Nhà chị Túc cách nhà tôi một hàng rào tre. Sát bờ tre sau vườn là một giếng nước xây bằng gạch có nền xi măng. Cạnh giếng nước có trồng một cây ổi sẻ cao vừa tầm tôi leo lên nghịch phá hằng ngày. Chị Túc thường chui rào qua giếng để gánh nước về nấu ăn và tắm giặt. Năm đó chị Túc 17 tuổi còn tôi 13. Tôi 13 là con nít đã đành, nhưng chị Túc đã 17 mà vẫn bị mọi người xem hãy còn con nít chẳng khác gì tôi. Thật oan cho chị. Chị chẳng cảm thấy phiền lòng chút nào về điều đó, ngược lại còn thích thú hơn là đằng khác. Chị vô tư lự đùa giỡn thân thiết với tôi như hình với bóng. Cuộc sống thôn quê trôi qua giữa hai chúng tôi thật là yên ả.
Mười ba tuổi tôi chỉ học đến lớp năm trường xã, như vậy giỏi lắm rồi còn hơn chị Túc không học lớp nào. Chuyện chị Túc không được đi đến trường, theo lời ngoại tôi nói bởi vì đầu óc của chị không được bình thường giống người khác. Chị bị mát dây, khù khờ ngớ ngẩn nên chú Tư để chị Ở nhà phụ giúp, đỡ đần công việc lặt vặt, chứ khùng như vậy học làm gì? Nghe nói đâu từ hồi lên năm chị bị một cơn sốt ác tính, nằm liệt giường cả tháng tưởng không qua khỏi, vậy mà lại thoát qua dù chỉ uống cầm hơi ba cái rễ cây sao khử thổ. Khi cơn sốt được đẩy lui đã mang theo những cái bình thường trong bộ Óc của chị. Ngoại kể hồi đó chị Túc ốm nhom ốm nhách lại đen thui, cả ngày không nói được nửa lời, ban đầu tưởng hậu quả của cơn sốt làm chị bị câm. Lớn lên vài năm, chị nói trở lại nhưng nói ba cái điều ngơ ngẩn gì ở tận đâu đâu. Làm đâu quên đó, làm cái gì cũng không nhớ, hỏi một đường trả lời một nẻo. Chú Tư buồn lắm nhưng không nói ra. Thím Tư mất sớm, tất cả tình thương chú đều dành cho đứa con bạc phước, chú để chị Túc muốn làm gì đó thì làm không cấm cản. Chị Túc có một may mắn là cơn bệnh ngặt nghèo không làm méo mó dị dạng con người của chị như đã từng gây cho biết bao người khác khi vướng vào. Cơ thể chị Túc vẫn phát triển bình thường, càng lớn chị càng đẹp. Chị nghĩ gì nói gì vô tư đôi khi như một đúa trẻ thơ. Một lần sau khi hai chị em đi xem phim Bích câu kỳ ngộ về, chị Túc đâm mơ màng và lúc nào cũng nghĩ mình là tiên nữ. Cõi tạm này chỉ là nơi chị gửi nhờ cuộc sống phàm trần khi mắc đọa. Chị đã đẹp, từ lúc chị nghĩ mình là tiên chị càng đẹp hơn. Mắt chị trở nên mơ màng long lanh, tóc dài mượt hơn, hai gò má ửng hồng hơn và có nhiều cử chỉ dáng điệu cũng rất dễ gây tò mò cho tôi hơn. Đêm nọ, tôi bắt gặp chị đang chui rào qua gốc ổi cạnh bờ giếng để treo một vật gì trên đó, cử chỉ thật đáng nghi. Sáng hôm sau chị dậy thật sớm tiu nghỉu tháo cái vật đêm hôm trước đem về để rồi mấy đêm liền đó chị lại tái diễn trò cũ. Liên tiếp mấy đêm mấy ngày chị làm như vậy khiến cho tính hiếu kỳ của tôi không thể nào dằn được, vì thế một lần sau khi chị Túc chui rào về, tôi bèn bò ra bờ giếng lén nhìn xem chị đã treo vật gì. Chỉ là một gói nhựa trắng dẹp bằng ba ngón tay bên ngoài có cột dây nhợ cẩn thận. Đầu dây nhợ được buộc chặt vào một mảnh ngói nhỏ. Tôi mở ra, một tờ giấy vở học trò trống trơn được gấp làm tư. Tôi chẳng hiểu gì hết bèn gói lại đàng hoàng như cũ treo trở lại cành ổi. Mấy lúc sau này, thường thấy chị buồn rầu ít đùa giỡn như trước, tôi hỏi:
- - Sao chị có vẻ buồn vậy?
Chị trả lời chẳng ăn nhập gì vào câu hỏi:
- - Đồ bạc bẽo.
Tôi ngạc nhiên:
- - Ai bạc bẽo? Em hả?
- Không phải em. Người ta.
- Người ta nào?
- Không biết.
- Trời! Không biết người ta là ai mà chị đã trách người ta bạc bẽo?
- Người ta bảo chị gửi thư lên cành ổi, người ta đến lấy vậy mà không đến. Nói láo không hà.
