, cùng cô Phượng băng qua sân cỏ, tôi thấy dường như chân cô tôi không chạm đất. Người đàn bà ấy rộc teo, chỉ sau vài tuần lễ định mệnh. Trên con đường đá xám dẫn đến căn phòng ông bác nằm, có lúc tôi mơ ước bốc thành hơi. Ít nhất thành quả bóng lơ lửng qua những đầu cây.
Một chiều, quả bóng đã đâm thẳng vào một cành cây nhọn ngay lúc cô cháu tôi sắp sửa ra về, trả giờ thăm viếng dành riêng cho mẹ con Nghi. Linh hồn tôi vỡ toang, nếu linh hồn là một cái gì cụ thể thì có lẽ khi ấy nó giống y chất nhờn vàng khè, tanh tưởi đang phọt ra từ mảng bụng vữa của ông bác. Cô tôi rú lên, đưa hai tay ra hứng. Những người y tá chạy sầm vào. Ba mẹ con anh Nghi vừa tới nơi, đứng sựng lại ở ngưỡng cửa.
°
Gió thổi mỗi lúc một mạnh, lốc chiếc quần lót trắng đang phơi của cô Ba hàng xóm vút lên ngọn cây gòn phía vườn chùa bên kia, phập phồng ở đầu cành. Ðây không phải lần đầu, mẹ vẫn bực bội càu nhàu:
- Phơi phóng gì thì cũng phải biết kẹp lại, đâu mà như cờ xí phất trên đầu người ta.
rồi chắc miệng:
- Chùa chiền ngay cạnh.
Mọi khi nghe thế, tôi chẳng nhịn được cười. Nhưng lúc này, cờ xí đó tự nhiên nhắc nhở mảnh khăn lụa trắng mẹ đã đưa cô Phượng xiết quanh vầng trán, lếch thếch lê người trên lớp bụi đường bệt lại dưới làn mưa mỏng đầu mùa, chưa đủ nước. Nhưng không phải khung trời âm u đó, cũng chẳng phải cái đám tang trang trọng có bao tai to mặt lớn đại diện của chính phủ ám ảnh tôi nhất. Mọi thứ rồi lặng xuống, như khuôn mặt thân thiết của bác Quân đã trở thành một chiếc gương chìm dưới nhiều làn nước, thi thoảng mánh lên vài tia sáng mơ hoặc. Tất cả đều như thế, trừ giờ phút phát tang. Bên chiếc quan tài viền quanh bao hàng nến, gia đình bác Quân sửa soạn khăn trắng, áo sô. Cô Phượng thu mình gần mánh cửa, ngả vào cô Châu. Mẹ anh Nghi đi ngang qua, người đàn bà nhỏ bé mặt hiền lành nhưng lờ lờ cảm xúc, dáng vẻ chậm chạp. Tôi không thấy bà nói lời nào, với ai. Em trai bác Quân và Nghi điều khiển tất cả nghi lễ. Sau bài kinh của vị sư già, mọi người trong gia đình Nghi quấn mặc những khăn áo tang vừa phát. Cô Phượng đang lả người, bỗng lết vào quì mọp trước áo quan. Chẳng hiểu động lực nào thúc đẩy, tôi xô đám người đang chặn lối, chạy theo. Cô ngước về Nghi đang cầm sợi dây gai buộc hai vạt sô rộng thõng, cô chỉ vào cái khay đựng các băng tang, mấp máy một lời xin. Nghi bặm môi, tay vung một đường cương quyết nhìn thẳng vào cô lắc đầu. Làm sao tôi quên được ánh mắt hai người ấy. Một bên là đáy trời thê thảm nhất, còn bên kia, sắc buốt của lưỡi chém lạnh lùng. Nhưng tôi cũng chẳng thể nào không nhớ, khi cùng anh Thanh trở lại đặt bó hoa trước bức ảnh bác Quân, tôi đã bắt gặp một cái nhìn khác hẳn, của Nghi. Có phải vì đôi mắt Nghi đã sưng mọng quá chăng mà lúc này nó dịu đi thật bất ngờ, đau đớn, mỏi mệt rõi theo chúng tôi ra tới cửa.
