(Kịch Thơ)

Nhân Vật:
Bà Phủ Thọ: 60 tuổi, ưa thắc mắc, chấp nê, ưa hờn mát.
Cô Hai Kiều Liên: nàng dâu trưởng, kiêu căng, xí xọn.
Cô Ba Mộng Nguyệt: nàng dâu thứ, lanh lợi, hỗn hào.
Cô Út Thanh Nga: nàng dâu út thùy mị, đoan trang.
Cảnh:
Căn phòng khách rực rỡ, với liễn son, liễn mun, hoành
phi, câu đối, tủ bàn cẩn xà cừ, đồ cổ ngoạn bằng
sứ, đồ sành, đồ đồng, đồ pha lê hực hỡ.
Thời gian:
Vào lối 9 giờ sáng.
MÀN MỘT, CẢNH MỘT:
Bà Phủ Thọ
Bà Phủ Thọ (bước ra, ngồi trên bộ đi-văng chơn quì,
than thở):
> >Đêm qua, mưa gió hà rầm
> >Tuổi già,thân hoại, ngồi nằm đau rêm
> >Dẫu ai giết phụng gói nem
> >Bắt kỳ lân làm chả, mụ cũng chẳng thèm món ngon.
... (têm trầu nhai chóc chách)
> >Gẫm mình nắng sắp khuất non
> >Ruộng vườn, tiền bạc, lũ con dòm hành.
... (ngó vào phía trong)
> >Nàng dâu, ba mụ khôn lanh
> >Miệng lưỡi ngon ngọt, vuốt nanh ai bì.
... (mở chiếc hộp đồi mồi, lấy chiếc vòng bát bửu
(#1) ra săm soi)
> >Vàng y quả thiệt vàng y (#2)
> >Vòng nầy chạm trổ tinh vi vô cùng
> >Gọi là quà quí đầu xuân
> >Thưởng dâu hiếu thảo mới ưng bụng nầy
... (ngó vào phía trong gọi lớn)
> >Con Hai, con Ba, bớ bây
> >Chưa pha trà nóng, sắp khay trầu vàng
> >Con Út chải chuốc điểm trang
> >Cho tới đúng ngọ, chẳng màng vá may
> >Tụi nầy làm biếng nhớt thây
> >Mẹ chồng mỏi miệng la rầy, khuyên răn.
... (Ba nàng dâu trong buồng chạy ra)
> > MÀN MỘT, CẢNH HAI
Bà Phủ Thọ và các cô
Hai Kiều Liên, Ba Mộng Nguyệt, Út Thanh Nga.
Cô Hai Kiều Liên (khúm núm):
> > Thưa má,
> > Mộc nhĩ, mì căn, kim châm, mì xạ
> > Gỏi cua, nghêu sò, miếng lạ vật ngon
> > Khép nép hiếu kính mẹ chồng
> > Mẹ ăn ngon miệng, thõa lòng con dâu.
Bà Phủ Thọ (nguýt):
> > Mưa gió giải dầu, biết đâu dâu ngọt (#3)
> > Rủi nhà này lại lọt dâu chua?
> > Mắm còng rẻ hơn gỏi cua
> > Mụ quen ốc hến, chẳng ưa nghêu sò
> > Mình cần mặc chắc ăn no
> > Nếu quen xa xỉ, trăm kho cũng cạn dần.
Cô Ba Mộng Nguyệt (khép nép):
> > Thưa má,
> > Nắng chói trước sân, qua dần tháng hạ
> > Tiết trời oi ả, chim quạ kêu vang
> > Con đà trù tính sẵn sàng
> > Dọn canh khoai mỡ, tép rang cho cả nhà.
Bà Phủ Thọ (trề môi):
> > Gẫm lại phận già, thân đà mỏi mệt
> > Đổi mùa trở tiết, mải miết ho khan
> > Canh khoai kia với tép rang
> > Nuốt vào khỏi cổ, ho vang xóm làng.
... (ho sù sụ)
Cô Út Thanh Nga (cung kính):
> > Dạ thưa má,
> > Má ăn ít cơm nên sâm thang con nấu
> > Uống mát vị tỳ, mát thấu phổi gan
> > Mặc ngoài nắng lửa chan chan
> > Trưa trưa, má được giấc an... khỏe liền.