- Ủa nói vậy mảnh giấy chị treo trên cành ổi là thư chị viết đó hả?.
- Ừ....
- Nhưng thư sao chẳng có chữ với lại chị đâu biết chữ thì viết thế nào?
- Chị đâu cần phải viết, người ta vẫn đọc được điều chị muốn nói cái gì.
- Hay quá hen, người ta là thánh hả?
- Đâu phải thánh, chỉ là tiên giống chị thôi.
- Sao hồi nãy chị nói không biết người ta là ai?
- Thì chị đâu biết là ai, chị chỉ biết là tiên sẽ ghé lại đây vì đã có ước hẹn trăm năm với chị.
- Còn mảnh ngói buộc ở đầu dây nhợ?
- Buộc cho nặng để gió khỏi bay.
Tôi gật gật đầu như đã hiểu, nhưng thật ra tôi chẳng hiểu gì hết. Mảnh ngói buộc đầu dây nhợ cho nặng tờ giấy để gió khỏi bay là có lý đã đành chứ còn tiên hẹn hò với chị? Túc sao đáng nghi quá. Chị Túc giải thích mạch lạc làm tôi cứ phân vân. Thấy tôi có vẻ không tin gì mấy, chị nói:
- - Một ngày nào đó người sẽ ghé lại cõi trần này và nhận thư của chị cho em xem.
Thế là ngoài chị Túc, lần này thêm có tôi cùng chờ. Hai chị em ngóng ngày ngóng đêm mà lá thư ước hẹn của chị vẫn tòn ten buồn bã mỗi ngày. Chị Túc cũng buồn theo trông thấy. Hai chị em cứ chờ hoài chờ hủy nóng cả ruột. Chịu hết nổi, tôi bèn lén lấy thư dấu đi chỗ khác. Sáng hôm sau chị Túc mừng ríu rít chạy tìm tôi để khoe:
- - Em Ngọc ơi, người ta đã đến tìm chị.
- Đến rồi hả? Đến hồi nào?
- Hồi hôm, người ta nhận thư chị gửi. Vui quá, như vậy chị sắp đi rồi.
Tôi hỏi:
- - Đi đâu?
- Lên trời.
- Một mình?
- Với người ta.
- Bỏ em ở lại?
- Ừ em người phàm phải ở lại.
Chị Túc đúng là vô tình. Bỗng nhiên tôi cảm thấy buồn vô cớ. Mặc dù tôi là thủ phạm dấu thư của chị, nhưng tôi lại tin chị Túc là tiên sẽ lên trời thật. Tôi đem thắc mắc này chạy về hỏi ngoại:
- - Chị Túc sắp lên trời hở ngoại?
- Ai nói?
- Chị Túc nói.
Ngoại tôi cười hiền lành:
- - Hơi sức đâu nghe lời con khùng đó cháu.
Thật kỳ cục, chị Túc bảo mình là tiên, còn ngoài ra không riêng gì ngoại mà cả xóm này ai cũng gọi chị Túc là con khùng hoặc con ngớ ngẩn v.v... không ai tin lời chị nói. Chỉ có mình tôi là tin. Chị Túc nhỏ nhẹ, dễ thương lại đẹp nhất xóm, sao có thể khùng được?
Một ngày chủ nhật, chị Túc rủ tôi đến tháp An Chánh chơi. Nghe nói tháp được xây cất từ thời Chiêm thành. Người ta đồn sau khi vua Chiêm lấy được Huyền Trân công chúa vào năm 1306 đã cho dựng lên ngọn tháp này đánh dấu sự thành công về mặt ngoại giao, để rồi vào năm 1470 vua Trần kéo quân vào đánh chiếm để mở mang bờ cõi. Tháp có ba ngọn, những tầng gạch được xếp chồng từng lớp lên nhau. Ba ngọn tháp đứng song song, ngọn giữa cao hơn hai ngọn tả hữu. Mỗi tháp có một cửa quay về hướng đông. Phần giữa tháp trở lên có những tảng đá xanh viền chung quanh đẹp như một huyền thoại. Chính vùng đất này là nơi phát tích bao đấng anh hùng của dân tộc Nguyễn Huệ Quang Trung, Mai Xuân Thưởng,Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân. Một thời oanh liệt xưa đã thành dĩ vãng để giờ này chỉ còn tôi đứng cùng chị Túc với khung cảnh chung quanh vắng ngắt, không khí âm u, như có những oan hồn của dân Chiêm Thành uất nghẹn còn lẩn khuất đâu đây. Bốn bề chung quanh là ruộng. Một con đường đất nhỏ là đường độc đạo lối vào tháp. Đứng trên gò cao nhìn xuống về phía xa xa có thể quan sát quốc lộ 19 dẫn đến huyện lỵ Bình Khê nằm uốn mình ôm dọc theo sông Côn. Tôi cũng có thể nhìn thấy bãi cát trắng ngần được đè dịu dàng bởi những hòn đá chồng thẳng đứng lên nhau trông thật ngộ nghĩnh. Khuất bên trái là một rừng dừa bát ngát, những thân dừa cao vút lả ngọn rì rào hát cùng gió sông thổi lên. Một bức tranh tuyệt đẹp của hóa công. Tôi nghĩ như thế. Chị Túc đưa cho tôi trái dừa đã chặt sẵn không biết chị lấy từ đâu, tự lúc nào. Chị nói em uống đi. Hương vị ngọt ngào của nước dừa xiêm cứ ngấm đọng mãi trong lòng. Bất giác tôi tự hỏi hương vị đó là hương vị của nước dừa xiêm, của cảnh vật thiên nhiên tuyệt mỹ hay là của chị Túc? Nhìn chị rạng rỡ cùng đất trời, tôi chợt lo sợ đến ngày chị hoá thành tiên bay lên trời bỏ một mình tôi ở lại. Tôi năn nỉ chị Túc:
- - Chị đừng làm tiên nữa nha chị?