Cô Phượng ở lại căn nhà ấy một thời gian khá lâu. Khá lâu, để xảy ra nhiều sự cố. Dĩ nhiên chẳng còn chiếc traction và anh tài xế, cô cũng bảo anh Thư nghỉ việc, nhưng cuối cùng anh ta vẫn còn đó. Hình như anh Thư xin ở lại và cô tôi ý chừng cần sự có mặt của một người đàn ông quen thuộc trong nhà. Thời gian đầu, những bà bạn tổ tôm của cô đổ tới luôn luôn, ồn ào hẳn. Không khí này và sự thiếu vắng ông bác khiến tôi thưa ghé nhưng anh Thanh đến thường hơn. Cô hay giữ anh lại cho tới tối, khi những bà bạn đã ra về, cô chạy vào phòng nằm lặng một hồi lâu. Ở bàn ăn, cô ngồi đối diện với ghế trống của ông bác, nhìn sững trước mặt rồi đứng lên. Các món ăn nguội lạnh, y nguyên.
°
Lâu nay tôi ít gặp Thanh, kể từ hôm cô út Nhược lèo nhèo là chồng cô không thích thằng con trai quý của ông đến nhà bà ngoại thường xuyên. Xóm này quá bình dân, nhiều trẻ con ngoài đường, không bảo đảm như khu quận nhất yên tĩnh ông ở. Từ dạo ba anh Thanh lên chức chánh án tòa Thượng Thẩm, ông nhìn đâu cũng thấy thành phần bất hảo. Người chú rể của tôi ít nói, ít cười, vầng trán thật cao dưới những sợi tóc lơ thơ. Thảng hoặc gặp ông, thường chỉ mỗi năm một lần nhân mùng một tới chúc Tết, tôi hay nhìn xem chúng có dựng lên như tóc Tintin trong quyển sách hình bố anh Nghi từng cho đọc, tưởng tượng cô út Nhược vân ve mấy sợi tóc loe hoe trên đầu chồng.
Bà nội cưng cô con út lắm, còn cô chẳng mấy ưa tôi, con cháu dường như không biết sợ ai này. Một lần ăn giỗ quanh cái bàn ngoài sân, tôi quen trêu chọc anh Thanh:
- Rót nước cho Miên đi, anh làm gì mà ngớ như Mán.
Chị Nga xiá vào:
- Anh không hầu em bao giờ.
Tôi cãi:
- Ðáng lẽ Miên là chị, cô Nhược là em ba Ðô của Miên mà.
Cô Nhược đứng gần đấy gằn giọng:
- Theo tục lệ của bà, đứa nào sinh trước làm anh.
Tôi ngậm câm, dù gì tôi cũng đã gọi chồng cô Phượng là bác như bà nội bảo, tuy cô là em gái ba tôi. Tối về, tôi ấm ức hỏi mẹ:
- Bà nội sao kỳ, lúc bắt theo lệ Tàu, lúc lại phải theo lễ nghi giòng họ ông nội quan gia.
Thật sự tôi nào muốn làm chị anh Thanh, anh gần gũi chìu chuộng tôi vô cùng. Hơn nữa cũng là đứa con trai duy nhất của gia đình, sau khi anh Tuấn rồi đến hai đứa con trai của bác cả lần lượt bạo bệnh qua đời. Chị Nga ngáo ngổ, nói lén với bọn trẻ còn lại:
- Mấy ảnh rủ nhau nhảy lên bàn thờ ngồi hết.
Ðứa con gái bác cả, bụm miệng thì thào:
- Các anh leo lên trển cũng phải xơi thịt gà như tụi mình dưới này, có khác gì đâu.
Anh Thanh làm lơ nhưng tôi nhác thấy anh rùng mình, bàn tay xiết chặt ly nước cam di di trên mặt bàn. Mấy viên đá lạnh lanh canh.
