MỞ ĐẦU

Thằng Nam không ngờ là mình mất cha, và mất nước, cùng một lúc lại mất luôn nhà trường.  Nó đi lang thang ngoài đường với ý định tìm cha.  Đi từ Cà Mau tới Nam Quan ắt phải gặp.  Rồi không suy nghĩ nhiều, nó cắm cổ đi về phía tận cùng đất nước.
Nó qua sông Cửu Long bằng xuồng chèo.  Nó đi xuống Cần Thơ đến tìm ông ngoại.  Nhà cửa tan hoang, ông bà không còn ở đó.  Nó ra sông đi nhờ một chiếc ghe, không cần biết đi đâu.  Chủ ghe có vẻ đi trốn cướp. Có lẽ cũng nhận thấy trên nét mặt Nam điều bất hạnh như ông, nên ông cho Nam ăn ngủ dưới ghe suốt đêm.
Sáng sớm, thức dậy thằng Nam thấy cảnh vật lạ lùng. Hai bên bờ đều là cây tràm cây đước mà nó nhận diện được là nhờ bài khoa học tự nhiên.  Cây đước là loại cây lạ lùng nhất thế giới. Rễ mọc tủa ra từ khắp nửa thân mình chụp xuống đất như những móng tay sắc, lút trong bùn.  Ghe đến nơi đỗ lại.  Nhằm bến có nhiều ghe.  Nó lại nhảy sang đi nhờ ghe khác.
Nước dưới sông đỏ như màu rượu chát, nó vụt nghĩ.  Đây là U Minh, hồ rượu vang là nơi bào chế thuốc lớn nhất của nhân loại bằng lá tràm.  Nước tuôn ra biển như một đàn ngựa phóng nước đại lôi cuốn theo những giề lục bình, có giề to bằng cái nhà.  Nếu ghe hút vào sẽ bị kẹt không chèo đi được.
Người chủ ghe bảo nó:
Đây là sông Gành Hào, rắn lội nước ngược đứt đuôi.
Nó đã qua sông Ông Đốc, sông Trèm Trẹm, nhưng không có sông nào nước chảy xiết đến thế.  Chỉ có điều lạ là nước đỏ ngầu như pha máu.  Không hiểu sao nó có ý định đến mũi Cà Mau. Ôi! vùng đất lạ lùng như mũi tên bắn ra ngoài trùng dương mà thầy Quốc Văn giảng là NGÓN CHÂN CÁI CHƯA KHÔ BÙN VẠN DẶM.
À, đây rồi mũi Cà Mau.  Ngày xưa trong tưởng tượng, trên trang sách nhà trường.  Bây giờ trên mặt đất.
Nam lội trong bùn.  Những cây đước mọc nhô ra trong nước mặn như những anh hùng đứng đầu sóng ngọn gío.  Núp sau lưng đước là tràm những dũng sĩ kiên cường.
Đàng sau tràm là rừng mật cật, tàu bay, ô rô, cóc kèn tất cả họp thành làn lũy dày chẳng những ngăn nước mặn mà còn tấn công ra biển cả hung tàn.
Những chú còng gíó đủ màu chạy nhón chân trên mặt bùn như những cánh hoa ngũ sắc di động làm cho bùn lầy trở thành một tấm vải hoa mênh mông lôi cuốn mắt du khách trên mặt biển.
Ôi, ngón chân cái Nam Tiến đã dừng lại đây hơn thế kỷ nay nhưng phù sa đã đắp da thịt cho nó lớn lên hằng ngày và trở thành bước chân vạn dặm của người khổng lồi và sẽ in trên sao Kim sao Hoả.
Nam nằm lăn trong bùn, từ đầu đến chân đắm trong bùn như một chiến sĩ tử thương đang thoi thóp trên chiến trường máu ngửa mặt nhìn Tổ Quốc lần cuối.
Hôm sau Nam vẫn ở đây, gội nắng lội bùn.  Đây là Cà Mau. Đây là hạt đất cuối cùng của Tổ Quốc có tên là Cà Mau.  Không ai hiểu Cà Mau là nghĩa gì, nhưng ai cũng coi đó là hai tiếng thiêng liêng.
Bây giờ Nam đang ở Bảy Núi.  Nam đi tìm Cha. Cha Nam là người đã đánh giặc 20 năm ròng để giữ đất đai này cho Nam.  Mà nay Nam đã đánh mất.  Nam nhìn nó bị cướp đi mà không giành giật lại được.
Kìa núi Anh Vũ, nọ là núi Dài.  Còn đây là núi Sam không xa chợ Châu Đốc là mấy.  Đền đài không cao lớn nhưng rất tôn nghiêm.
Trèo lên ngót trăm bậc đá đến sân đền.  Một cây sứ già đứng ở bên góc sân.  Lá rụng tả tơi.  Hoa vàng lạt lẽo như mặt người ốm mới dậy.
Ông Từ hỏi vài câu lấy lệ, chừng như đoán bằng nét mặt cậu bé là loại người nào, ông nói với vẻ tự hào lẫn đau buồn
Đây là đền linh nên họ chưa dám động tới.
Cháu đi tìm cha.
Ở đâu?
Cháu không biết.
Ông Từ trỏ ngoài ngõ. Một ông già mặc áo dài chít khăn đóng ngồi bên một cái tráp mây và một que nhang tắt, bảo:
Ra mà hỏi Từ Mậu Công ấy.
Nam không biết Từ Mậu Công là ai, nhưng linh cảm nhận ra ngay là một ông thánh lạc xuống phàm trần. Ông ta có vẻ như mục hạ vô nhân. Chuyện trên trời dưới đất 300 năm trước ông biết hết, chuyện 300 năm tới ông cũng đoán ra.  Quả địa cầu này nằm trong tay ông như quả cam.
Vừa thấy Nam, ông đưa ngay cho ống trúc bông nhẵn láng bởi hàng nghìn bàn tay đủ loại đã nâng niu tin yêu nó:
Cậu đi tìm người thân?
Nam giật mình rồi cầm lấy ống trúc.
Theo lịnh Từ Mậu Công, Nam xốc. Cho đến lúc một chiếc thẻ vọt ra ngoài rơi trên mặt tấm chiếu rách.  Từ Mậu Công nhặt lên và bảo Nam xốc tiếp.  Lại một thẻ khác vọt ra.  Ông lại nhặt và bảo Nam cứ xốc.  Cho đến lúc chiếc thẻ thứ ba vâng lệnh một vị thần khuất mặt nào chậm chạp vượt lên cao đồng loại nhưng không chịu ra ngoài ngoài như hai tiền bối.
Từ Mậu Công đưa tay rút nó ra rồi gộp với 2 chiếc kia vào lòng bàn tay như đã nắm chắc được những gì cậu bé này mong ước.  Ông xem qua rồi đọc:
Tu thanh xuân chí ư bạch phát
Đến khi tóc bạc mới mong sum vầy.
Rồi lại đọc tiếp:
Tìm cha như thể tìm chim
Chim đi phương Bắc, con tìm phương Nam.
Ông dứt ngang. Nam hỏi:
Còn thẻ thứ 3, thưa Cụ?
Từ Mậu Công đưa ra: Một chiếc thẻ trắng. Mặt trước không có chữ. Mặt sau cũng không.  Một tấm thẻ lùi xùi không có chữ.
Dạ nghĩa là sao ạ?
Thiên cơ bất khả lậu! Cậu nên nhớ: Có công mài sắt có ngày nên kim.
Câu nói đó và 2 câu ghi trong thẻ trúc, Nam học thuộc lòng.
Bất cứ như thế nào Nam cũng đi.