- Chi vậy, có chuyện gì hôn?
- Đâu có gì, chị làm tiên rồi em chơi với ai?
- Thì em sẽ lớn lên, em sẽ đổi khác và em sẽ quên chị.
Chị Túc trả lời trơn tru, lưu loát.
- Em sẽ không quên chị đâu.
- Thật nhé.
- Thật.
Mùa hè đến chị Túc vẫn chưa lên trời dù thư gửi đi có người nhận từ lâu. Trong khoảng thời gian chờ đợi, chị Túc lại rủ tôi đi bẻ mía trộm. Bãi mía nằm bên kia sông, hai chị em phải chèo xuồng. Đúng hơn là mình chị Túc chèo, còn tôi thì a dua. Ngồi trong khoang xuồng chòng chành, tôi vụng về hết nghiêng bên trái rồi lại nghiêng bên phải.
- Ngồi yên cho chị chèo, con trai gì đâu mà chết nhát như thỏ cáy.
- Thỏ cáy là thỏ gì?
- Chị không biết.
Cái gì chị cũng nói không biết, vậy mà cái gì chị cũng biết hết trơn. Chỉ có tôi là cái gì cũng không biết, mặc dù tôi học lớp năm còn chị Túc thì không có học lớp nào. Ngồi trên ghe chòng chành tôi cứ có cảm tưởng lúc nào cũng ở trong tư thế bị hất xuống sông trong khi tôi không biết bơi. Sóng nước vỗ vào mạn ghe làm tung những giọt sóng li ti. Qua khúc quẹo của con sông rẽ vào bãi mía, chị Túc nghiêng mình lấy đà, tôi hoảng vía bò lại phía chị, xuồng chao mạnh, nước tràn vào khoang óc ách. Xuồng sắp chìm, không ngờ đi ăn trộm mà cũng nguy hiểm hồi hộp như vầy, tôi la lên:
- - Chị Ơi, em không biết bơi.
- Chị biết, em đừng lo.
Nghe chị bảo biết bơi, bỗng dưng tôi mong cho ghe bị chìm để được chị cứu. Nghĩ đến cảnh được chị Ôm vào lòng kéo vô bờ, tôi khao khát được chết đuối vô cùng. Thế là sanh trò ma giáo vặt, tôi bò lại phía mũi ghe. Chị Túc vừa lấy đà nghiêng bên trái để chống cây sào chưa kịp rút lên khỏi mặt nước thì tôi lại lăn qua bên phải, hai tay quờ quạng, thế là chiếc ghe bị lật úp bất ngờ. Mặc dù đã có sự chuẩn bị chơi trò này, tôi vẫn không sao thoát khỏi hoảng hốt. Vừa chỉ vừa kịp la lên chị Ơi là nước sông lờ lợ tràn vào cuống họng ừng ực. Chị Túc xốc tay vào nách tôi lôi dậy:
- - Nước chỉ cạn đến ngực thôi mắc gì em uống dữ vậy.
Tôi thử đứng thẳng người quả nhiên nước chỉ đến ngực. Thấy tôi mắc cở lỏn lẻn, chị Túc không nói gì lẳng lặng kéo chiếc ghe lên và dốc nước. Hai tay chị đu đưa nhịp nhàng theo mạn ghe làm nước bắn tung tóe đầy trời. Bỗng chị Túc cười nắc nẻ, hình ảnh đẹp đến rợn người. Thấy tôi ngẩn ngơ, chị Túc hỏi:
- - Em làm gì mà nhìn chị chăm chăm vậy?
- Chị đẹp quá.
Chị Túc gật đầu tỉnh bơ:
- - Ừ chị đẹp lắm chứ sao.
Hết hè tôi lên lớp sáu. Lên trung học phải ra trường huyện. Huyện lỵ cách nhà 4 cây số phải qua một con sông. Sáng nào tôi cũng phải thức dậy trước năm giờ để chuẩn bị cơm nước mang theo trưa ở lại trường. Phương tiện di chuyển là chiếc xe đạp đòn giông duy nhất trong nhà. Hôm khai giảng chị Túc nhìn tôi mặc áo sơ mi trắng, quần dài xanh, tém thùng đàng hoàng, tóc tai thẳng mướt, buột miệng:
- - Trông em bảnh trai ghê, lại cao gần bằng chị rồi.