°
Trưa, mẹ sai đem cho cô Phượng chai mật ong rừng. Chiếc xe anh Thanh dựng dưới giậu mận tía bóng rực trong mắt tôi mừng rỡ. Cửa nhà không khoá nhưng gọi chẳng tiếng trả lời, có lẽ cô Phượng ngủ trưa. Quanh từ phòng khách ra nhà bếp, cũng không có anh Thư. Tôi dợm leo lên lầu thì anh Thanh đổ từ sân thượng xuống, Thư theo sau. Mặt anh Thanh chắc dang nắng, hai má và cặp tai đỏ ửng. Tôi còn lớ ngớ anh đã luống cuống nói thật mau, phải về học bài, rồi bỏ tôi lại đó. Thư lủi vào bếp nhanh như chuột. Tôi vừa ngỡ ngàng vừa giận, hết còn anh tài xế, nên bây giờ Thư rủ rê anh Thanh coi mấy bà đầm đánh banh. Một chốc sau Thư ra, đằng hắng vài tiếng, hai tay vuốt nếp áo ủi thẳng thớm. Tự dưng tôi thấy anh ta đĩnh đạc hẳn. Thư còn hỏi tôi đến làm gì, kéo ghế kêu ngồi như thể chủ nhà mời khách. Ðặt chai mật ong lên bàn, tôi đến gần cửa sổ nhìn ra vườn sau, hàng cây bị tỉa sát sạt tự bao giờ. Tỏ tường bên kia, hai sân tennis xanh chói nắng. Quay ngoắt lại, tôi nói:
- Ai cắt cây của bác?
- Tôi đấy. Anh Thư điềm nhiên.
Tôi gặng:
- Cô bảo à?
Thư lắc đầu, tỉnh bơ:
- Không, mà bà đâu ra vườn nữa, chỉ có tôi.
Con bé không thể cãi khác hơn. Ngoài những buổi đánh bài, cô Phượng chạy về nhà mẹ, rút mình trong căn phòng treo các túi gấm thêu của bà. Sau cái tang bác Quân, chẳng hiểu nghĩ gì, bà nội đòi dọn cái giường ngoại khổ của mình ra một góc phòng khách manh manh ánh sáng, dù từ ngày ấy bà ngủ nhiều hơn thức. Có lẽ bà cần nhắm mắt để bớt nhìn thấy nỗi buồn ngày càng dầy nặng trên khuôn mặt những đứa con gái truân chuyên của mình. Hay bà sợ đối diện với chiếc tủ thờ đầy ảnh?
Cũng như cô Phượng, tôi chạy trốn kỷ niệm của căn nhà ông bác. Vả chăng cô không ăn uống mấy, Thư đâu nấu nữa món thịt bò và bánh kem. Mẹ thắc mắc, chẳng hiểu anh ta làm gì cho hết ngày vào những hôm không có bàn tổ tôm hay bàn chắn. Rồi hôm ấy, tôi thấy Thư ngả máy may, cắt, khâu, phục anh thực tài. Vầi bữa sau, Thanh ghé nhà mặc chiếc áo mới màu xanh dịu. Tôi nhìn chằm chằm, anh quay đi ngó lên những quả gòn lủng lẳng, sắp sửa bật bung mớ bông nưng nức. Anh Thanh giờ sắp hai mươi, học giỏi đủ môn, ông bố đã vạch sẵn con đường học luật nối nghiệp cho con. Thấy anh buồn, tôi hỏi, anh bảo chỉ thích thành bác sĩ.
- Tại sao? nhà mình có ai học y khoa đâu. Máu me đầy, Miên sợ lắm.
- Ai nói không, có đốc-tờ Băng vừa ra trường, con trai người chú của mẹ anh và ba Miên đấy thôi.
Tôi ngỡ ngàng:
- Chú Băng nào?
Anh bối rối, vội vàng cắt ngang:
- Ơ, họ xa, Miên không biết đâu.
- Vậy hả…ừ, anh học bác sĩ cũng phải. Gia đình mình con nít chết bệnh nhiều quá.
Thanh đăm chiêu cúi mặt ậm ừ, bỗng khoát tay như xua đuổi một điều gì, rồi nói:
- Anh bao Miên đi xi-nê, phim ‘‘La fièvre dans le sang’’, có Nathalie Wood.