Bà Phủ Thọ (soi mói):
> > Má cám ơn dâu hiền, dâu thảo
> > Ba đứa bây như sương sáo, sương sa
> > Mát lành, khác gái người ta
> > Má mừng được phước, rạng nhà tổ tông.
... (lấy chiếc vòng bát bửu ra)
> > Má vừa sắm một chiếc vòng
> > Mặt chạm bát bửu, khéo không đâu bằng.
Cô Ba Mộng Nguyệt (thò tay lấy chiếc vòng, ngắm nghía
rồi chắt lưỡi hít hà):
> > Vàng chói hơn trăng, nét hồi văn cũng đẹp (#4)
> > Phận mình là tép, đâu dám ghép càng tôm (#5)
> > Vòng kia dành hạng công nương
> > Phận mình là gái miệt vườn đâu dám ước mơ?
... (liếc qua chị dâu)
Cô Hai Kiều Liên (hét lớn):
> > Xin chớ tay bóc, tay rờ
> > Vàng kia ố mặt, như trăng mờ hơi sương.
Cô Ba Mộng Nguyệt (nghinh mặt):
> > Chị chớ ăn nói luông tuồng
> > Thấy vàng tối mắt, coi thường em dâu.
Bà Phủ Thọ (cười chúm chím):
> > Chị em bạn dâu, nấu đầu trâu lủng trả (#6)
> > Chưa chi mà cải vả rùm beng
> > Tụi bây quen tánh ghét ghen
> > Mẹ chồng cực nhọc, mấy phen giảng hòa.
Cô Ba Mộng Nguyệt:
> > Chị em dâu người ta trên hòa dưới thuận
Cô Hai Kiều Liên:
> > Thím Ba, thím chớ hỗn hào
> > Miệng kia sắc bén, gươm dao dám bì.
Bà Phủ Thọ (khinh bỉ):
> > Nổi máu sân si làm chi bớ hai mụ
> > Miệng thốt lời ục cú rủa nhau
> > Rắn trun sánh với rắn râu
> > Nửa cân tám lượng, ngang nhau đó mà.
... (liếc qua cô dâu út)
> > Dẫu Út mủ mỉ, thiệt thà
> > Khoan rút xuống nhà, chẽ củi nấu cơm
> > Tháng tới, má đúng lục tuần
> > Đúng năm hoa giáp (#7) tiệc mừng thọ khương
> > Má treo giải thưởng chiếc vòng
> > Đứa nào khéo ngón trang hoàng thêu may
> > Gối kia một cặp làm ngay
> > Thêu rồng, vẽ phụng trổ tài nữ công
> > Má sẽ tặng ngay chiếc vòng
> > Cho dâu khéo nhứt, thưởng công nhọc nhằn.
Cô Út Thanh Nga:
> > May gối thêu khăn, con đâu bằng hai chị
> > Xin rút lui, kẻo bị chê cười...
Cô Ba Mộng Nguyệt (ngon lành):
> > Nữ công ai khéo hơn tui?
> > Dệt hoa, thêu bướm vượt người Sài Đô (#8)
Cô Hai Kiều Liên (trợn mắt):
> > Thím kia, chớ nói hồ đồ
> > Khua môi, múa mỏ, miệng cá vồ khó thương!
Cô Ba Mộng Nguyệt (nhăn nhó):
> > Chị kia tật đố hiền lương
> > Gặp tui thì kíp dọn đường rút lui
Cô Hai Kiều Liên (hét lớn):
> > Tao đâu lý tới muổi ruồi
> > Đường tao tao bước, trối kệ người nhỏ nhen
Cô Ba Mộng Nguyệt (quắc mắt):
> > Ai trăng, ai đóm, ai đèn?
> > Ai loa, ai trống, ai kèn, khó phân!
> > Miệng chị cứ đía vang rân
> > Người xa khinh thị, kẻ gần chê bai
> > Thấp cao sau cuộc thử tài
> > Mình khoe, mình giỏi, chẳng ai phục mình
Cô Út Thanh Nga (can gián):
> > Hai chị vuốt giận làm lành
> > Vòng kia bao giá, nỡ đoạn tình chị em
> > Kẻ bằm chả, người gói nem
> > Kẻ dệt trướng, người thêu rèm, ngang nhau
Bà Phủ Thọ (cười hì hì):
> > Con bò chém lộn con trâu
> > Bò kia đứt cổ, còn trâu gảy sừng
... (che miệng ngáp)
> > Ngồi lâu, má mệt quá chừng
> > Má lui xuống bếp, uống tuần sâm thang.