- Ở nhà chị chơi một mình nha. Em đi học chiều em về với chị.
- Ừ em đi học, nhớ đạp xe cẩn thận.
Năm đầu tiên của lớp sáu xa nhà tôi nhớ chi Túc kinh khủng. Chỉ mong cho mau nghe tiếng kẻng để cắm đầu cắm cổ đạp xe về cho lẹ. Trong lớp bạn học con gái cũng nhiều, nhưng thật kỳ tôi thấy mình không thể thân với ai. Chỉ cần nghĩ đến hình ảnh chị Túc lủi thủi một mình không ai thèm chơi với chị là lòng dạ tôi bồi hồi nôn nao. Tôi mồ côi cả ba lẫn mẹ. Ngoại nuôi tôi từ lúc mới lọt lòng. Tôi thiếu tình mẫu tử, chị Túc cũng thế. Có lẽ vậy mà tôi trở thành thân thiết với chị Túc chăng? Còn chị Túc hầu như buổi chiều nào khi tôi vừa quẹo qua khỏi chợ Mỹ Yên là đã thấy thấp thoáng bóng dáng chị ngóng từ xa. Học trung học tôi cũng đã bắt đầu đổi khác, tôi đi đứng chững chạc, sự học đưa đến tầm hiểu biết của tôi đi xa hơn. Tôi có thể nhìn lên bầu trời biết được sau những đám mây kia là không gian trống trơn vô cùng bao la rộng lớn. Mọi sinh vật khả năng có thể có vẫn còn đang nằm trong sự tìm kiếm khai phá của loài người. Việc học đại khái dạy cho tôi như vậy, nhưng tôi vẫn tin cao hơn nữa, xa hơn nữa là thế giới tiên nữ. Ở đó có người ta đang chờ đón chị Túc trở về. Giữa năm học mấy đứa cùng lớp gán ghép cắp đôi từng cặp. Tôi mơ hồ hiểu rằng người ta sống ở đời rồi cuối cùng ai cũng phải lớn dần với thời gian vàcạnh một người nam cần phải có một người nữ. Giữa hai người khác phái này sẽ tạo cho nhau một cảm giác lạ lùng huyền nhiệm khác. Cảm giác đó thế nào? Tôi rất mơ hồ chẳng hiểu nổi? Không biết cái cảm giác mà tôi có mỗi khi gần gũi chị Túc có phải là cảm giác thượng đế trao cho giữa một người nam và một người nữ? Nhớ một ngày nắng hạ khô hanh, chị Túc rủ tôi ra đám ruộng sau nhà cắt lúa. Mặc cái áo cũ rộng thùng thình, chị Túc giống như một hình nộm. Chị như nhỏ bé lại đang trốn núp trong chiếc áo cũ kia. Trông chị Túc luộm thuộm và vui mắt ấy thế mà chị lanh lẹn vô cùng. Tay trái chị nắm gọn gàng từng dé lúa, tay phải chị đưa nhẹ nhàng chiếc câu liêm, thao tác thật nhịp nhàng. Tôi luẩn quẩn cắt bên cạnh chị, dù cố gắng hết sức vẫn không cắt được bao nhiêu, lại mấy lần suýt đưa lưỡi liềm vào tay. Trong lúc mồ hôi tôi chảy ròng ròng thì chị Túc dường như thơ thới hơn. Dưới cái nắng hạ, những giọt mồ hôi đọng thành chuỗi trên trán chị, trên vành môi chị. Mùi mồ hôi con gái đánh động trong tôi cảm giác khó quên, nhất là người con gái đó là chị Túc. Mùi mồ hôi đọng hương trong tâm khảm chừng như thiên thu bất diệt. Cắt chưa xong đám ruộng trời đổ mưa. Mây giăng khắp cánh đồng một màu xám ngắt. Những đường sáng loằng ngoằng va chạm vào nhau trên không trung làm vỡ ra những tiếng sấm vang rền. Nghe trời như đang nghiến răng sắp sửa nổi cơn thịnh nộ giáng xuống trần gian một điều gì kinh hồn. Mưa bỗng phủ trắng khắp cánh đồng. Tôi nép vào chị Túc, hai chị em chìm trong màn nước nặng trịch. Không biết hơi ấm của tôi chuyền qua chị, hay là hơi ấm từ cơ thể chị chuyền qua tôi? Chỉ biết rằng chiều mưa quên lạnh và cứ cầu mong mưa kéo dài đừng bao giờ dứt. Nhưng rồi mưa cũng tạnh, tôi luyến tiếc rời chị, và thật lạ lùng chừng như tôi đọc được sự đờ đẫn rõ ràng trên khuôn mặt chị. Vậy mà chị Túc lại phá lên cười rũ rượi xem như chẳng có gì:
- - Thôi mình về đi em, trời mưa mau tối.