Tôi ngồi ôm eo, tóc anh mấy sợi mềm ở gáy, lưng thẳng trong làn áo xanh bung gió. Tự dưng tôi muốn dựa đầu vào đấy. Từ khi bác Quân mất, anh là người thân duy nhất cho tôi một tiếp xúc có nam tính, trong cái thế giới hạn hẹp toàn những nhân dáng đàn bà. Nhưng Thanh dường như thích cô độc, anh ít bạn trai. Còn mấy đứa bạn gái xinh xinh tôi cho anh xem hình hay cố tình dàn xếp một gặp mặt không báo trước vẫn bảo, thằng anh họ của mày chẳng giống ai, đẹp trai thật nhưng lơ ngơ lơ ngơ. Mỗi lần đến thăm bà, anh thường ghé qua nhà tôi vào ngồi ở bực thềm, kiên nhẫn xem tôi lau chùi những chiếc lá vàng để ép. Có khi Thanh chỉ nghếch chân trên xe, gọi ơi ới, rồi ném vội qua cửa cổng một cuốn truyện anh đã đọc. Dạo sau này những cuốn truyện của anh Thanh hấp dẫn lạ lùng nhưng tôi chỉ dám lôi ra ban đêm, khi chắc chắn mẹ không vào phòng nữa. Thỉnh thoảng tôi chuyển cho mấy con bạn, chúng mê tơi và đặt nhiều câu hỏi. Thanh cũng mâu thuẫn, cho tôi đọc nhưng không chịu trả lời còn bảo:
- Bọn con gái thật lắm chuyện, lớn lên rồi khắc biết.
Tôi nghĩ, anh chỉ nói oai chứ chắc chẳng biết gì hơn. Chẳng thế, một lần gần đây, Thanh ngồi xuống bên cạnh, hai bàn tay hết đan nhau rồi lại gỡ ra, loay hoay loay hoay, chợt thở dài, nho nhỏ một mình:
- Ðọc thì đọc, nhưng có nhiều điều không hiểu được.
Rex, buổi đầu trưa vắng, phim chưa vào. Tôi gác chân lên bờ ghế phía trước, chiếc váy ngắn càng tuột cao trên đầu gối. Vài gã thanh niên ngồi dãy sau huýt sáo. Tôi cứng đầu dửng dưng, nhưng anh Thanh ngượng giơ tay kéo hộ. Tôi càng bướng, duỗi xa hơn, cao hơn, váy tụt quá nửa đùi. Cuối cùng Thanh phải vòng tay ôm hai bắp chân tôi đặt xuống. Bọn đằng sau càng huýt to. Cũng may, đèn chợt tắt, tôi nhận ra hơi thở Thanh không đều. Nhưng khuôn mặt vừa ngây thơ vừa đẹp não lòng của cô tài tử Hollywood chiếm cứ hết đầu óc đứa con gái mười lăm. Cho đến lúc bất ngờ anh Thanh nghiêng hẳn sang, đầu đè lên vai tôi, môi anh miết vào cổ. Tôi hoảng hốt né tránh, Thanh cuống lên, vụng về ôm xiết. Ðẩy mạnh, tôi sững nhìn anh. Một cảnh chợt sáng rưng trên màn ảnh cho tôi đủ thấy cặp mắt Thanh mở lớn, lạ lùng, chúng không loé lên nỗi mê đắm nào mà một ánh gì van lơn, đau đớn. Ðứng bật dậy, tôi lạng quạng mò mẫm tìm lối ra. Viả hè đường Nguyễn Huệ đổ sầm một cơn mưa rào rạt.