... (rút lui)
> > MÀN MỘT, CẢNH BA
Các cô Hai Kiều Liên, Ba Mộng Nguyệt, Út Thanh Nga.
(Cô Hai Kiều Liên nguýt háy cô Ba Mộng Nguyệt. Cô Ba
Mộng Nguyệt hầm hừ cô Hai Kiều Liên).
> > Cô Hai Kiều Liên (rít lên):
> > Tao liều một dĩa bánh gan
> > Xô con đĩ chó xuống hàng súc sanh
Cô Ba Mộng Nguyệt (gầm lên):
> > Tao liều một tộ bánh canh
> > Con nào hỗn dữ, vuốt nanh tao bẻ liền
Cô Hai Kiều Liên (hét lên):
> > Tao liều một trái sầu riêng
> > Con nào độc hiểm tao nghiền ra tro
Cô Ba Mộng Nguyệt (rống lên):
> > Tao liều một cái bánh bò
> > Con nào chót chét tao cho mò xuống sông
Cô Hai Kiều Liên (điểm mặt Ba Mộng Nguyệt):
> > Môi mép cong cong chửi chồng như quỉ
Cô Ba Mộng Nguyệt (xỉa vào trán Hai Kiều Liên):
> > Cái mũi đỏ lòm như khỉ mắc phong
Cô Út Thanh Nga (năn nỉ hai bà chị dâu):
> > Cải ngọt nấu cá rô don
> > Thêm gừng, thành tộ canh ngon lạ lùng
> > Cá trê mà kho với gừng
> > Thơm ngát xóm dưới, thơm lừng xóm trên
> > Chung lưng đấu cật cho bền
> > Một nhà thuận thảo xóm giềng ngợi khen
> > Tốt chi trăng đố kỵ đèn
> > Con sâu, con rọm ghét ghen con tằm
Cô Hai Kiều Liên (xỉa xói):
> > Chanh, khế dâu sánh bưởi cam
> > Nấm đông cô vượt hẳn nấm tràm nghe chưa?
Cô Ba Mộng Nguyệt (lồng lộn):
> > Mầy chén kiểu, tao mũng vùa
> > Chơi nhau mới rõ hơn thua coi nào?
Cô Hai Kiều Liên (xông tới cô Ba Mộng Nguyệt):
> > Tao vặn cổ, tao bẻ đầu
Cô Ba Mộng Nguyệt (xáp lại cô Hai Kiều Liên):
> > Tao đây vả miệng, móc hầu con kia
... (Cả hai giao chiến, la om sòm)
Cô Út Thanh Nga (tách rời hai chị ra, van lơn):
> > Hai chị như cá thia thia
> > Đá nhau, đuôi vảy rách lìa tả tơi
> > Hai chị xin hãy tạm ngồi
> > Uống trà cho khỏe, nghe lời em phân
... (rót trà cho hai chị)
> > Tụi mình bổn phận dâu con
> > Chúc thọ mẹ chồng khăn lụa, gối tơ
> > Quản gì chuyện được, chuyện thua
> > Mà chuốc lấy giận, mà mua lấy hờn?
Cô Hai Kiều Liên (trề môi với cô Út Thanh Nga):
> > Mầy trổ giọng bà vải non
> > Tao đã tức sẵn, lại còn giận thêm
Cô Ba Mộng Nguyệt (xỉa vào trán cô Út Thanh Nga):
> > Giọng mầy em, nhưng không làm mềm sắt đá
> > Công giảng hòa lại hóa công toi
> > Ai ba khía, ai cá mòi?
> > Mở ra cũng thấy bọ dòi trong xương
... (Hai đàng thù nghịch cùng đứng dậy, nguýt nhau rồi tẻ
ra hai phía đi về phía cánh gà, trước khi vào buồng cùng
" xí" dài một tiếng).
> > MÀN MỘT, CẢNH BỐN
Cô Út Thanh Nga
Cô Út Thanh Nga (trầm ngâm):
> > Mẹ chồng thương, mọi đường suôn sẻ
> > Bả ghét rồi, tìm lổ nẻ mà chui
> > Làm dâu khó lắm, ai ôi!