Hai chị em đi ngược dòng nước lên ruộng. Bùn nhão nhẹt dưới chân. Tôi trợt té lên té xuống mấy lần và lần nào cũng được chị Túc dang tay ra đỡ. Mỗi lúc đó tôi lại được ngửi mùi của chị và ước ao giá như mà được chị Ôm đầu vào lòng ngực xuân thì kia? Đêm hôm ấy tôi nằm mơ thấy mình đang đi lắc lư trên chiếc câu khỉ, phía dưới là một vực sâu hun hút. Bỗng tôi trợt chân, khi còn đang chới với trong tư thế sắp sửa rơi thì một cánh sao từ đâu bay lại. Cánh sao càng đến gần càng lớn dần lên, tôi đưa tay bám vào và cánh sao hóa thành chị Túc. Tôi giật mình thức giấc. Đêm vẫn đang yên ả cùng đất trời. Tôi nhắm hai con mắt trở lại, cứ chập chờn, chập chờn cầu mong giấc mơ lại đến với mình để xem cánh sao trời kỳ diệu kia đưa tôi về đâu?
Ba tháng hè cuối năm lớp sáu tôi được nghỉ hè. Chị Túc vẫn chưa về tiên giới như chị đã thầm thì. Và tôi cũng đã lớn thêm một tí xíu để mù mờ hiểu thêm rằng cõi tiên kia là không có thật. Tôi muốn đem những điều tôi thu nhập được từ học đường để giải thích một cách khoa học cho chị Túc hiểu điều đó. Nhưng thật tội nghiệp cho chị, đầu óc chị trong sáng như trẻ thơ, chị không chịu tin những gì tôi giải thích. Chị hỏi ngược lại tôi:
- - Em có đồng ý chị là tiên nữ hay không?
- Dạ đồng ý.
- Nếu em tin chị là tiên thì em phải tin chị phải có một nơi để đi về. Nơi đó là cõi tiên.
Chị Túc khẳng định một cách chắc ăn như vậy. Tôi không tin có cõi tiên, nhưng tôi tin chị Túc là tiên mắc đọa. Tôi cứ lẩn quẩn trong ý nghĩ một cách mâu thuẫn về những điều này. Tôi đã lớn không thể chạy theo hỏi ngoại nữa, mà ngoại năm nay xem chừng đã già đi nhiều. Cả xóm bảo chị Túc càng ngày càng khùng, còn tôi thấy cả xóm càng ngày càng vô lý. Chị Túc không có một hành động hoặc một cử chỉ nào chứng tỏ chị khùng, tôi không hiểu tại sao người ta bảo chị khùng? Yếu tố để bảo chị khùng? Dựa vào đâu? Giữa tiên và khùng cách nhau bao xa? Có gì nằm giữa ranh giới đó? Điều gì để phân định thế nào là tiên, thế nào là khùng? Nếu nói về khùng thì giữa tôi và chị Túc ai khùng hơn ai? Tôi càng ngày càng đọc được trong cơ thể tôi cái cảm giác mà chị Túc đã làm cho khác lạ, còn chị Túc có thấy được cái cảm giác mà chị đã làm cho tôi cảm thấy khác lạ hay không? Những năm sau này chương trình học càng lên cao tôi càng bận rộn.Tôi ở hẳn ngoài huyện, chỉ về thăm nhà để xin tiếp tế một tuần một lần chứ không còn sáng đi chiều về nữa. Tôi trổ giò cao nhanh như thổi. Chị Túc bây giờ chỉ đứng đến vai tôi thôi, và tôi thường choàng tay ôm qua vai chị. Chị nhỏ nhắn nép gọn vào lòng làm cho tôi cảm thấy mình trở thành người lớn. Chị Túc rất thích được ngồi cùng tôi trước thềm nhà để nghe tôi kể chuyện cổ tích hoặc ngâm thơ. Càng lớn tôi càng thấy chị Túc càng con nít. Chị không còn mơ thành tiên để về trời nữa mà chị lại mơ ước được có một con búp bê làm bầu bạn trong những ngày tôi bận học ở huyện lỵ. Tôi cố gắng nhịn ăn quà ròng rã mấy tháng trời mới mua được cho chị một con búp bê bằng nhựa biết nhắm mắt mở mắt. Tôi biết chị Túc sẽ mừng run lên khi nhận được món quà bất ngờ này. Trưa thứ bảy như thường lệ sau khi vứt chiếc xe đạp vào góc hè, tôi vội vàng chui rào đem quà qua nhà chị Túc. Nhà trên không có ai, tôi gọi chị Túc, chẳng có tiếng trả lời. Bỗng tôi nghe như có tiếng nước xối phía sau chái. Tò mò vạch khẽ tấm liếp nhìn ra, tôi bỗng giật nẩy người sững lại. Cổ họng đột nhiên như bị nuốt một vật gì thật cứng mắc nghẹn không trôi. Tôi trông thấy chị Túc đang tắm. Ai lại rình xem đàn bà đang tắm? Tôi rón rén bỏ lên nhà trên trở lại. Nhưng ngồi chưa nóng đít, lòng tôi đã nhấp nha nhấp nhổm, trong bụng thì bảo đừng mà cái đầu thì cứ loay hoay muốn tò mò nhìn xem thân thể đàn bà khác đàn ông chỗ nào. Ngực tôi đánh thình thịch, không hiểu động cơ nào xui khiến, tôi lại đi nhè nhẹ xuống bếp và đưa tay run run khẽ vạch tấm liếp ra lén nhìn. Chị Túc mặc chiếc