°
Gió lại quay xoáy những vỏ gòn khô tái trên cây. Dưới này, đám xơ mướp dứt khỏi dây kẽm chạy lạt sạt quanh bể nước rồi víu lại ở thân ngâu. Trên kia, chiếc quần lót ngược gió bật rời cành, bay vòng vòng đáp trở về mảng tôn che phòng tắm, góc sân nhà cô Ba. Mấy mảnh tôn đập thình thình từng chập, nhưng sao bằng những đau đớn đang nện hồi trong ngực tôi. Không, chẳng thể ngồi đây chờ mẹ về, phải đi tìm xem anh Thanh đang ở đâu, phải sang coi bà nội thế nào. Tưởng tượng sao nổi bà nội khi biết tin thằng cháu cuối cùng vừa chết. Bà hay gọi anh đến ngồi cạnh thầm thì nói chuyện, âm ngữ vốn chói lạ bỗng êm đọng hẳn. Dù vậy tôi vẫn phục Thanh kiên nhẫn, ở tuổi thanh niên ấy dễ gì có thể lặng yên bên một người già, chịu khó nghe những điều anh chẳng hiểu.
Lôi chiếc vélo-solex, tông chạy ra đường, tôi chỉ kịp thấy dáng chị Mân đang cuống quít kéo vạt áo dài tung bay. Mân thua anh Thanh hai tuổi, chị hay kiếm cớ sang chơi mỗi lần xe anh Thanh dựng ngoài cổng. Muốn dừng lại cho chị hay tin, nhưng phải đi thôi, kẻo quá muộn, tôi muốn nhìn thấy anh. Tôi bắt đầu biết sợ, sợ cái lỡ, cái muộn của định mệnh đời người.
Căn biệt thự cô Nhược nằm sâu sau một cổng sắt cao, sơn đen bóng giữa hai cột gạch đá mài nhẵn nhụi. Ngôi nhà này đã được gia đình chồng cô mua lại từ một người Pháp chủ vườn cao su nên xây theo lối Tây, ngợp bóng mát. Chục con mèo của ông chú tha hồ leo nhảy nhưng chúng cũng thường băng qua những thanh sắt nhọn hoắc của cánh cổng để đi hoang. Anh Thanh kể bố anh bực lắm về chuyện này, ông muốn từ thú vật đến con cái trong nhà phải quy củ, nhất là thằng con duy nhất. Ngoài học hành nghiêm chỉnh, anh Thanh không được phạm sai lầm gì, ông luôn viện lẽ: để khỏi bị đi lính. Cô Nhược bĩu môi với chị em:
- Cứ dọa thế, nó mà vào lính ngày trước, ngày sau là anh ấy lôi ra ngay.
Mấy hồi chuông nhận láo liên nhưng mãi bà người làm mới ra. Bà Năm lập cập đứng bên trong, mặt mày phù mọng, mếu máo:
- Vô nhà thương hết rồi.
- Nhà thương nào?
- Sàigòn.
Chẳng hỏi nữa, tôi quay ngay đầu xe. Nhưng bà gọi giựt:
- Cô Miên à
Tôi chưa kịp đáp, người đàn bà được cô Nhược đem từ gia đình chồng ở Sóc Trăng về Saigòn để nuôi anh Thanh từ độ mới sinh, ngập ngừng định nói gì xong lại lặng thinh. Tôi không để ý, leo lên xe, thì bà ta vội vã:
- Có tờ thơ cậu hai đang viết dở cho cô. Chờ chút.
rồi rút chùm chià khoá lận lưng quần mở cổng cho tôi. Bà Năm đi rút thật nhanh vào nhà trong khi tôi dắt xe định dựng góc sân. Mấy con mèo ở đâu chồm tới mắt xanh sắc lạnh, xù lông vểnh đuôi. May mà bà Năm ra ngay, mặt lấm lét, tay run run cầm đưa những tờ giấy mỏng viết mực xanh, có tờ nhàu nát như ai đã vò trong cơn giận dữ. Tôi nói:
- Ðể cháu đem về đọc.
Bà Năm vội vàng:
- Chớ, không được đâu, ông về tìm là chết. Cô coi liền đi.
Tôi nào muốn đọc ngay lúc này, phải chạy vào nhà thương, nhưng không khỏi ngạc nhiên:
- Thư anh Thanh viết cho cháu mà, tại sao ông biết.
- Ối cha mẹ ơi, bởi vậy mới ra cớ sự! Thôi, đừng hỏi nữa, cô đọc lẹ đi.