> > Sướng chẳng dám cười, đau chẳng ui cha
> > Gặp Phật mẹ bảo là ma
> > Dâu con phải chịu nghe bà mới êm
> > Đá cứng, mẹ bảo lụa mềm
> > Dâu con hiếu thảo, đầu thèm đôi co
> > Gặp vạc mẹ bảo là cò
> > Con dâu liền gật đầu cho vui nhà
> > Trái mướp, mẹ bảo trái cà
> > Rồng phụng, mẹ bảo rắn gà cũng cam
> > Nấm mối mẹ bảo nấm tràm
> > Dâu nghe rồi cũng giả làm hân hoan
> > Khói bếp mẹ nói khói nhang
> > Dâu đành nín lặng, vội vàng bỏ qua
> > Cây gừa mẹ bảo cây da
> > Con dâu hớn hở thuận đà nghe theo
> > Dưa gang mẹ bảo dưa leo
> > Con chuột, mẹ bảo con mèo, cải chi?
> > Hủ tiếu mẹ bảo là mì
> > Thược dược, mẹ nói bông quì xin chớ để tâm
> > MÀN MỘT, CẢNH NĂM
Bà Phủ Thọ, Cô Út Thanh Nga
Bà Phủ Thọ (bước ra):
> > Con kia, sông cạn, nước ròng
> > Trưa trờ, trưa trật, lòng vòng chi đây?
> > Con nầy ngớ ngẩn như vầy
> > Thằng Út tui cũng khổ lây xưa giờ
Cô Út Thanh Nga (giựt mình):
> > Xin má tha thứ, con nhờ
> > Con mãi suy nghĩ, quên giờ nấu cơm
Bà Phủ Thọ (rít lên):
> > Tao chờ cho tới chiều hôm
> > Mâm cơm mới dọn, niêu tôm mới bày
... (Ba Phủ Thọ hầm hầm bước lại con dâu Út, làm cô Út
hoảng quá, chạy vào buồng vấp té).
Bà Phủ Thọ (cười ngất):
> > Tao đâu có ăn thịt mầy
> > Mà chạy cho té, mặt trầy thế kia!
MÀN HẠ
> > MÀN HAI, CẢNH MỘT
Cảnh:
Cũng căn phòng cũ, nhưng chưng dọn thêm bông hoa đèn nến,
vì hôm nay là ngày ăn mừng lễ lục tuần của bà Phủ Thọ.
Vừa mở màn ra đã thấy bà Phủ Thọ ngồi trên ghế đôn
sứ, mặc áo gấm hồng điều, cười chúm chím.
Thời Gian:
Vào lối: 10 giờ sáng
Bà Phủ Thọ (sửa một nhánh bông huệ cắm trong bình da rạn):
> > Tài nọ, nghề kia, lũ con dâu trau tria mặt gối
> > Mũi chỉ đường kim thiệt rắc rối, tinh vi
> > Thấy vàng nổi máu tham si
> > Tụi nó ghen ghét, thị phi cũng bởi mình
> > Bấy lâu mụ vẫn nín thinh
> > Coi thử nhơn tình ấm lạnh ra sao
> > Thử hỏi có con mèo nào
> > Đỏng đảnh chê mỡ, quơ quào rác rơm?
... (gằn giọng)
> > Mấy đời kẻ đói chê cơm?
> > Chú chệt há ghét mùi thơm chiên xào?
... (quay vào phía trong gọi lớn):
> > Cả kêu bớ ba nàng dâu
> > Rửa mặt, chải đầu, trang điểm xong chưa?
... (ba nàng dâu từ phía trong chạy ra).