quần dài đen, chiếc áo soa bông mỏng bên trong không mặc đồ lót. Chị đưa từng gáo nước xối lên đầu, tiếng nước róc rách chảy len lỏi trên từng vuông thân thể nghe như tiếng gào nhẹ của tiếng gió lướt qua mành cửa những buổi chớm thu về. Mặt tôi hừng hực và tôi nín hơi bất động trong một cảm xúc diệu kỳ cao độ. Hai vú chị Túc căng tròn lồ lộ qua làn vải ướt, tôi thấy rõ mồn một đầu núm vú nhỏ bằng hạt đậu xanh màu hồng. Chị đưa tay vuốt lên vai rồi chùi xuống vò lên ngực. Hai vú của một người thiếu nữ hai mươi tuổi tròn càng căng hơn khi bàn tay chị ấn phía dưới để vuốt ngược lên trên. Tiếng vải cọ vào da nghe soàn soạt tôi có cảm tưởng làn vải soa mỏng dính kia sắp sửa bị rách tung. Tôi cứ thế chìm đắm trong cảm giác dậy thì của một đứa con trai mười sáu tuổi. Tay kẹp chặt vào đùi, hai hàm răng cắn chặt vào môi gần rướm máu. Hơi thở dồn dập như một kẻ động kinh, bỗng vang lên từ tâm thân một tiếng gì như là tiếng nắp chai bia vừa bật nút. Như tiếng bắt đầu của một chùm pháo bông bắn lên bầu trời trong đêm hội hoa đăng, tôi bay bổng theo chùm sáng loé lên gần như bất tỉnh. Chị Túc trong bộ đồ ướt trở nên huyền nhiệm lung linh, những giọt nước đọng trên khuôn mặt, một hình ảnh đẹp tuyệt vời. Tôi rên rỉ gọi “ chị Túc chị Túc ơi “ trong cuống họng không phát thành tiếng. Tiếng rên rỉ kéo dài theo cơn thống khoái, tôi cứ đắm chìm mê sảng như vậy không còn biết đất trời chung quanh đang xẩy ra chuyện gì? Cho mãi đến lúc có tiếng chị Túc phía sau lưng:
- - Ủa em về hồi nào, sao không gọi chị?
Tôi hết hồn tỉnh lại., ngượng nghịu ấp a ấp úng. Chị Túc cười:
- - Rình xem chị tắm phải không?
Phản xạ tự nhiên tôi chối:
- - Dạ đâu có.
Chị cười to:
- - Không có mà lấp la lấp ló như ăn trộm vậy.
Chị xem chuyện nhìn chị tắm là chuyện bình thường như tôi đang xem một đứa bé tắm. Với chị như chẳng có gì đáng phải quan tâm. Bộ Óc chị xưa nay vẫn thế, vẫn trong sáng vô tư chẳng có gì phiền hà. Chị hỏi:
- - Em đi đường có mệt không? Chờ chị thay đồ xong ra chơi với em.
Tôi chỉ biết dạ nho nhỏ. Khi chị Túc vào buồng thay đồ, tôi mới phát giác chiếc quần tôi đang mặc phía dưới ướt một mảng. Tôi vội để con búp bê trên bàn nói vọng vào:
- - Em chạy về có chuyện chút xíu em qua liền nha chị.
Không đợi chị Túc trả lời tôi vụt lẹ ra bờ rào và biến thật nhanh. Đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào là tuyệt đỉnh của cảm giác. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất đậm sâu trong cơ thể tôi không thể nào phôi pha. Sau này qua bao cuộc thăng trầm vật đổi sao dời, lên voi xuống chó bao phen, nhục có vinh có, leo lên leo xuống không biết bao nhiêu thân thể đàn bà vậy mà vẫn không bao giờ phai nhạt trong tôi hình ảnh của chị Túc đang tắm trưa hè và cảm xúc tột độ mà chị đã ban cho. Chị Túc đã mở cánh cửa dậy thì trong xác thịt của tôi bước vào một lần thật hiển nhiên để rồi định cư vĩnh viễn.
Cuối năm lớp 10 thì miền Nam mất. Ruộng đất hương hỏa bị tịch thu đưa vào hợp tác xã. Ngoại không còn nguồn thu nhập để nuôi tôi tiếp tục ăn học, vì thế tôi phải bỏ ngang nửa chừng. Cạy cục mãi mới xin vào được làm công nhân viên cho Ty lâm sản Gia Lai. Vì nhu cầu công việc, tôi phải theo cơ quan lên Pleiku. Lương công nhân viên chỉ đủ lây lất vài ngày đầu tuần, phải chạy chọt mánh mung mới có thể cầm cự qua ngày, vì thế tôi không có thời giờ để về thăm ngoại thường xuyên nữa. Ngoại với tôi, chỉ còn hai bà cháu bỗng nhiên trở thành một cảnh hai quê. Hoa. hoằm lắm một hai năm mới được về thăm một lần. Cuộc sống lầng quầng càng ngày càng bế tắc không lối thoát. Như vậy đã còn may, bên ngoài biết bao nhiều gia đình tan nát đến nỗi khoai mì trộn cơm cầm hơi ngày một bữa mà vẫn không có mà ăn Ngoại tôi đã già, phần vì tiếc ruộng tiếc vườn, một phần vì nhớ cháu uất ức không dám nói ra, sanh bệnh qua đời. Tôi được phép bảy ngày để về quê chôn ngoại.