Ngồi ngay xuống bờ đá bày những chậu kiểng tỉa tót công phượng hươu voi, tôi giở thư ra. Chỉ nhìn nét chữ gọn đều của anh Thanh là nước từ hai con mắt mưng húp lại đổ tràn gò má. Ánh mặt trời cùng mây giông lẫn lộn, để chập chờn lúc sáng lúc nhoà mấy trang thư Thanh chưa kịp viết xong.
Bà Năm ôm chặt lấy đầu tôi, nước mắt bà cũng chan hoà đến nỗi tôi nghe những chân tóc mình rịn ướt:
- Ông la hét dữ quá, đập đầu, táng cậu hai lia lịa, đuổi ra khỏi nhà. Bà can không kịp.
Tôi không trả lời bà Năm. Anh Thanh đang khẩn khoản ngó tôi, lòng mắt sâu buốt, năn nỉ xin lỗi cho buổi chiều ở Rex. Rồi anh từ từ kể về từng cơn rêm đầu khi đứng trước ông bố, thái độ lửng lơ lừng khừng bị bà mẹ kèo nhèo trách cứ, cho đến những khó khăn, lấn cấn khi tiếp cận bạn bè, cả bạn trai lẫn mấy cô gái, ngoài tôi. Không nhập được cuộc, chẳng biết làm sao. Không có gì kích thích, bừng nổi một cảm xúc lâu dài trong Thanh, cho tới buổi chiều hôm ấy, chẳng xa.
°
Miên ơi,
Thư nằm lưng trần trên ghế nệm trong phòng khách khi anh đẩy cửa vào. Thư cong mảnh uốn mềm như mèo. Nắng cuối chiều quá nhẹ, chỉ đủ hoà nhập với phập phồng hơi thở. Mọi vật trong căn phòng đang yên ả, sửa soạn chìm vào bóng tối. Anh đứng dừng ở đó, nhìn lâu vào lọn vai trắng thuôn dưới mái tóc đen mượt quăn se chút ngọn. Thư bỗng ú ớù trở người, tay duỗi dài, chân đạp lơ quơ vào khoảng không. Ngực anh đập nhanh, hai thái dương cương lên kéo căng con mắt, anh nhớ lại buổi chiều bất chợt đổ mưa trên đường đến nhà thăm cô Phượng. Ướt loi ngoi, cô bảo Thư đưa anh mượn tạm bộ quần áo thay cho khỏi trúng cảm. Thư thản nhiên theo vào phòng tắm, đứng lại đó nhìn không rời khiến anh lúng túng mặêc vội áo quần dưới ánh mắt nụ cười kỳ lạ của anh ta.
Gió đẩy cửa sổ hé mở, tiếng banh độp độp từ sân tennis cùng giọng cười đùa vọng sang đánh thức Thư. Anh ta nhỏm dậy, đẩy tung cánh cửa và kéo anh đến gần. Cây lá sau một ngày ủ hơi nóng, giờ là lúc chúng trả lại hương nồng nả nhất. Anh bất động, cả người rơi chìm dưới một sức đè không thể cưỡng chống. Thư đằng sau, mân từ tóc xuống vai anh bằng đôi bàn tay vốn mềm và trắng.