> > MÀN HAI, CẢNH HAI
Bà Phủ Thọ và các cô
Hai Kiều Liên, Ba Mộng Nguyệt, Út Thanh Nga
Cô Hai Kiều Liên:
> > Thưa má,
> > Nắng ửng đọt dừa, sắp trưa rồi đó
> > Tiệc sẵn sàng, mâm nhỏ, mâm to
> > Con xào, con nấu, con kho
> > Lại thêm cá gỏi, chả giò, nem chua
Cô Ba Mộng Nguyệt:
> > Con sắm trái cây đương mùa
> > Làm bánh, dọn mứt chẳng thua người ngoài
Bà Phủ Thọ (liếc qua ba nàng dâu):
> > Gối đâu, bây kíp đem đây
> > Để má xem thử thiên tài nữ công
Cô Hai Kiều Liên (trình mặt gối):
> > Thưa má,
> > Sợi chỉ đạm hồng (#9) con thêu bông thược dược
> > Chỉ màu bích lục (#10) con thêu lá trúc chồi lan
> > Chỉ hồng đào, chỉ vàng con thêu bướm ngàn chim nội
> > Với kim tuyến chói lọi, con thêu lối hồi văn
Bà Phủ Thọ (chắc lưỡi):
> > Dâu lớn, ai dám sánh bằng
> > Thêu thùa như vậy, họa chăng gái Trời (#11)
Cô Ba Mộng Nguyệt (trình mặt gối):
> > Chỉ hồng phấn tươi, con thêu sen cười lựu nở
> > Chỉ mạ non rỡ rỡ, con thêu lá cỏ mùa xuân
> > Chỉ rạng ánh hồng con thêu bướm ong, chim cá
> > Chỉ san hô đẹp quá, con thêu hoa lá đài trang
Bà Phủ Thọ (hít hà):
> > Gối thiêu lóng lánh hào quang
> > Dâu nầy cũng khéo ngang hàng dâu kia
> > Chưng bày mặt gối chớp lia
> > Màu mè rằn rực, lạ kìa hạp nhau!
... (ngó qua cô Út Thanh Nga)
> > Dâu Út mặt gối để đâu?
> > Sau không thi thố thấp cao tài mình?
Cô Út Thanh Nga (cũng trình mặt gối):
> > Thưa má,
> > Nền lụa thiên thanh, con thêu hình Quan Âm Bồ Tát
> > Cầu mẹ chồng luôn vượt tai ương
> > Cầu cho phước thọ miên trường
> > Mẹ vui thơ thới, dâu con mừng thầm
Bà Phủ Thọ (ngắm nghía):
> > Bức tranh Quan Âm, mũi chỉ thần linh hoạt
> > Tài nghề nầy thiệt khác trên đời
... (moi chiếc vòng bát bửu ra)
> > Má vừa chùi chiếc vòng nầy
> > Biết trao trong lũ tụi bây, đứa nào?
Cô Hai Kiều Liên:
> > Thím Ba, thím Út tài cao
> > Xin má cứ chọn mà trao vòng vàng
Cô Ba Mộng Nguyệt:
> > Chị Hai, thím Út hai đàng
> > Đa tài, thêm đức ngang hàng với nhau
Cô Út Thanh Nga:
> > Hai chị đều có công lao
> > Yến tiệc, trà rượu quản bao nhọc nhằn
> > Nói chi thêu gối, thêu khăn
> > Xin má chọn một, mới an dạ này
Bà Phủ Thọ (ngạc nhiên):
> > Tao tỉnh, hay chiêm bao đây?
> > Tụi bây nhường nhịn, việc nầy khó tin
Cô Hai Kiều Liên:
> > Đâu phải vì vòng xinh, mà mất tình em chị
> > Vườn thơm nhờ lài, lý hiệp nhau
> > Giọt nước làm chẳng nên ao
> > Viên đá nào bắt non cao chọc trời?
Cô Ba Mộng Nguyệt:
> > Tình em, nghĩa chị đời đời
> > Vàng kia mây nổi, bột trôi sá gì?