Trở lại chốn cũ, cảnh nhà xơ xác. Hàng rào tre con đường giao liên của hai chị em không ai rong, chà, cỏ dại mọc phủ kín cả lối đi. Thấy chú Tư ẳm một đứa bé khoảng năm sáu tháng gì đó, ngạc nhiên tôi hỏi:
- - Con ai mà chú ẳm?
- Thì con của con Túc chứ ai.
- Chị Túc lấy chồng?
- Chồng con gì. Khùng điên ai thèm lấy.
- Vậy sao có con? Ai là ba nó?
- Chú không biết. Ai gặng hỏi gì nó cũng không nói. Chỉ biết một lần mờ sáng cả xóm thấy nó chạy về hớt hơ hớt hãi, người lạnh như cắt và mồm thì ú ớ nói hông ra lời. Với người bình thường thì người ta sẽ khóc lên cho hả, cho vơi đi, nhưng với con Túc thì nó lại không khóc. Nó cứ ngơ ngơ ngáo ngáo cho đến khi thấy chú nó chỉ biết ôm ghì tay chú. Sau đấy thì bụng nó cứ to lên mặc cả xóm bàn tán xì xào rỉ tai nhau đoán xem ai là ba đứa nhỏ. Đủ tháng đủ ngày thì nó sinh đứa bé này giao chú, cả ngày cứ đi lang thang trên mấy cánh ruộng. Chú vừa làm ông ngoại vừa làm ba đứa bé chứ con Túc nó có màng đến đâu.
Tội nghiệp chú Tư già đi trông thấy. Đi hết từ nỗi đau này đến nỗi đau khác, tóc chú bạc nhanh và lưng hơi còm xuống. Chiều chị Túc về. Ôi còn đâu dáng năm xưa của chị. Trông chị tiều tụy xơ xác, tóc tai bơ phờ như là vừa thoát qua một cơn chạy loạn. Tôi chạy đến nắm tay chị:
- - Chị Túc nhớ em không?
Chị gật đầu:
- - Em là Ngọc đây mà sao lại không nhớ.
Chờ lúc chú Tư ra phía sau, tôi hỏi nhỏ chị Túc:
- - Chị có thể cho em biết ai là ba của đứa bé không?
- Thằng Báu công an xã. Nửa đêm nó gặp chị ngoài ruộng nó dí súng bắt chị phải ủng hộ cách mạng.
- Sao chị không la lên.
- La lên cho nó bắn à. Nó làm chị đau quá hà.
- Sau đó sao chị không nói cho chú Tư biết để bắt nó cưới.
- Ai thèm cưới nó cái thằng hôi như chuột chù ấy.
Tôi chỉ biết lắc đầu. Chiều hôm trước khi sáng hôm sau lên đường trở lại Pleiku, tôi bảo chị Túc tắm rửa sạch sẽ chải tóc gọn gàng để tôi dẫn ra mả thăm ngoại. Tôi đùa:
- - Chị có biết tắm không? Hay để em tắm giùm chị?
- Em đừng có ham. Chị lớn rồi chứ bộ. Nhưng lần này em không được rình xem chị tắm đó nha.
Khi chị nói có chú Tư đứng đó làm tôi ngượng đỏ mặt. Còn chú Tư thì ngơ ngác không hiểu hai chị em đăng nói chuyện gì.
Ngoại tôi được chôn trên mảnh vườn trống dưới một gốc xoài. Gió chiều hiu hiu, đồng quê im vắng. Chị Túc ngồi dựa vào gốc xoài, tôi đứng sau lưng đưa tay chỉ ra đám ruộng xa xa:
- - Chị còn nhớ kỷ niệm hồi nhỏ của hai chị em mình không?
- Sao không nhớ. Em ăn gian thấy mồ. Hôm cắt lúa trời mưa giả đò trợt té để được chị Ôm.
- Em té thiệt chứ bộ. Nhưng em thích được chị Ôm vào lòng.
Nắm tay chị, nhìn sâu vào mắt tôi lại hỏi:
- - Giờ chị có còn muốn ôm em vào lòng nữa không?
Chị Túc lắc đầu:
- - Em bây giờ lớn rồi làm vậy kỳ chết.
- Với chị, em vẫn là thằng Ngọc bé nhỏ ngày nào lăng xăng khắp nơi.
Tôi định nói tiếp một điều quan trọng, nhưng chưa biết mở lời bằng cách nào. Đối với một người ngô nghê không bình thường như chị Túc nói chuyện đàng hoàng nghiêm chỉnh không phải là dễ. Cuối cùng tôi cũng nói:
- - Chị có biết là em yêu chị không?
Chị Túc tỉnh queo:
- - Biết chứ.
- Vậy chị biết yêu là có nghĩa gì không?