Từ đấy, hoảng hốt sợ hãi xâm chiếm, anh không muốn gặp Thư một mình vì cô Phượng thường đi vắng, nhưng vòng bánh xe có khi lại tự động quay về con đường ấy. Thư nấu riêng cho anh ăn nhiều thứ lạ, mỗi lần lại cầm tay luồn tóc nắn vai. Thư có tài kể chuyện rút ruột người nghe Miên à, tỏ ra thành thạo nhiều thứ. Kinh nghiệm nhiều hơn số tuổi của anh ta, những điều anh chưa từng nghe nói trong gia đình lẫn trường học. Dần dà Thư bảo anh đừng nhìn ngó, đừng nghe, bận tâm đến đàn bà con gái, đó là những sinh vật giả tạo từ linh hồn cử chỉ, nụ cười tiếng nói đến thân xác và cả cái mùi Thư gọi là giống nữ. Anh hoang mang, hốt nhiên nghe ngóng, chăm chú vào những gì xảy ra chung quanh và cả chính mình. Mọi thứ đều đem lại hoài nghi, các bức tường dựng lên từ bao lâu làm thành trì cho ngôi nhà kiên cố bị chấn động. Chúng không sụp đổ hẳn nhưng bắt đầu rạn nứt. Dưới chân, mặt đất lung lay làm mỗi bước bây giờ nghiêng hẫng. Dằn vặt, bất thường, mặc cảm phạm tội vì đã tiếp xúc và bị chi phối kỳ hoặc bởi Thư. Kháng cự bao nhiêu chỉ thêm chao đảo, anh mơ hồ nghiệm ra, muốn biết điều gì đang xảy đến thì trước nhất phải hiểu được mình là ai. Anh tìm trong sách vở. Không thấy, chưa thấy. Cố đến gần mấy thằng bạn trai cùng lứa, chỉ bắt gặp một sự dậy lớn vội vàng điệu bộ tới đôi khi trẻ nít lạ lùng. Miên biết không, anh chú tâm hơn, dừng lại thật lâu trên những khuôn mặt, dáng người thiếu nữ, đàn bà. Bóng chị Mân đang cài cổng làm anh nao nao nhưng xúc động ngừng ở đó. Không đi được xa hơn, chẳng lấn sang nổi vùng đất bên kia của rạo rực, điều anh thấy đầy trong tiểu thuyết, báo chí hay trên màn ảnh. Tuyệt vọng, anh nghĩ đến Miên, muốn nói với Miên những ẩn ức ấy. Nhưng mỗi lần định cất lời, cặp mắt tròn lanh lảu, miệng cười tinh nghịch, câu nói trêu cợt vô tình của Miên làm anh cụt hứng. Làm sao Miên hiểu nổi những chênh vênh này? Dù anh biết Miên đã lớn hơn rồi với vóc dáng giống Mân, vỡ tràn sự sống. Trong nhiều giấc mơ, anh thấy Miên cùng nụ cười mịn hồng dịu dàng, dấu diếm của Mân. Nhưng bừng mắt ra, lăn trở trong tấm chăn chạm phải làn vải mịn, anh không đẩy lui được bàn tay mềm của Thư, những ngón tay phù thủy. Rùng người, chúi mặt vào gối, tung chăn chạy trốn, anh phóng xe đi tới nhà Miên. Cây ngâu đang nở hoa, mùi ngâu lâng lâng gần gụi. Miên ơi, anh thật lòng xin lỗi, lúc ấy anh tự hỏi liệu nơi cổ em có toát nổi thứ hương khả thể khuấy động cảm giác, hay y như lời Thư, mùi con gái đàn bà không có thực?
Buổi chiều, trên màn ảnh Nathalie Wood khép lại hai lòng mắt cuốn hút tình si vì cơn sốt cháy lửa trong máu huyết, dưới hàng ghế đều đặn không lời, tôi đã từ chối cho Thanh một cơ hội nhỏ nhận ra mình. Cũng chẳng chắc chi nhưng ít nhất, nếu tôi không xô đẩy, anh cũng được một lần ngửi thấy hơi người thiếu nữ, biết rằng nó hiện hữu và luôn luôn lay động. Còn sự lay động ấy của mùi hương có khơi dậy được xao xuyến trong hồn anh chăng, tôi nào còn cơ hội để biết.
Chiều nay, cơn giông ấm ức dọa nạt trên đầu. Ðã mất Thanh. Sau những cái tát cuồng nộ của ông bố khi bắt gặp tờ thư anh đang ngồi viết cho tôi, Thanh xách xe chạy điên ra đường. Chẳng bao giờ tôi tưởng nổi, đau xé nào khiến anh mất phương hướng giữa bầy xe cộ hoảng loạn, đã lao thẳng, bay vút qua chiếc xe jeep đằng trước rồi đáp xuống, úp hôn mặt đường rướm nhựa. Ðứng trưa.