Cô Út Thanh Nga:
> > Vòng kia xin má cất đi
> > Gối thêu chúc thọ quản chi nhọc nhằn
Bà Phủ Thọ (ngơ ngác):
> > Mụ đây như lạc cung trăng
> > Chị em tụi nó khăng khăng nhịn nhường
Cô Ba Mộng Nguyệt:
> > Chị em thành thiệt yêu thương
> > Cảnh nhà như vậy mọi đường ấm êm
> > Trăm gạch mới lót nên thềm
> > Nhờ giấm, tõi, ớt mắm nêm mới tuyệt vời
Cô Hai Kiều Liên:
> > Nực cười hai chị em tôi
> > Thấy vàng tối mắt, thốt lời chửi nhau
> > May nhờ có con em dâu
> > Lời lành can gián, về sau mới thuận hòa
... (chỉ chiếc vòng bát bửu)
> > Vòng nầy cho dâu thứ ba
> > Cô dâu phận Út vị tha hơn người
Cô Út Thanh Nga:
> > Nếu vòng nầy lọt về tôi
> > Tôi đem bán, dọn ngôi Niệm Phật đường
> > Cầu mẹ được phước, thọ, khương
> > Cầu cho hai chị yêu thương kính nhường
Cô Hai Kiều Liên (vuốt ve cô Út Thanh Nga:
> > Cầu cho dâu Út dễ thương
> > Được chồng sũng ái, đẻ con đầy nhà
> > Cầu em dâu thứ như hoa
> > Mùi hương đức hạnh bay xa dặm ngoài
Cô Ba Mộng Nguyệt (choàng tay qua vai hai nàng dâu kia):
> > Chị dâu tôi, em dâu tôi
> > Tình kia, nghĩa nọ đấp bồi thêm cao
Bà Phủ Thọ (vui vẻ):
> > Má mừng chẳng biết nói sao
> > Ba dâu tương ái trước sau một lòng
... (mở chiếc hộp sơn son thếp vàng lấy thêm hai chiếc
vòng)
> > Thiệt ra má có ba vòng
> > Thưởng lòng hiếu thảo, nữ công sá gì
> > Má già như bóng tà huy
> > Nay còn, mai mất, âm ty sẵn chờ
> > Mừng nhà chia sớt ấm no
> > Vui cảnh hòa thuận, trước giờ buông xuôi
> > Con Hai, con Ba, bớ bây
> > Cùng con dâu Út xòe tay nhận vòng
Cô Hai Kiều Liên (nhận chiếc vòng):
> > Nước mắt lưng tròng, con nhận vòng của má
Cô Ba Mộng Nguyệt (cũng nhận chiếc vòng):
> > Nước mắt rơi lả chả, sắc đá phải mềm lòng
> > Run run tay nhận chiếc vòng
... (nghẹn ngào)
> > Chiếc vòng bát bửu đẹp không đâu bằng?
... (Hai cô Kiều Liên và Mộng Nguyệt ôm nhau thút thít,
trong khi đó bà Phủ Thọ lấy chiếc vòng thứ ba tròng vào
tay cô dâu Út, rồi vuốt ve. Bỗng có tiếng lao xao ở
hậu trường).
Bà Phủ Thọ (khuyên):
> > Tụi bây mau kíp điểm trang
> > Lo dọn cổ bàn, bông trái sum sê
> > Bọn chồng bây cũng sắp về
> > Làm lễ chúc thọ, đề huề mẹ con.
... (Ba nàng dâu cùng xúm lại, kẻ đỡ mẹ chồng ngồi xuống
ghế, kẻ quạt hầu, còn người thì đốt trầm lên. Bà
Phủ vui sướng cười hăng hắc trong khi đó thì từ từ...)
MÀN HẠ
Chú Thích:
(1-) Vòng bát bửu là vòng có chạm tám món quí như cờ, quạt
ba tiêu, kiếm, đàn, ống sáo, giỏ hoa, bầu hồ lô,
quyển sách.
(2-) Vàng y là vàng nguyên chất
(3-) Dâu miền dưới có trái tròn, lớn hơn hòn bi một chút,
màu vàng. Có thứ trái chua, có thứ trái ngọt. Ở đây
bà Phủ Thọ ám chỉ bà không tin mình có dâu khả ái mà gặp
nhằm dâu khó thương.
(4-) Nét hồi văn là nét vẽ ven bìa những món ngoạn khí, nét
vẽ các khung tranh.
(5-) Con tôm lớn có càng. Con tép nhỏ hơn con tôm không có
càng. Đây muốn chỉ phận mình nghèo, không dám đeo vật
quí cũng như con tép nhỏ nhít hèn mọn không dám mơ được
cặp càng của con tôm ghép vào.
(6-) Trả là cái nồi đất lớn, vỏ mỏng nếu nấu đầu trâu
chỉ có nước bị lủng bể mà thôi. Những chị em bạn dâu mà
ở chung một nhà sẽ có ngày gấu ó làm bể nhà hư hại của.
(7-) Mỗi vòng hoa giáp gồm có 12 năm. Năm vòng hoa giáp tức
là 60 năm (12x5).
(8-) Sài Đô Tức là Thủ đô Sài gòn.
(9-) Chỉ đạm hồng là chỉ màu hường lợt.
(10-) Chỉ bích lục là chỉ màu xanh lá cây.
(11-) Gái Trời dịch sát theo chữ Thiên Nữ, gái ở trên Thiên
Đình lo việc dệt gấm thêu hoa.

Hết

Xem Tiếp: ----