- Là rình xem người ta tắm không biết mắc cở.
- Thôi mà. Em hỏi thật đấy.
- Thì chị cũng nói thật đó.
- Nếu vậy hồi đó lỡ em “này nọ” chị có giận ghét em không?
“ Không bao giờ chị giận ghét em. Em là em của chị là người duy nhất trên đời này mà chị thương mến.
- Ừ thôi em là em của chị. Chị có còn thích nghe em ngâm thơ không?
Chị Túc gật đầu. Tôi ngồi sát vào chị đưa tay choàng qua bờ vai bây giờ đối với tôi trở thành nhỏ bé. Chiều thinh lặng nuốt dần hai chị em vào chạng vạng. Tôi ngâm khe khẽ bài Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm:
- - Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng.
Chị thẩn thơ đi tìm.
Đồng chiều.
Cuống ra..
Chị bảo:
- - Đứa nào tìm được lá diêu bông.
Từ nay ta gọi là chồng.
Hai ngày, em tìm thấy lá.
Chị cau mày.
- Đâu phải lá diêu bông.
Mùa đông sau,Em tìm thấy lá.
Chị lắc đầu.
trông nắng vãng bên sông.
Ngày cưới chị.
Em tìm thấy lá.
Chị cười se chỉ ấn trôn kim.
Chị ba con, Em tìm thấy lá.
Xoè tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy em cầm chiếc lá.
đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi.
Diêu bông hỡi!
ới Diêu Bông!.
Chị Túc ngã đầu trên vai tôi ngủ ngon lành. Dù khuôn mặt kia có tiều tụy hốc hác cằn khô vì năm tháng, nhưng giấc ngủ không giấu được nét trẻ thơ. Tôi khẽ đưa tay vén lại sợi tóc mà gió vô tình làm bay lòa xòa trên khuôn mặt. Chị Túc và tôi ngồi yên lặng như vậy cho đến khi trời tối hẳn.
Sau đó tôi trở lại Pleiku. Đám bạn bàn tính chuyện tổ chức vượt biên. Ngoại mất tôi tứ cố vô thân nên quyết định đồng ý tham gia một cách lẹ làng. Chuyến vượt biên trót lọt. Tôi không kịp đem chị Túc theo, mà chắc gì chị đã theo? Còn bàn tính kế hoạch với người bất bình thường như chị lỡ hé môi sơ hở điều gì có nước ở tù cả đám.
Người đàn ông ngừng kể. Chiếc giường trải ra của bệnh viện trắng toát trông buồn bã. Cô y tá áng chừng ngoài hai mươi, đưa tay sửa lại chiếc gối và nâng đầu bệnh nhân đặt cho ngay ngắn. Không ngăn được tò mò cô hỏi:
- - Thế chú có biết lá diêu bông hình dáng nó như thế nào không?
Người đàn ông lắc đầu:
- - Làm gì có lá diêu bông. Nhưng điều ấy quan hệ gì? Chỉ biết rằng đã có một thứ lá như vậy trong đời và nó rất quan trọng đối với chàng trai vừa mới lớn si tình. Tình yêu dịu dàng đầy e ngại nhưng chân thành. Chàng trai muốn trao cho cô gái kia tất cả niềm khao khát của mình, trao niềm hạnh phúc kiếm tìm và hy vọng. Nhưng lá diêu bông chỉ là một chiếc lá ảo ảnh, nghĩa là không có thật, vậy mà tình yêu của chàng trai đó quá tuyệt đối đến nỗi biết là ảo ảnh nhưng vẫn đi tìm. Người con trai trong bài thơ của Hoàng Cầm khác gì tình yêu chú dành cho chị Túc. Biết rằng không bao giờ thành sự thực vậy mà trong sâu thẳm tận cõi hồn chú hình bóng chị không thể phai mờ.
Cô y tá rơm rớm nước mắt:
- - Từ đó đến nay chú có biết tin tức gì về cô Túc không?
- Hai mươi năm còn gì. Sống giữa một đất nước khổ nạn mà người bình thường còn không kiếm ăn nổi đừng nói chi một người ngô nghê như chị ấy. Làng chú lại xa quốc lộ nghèo xơ xác nằm dưới chân ngọn Trà Sơn. Gọi là núi chứ thật ra đó chỉ là một ngọn đồi trọc, cây cỏ mọc không nổi. Cây chỉ là những cọng chà loe ngoe, dân làng bẻ mót để dành làm củi, còn rau cỏ dại vừa nứt đọt nào là bị bẻ đọt đó để ăn cầm đói. Lại còn đứa bé con chị Túc nếu còn sống, năm nay cũng đã hai mươi. Chú thật đoảng, cũng không để ý đứa bé trai hay là gái.
- Vậy bây giờ chú còn yêu cô Túc không?
- Chị Túc là bóng mát cho chú đụt nắng mỗi khi lòng chú đang có điều gì nóng nẩy. Chú trôi giạt giữa dòng đời lên ghềnh xuống thác cũng đã bao phen. Có cái gì trên cõi sống này mà chú chưa từng nếm qua? Đời đã huấn luyện cho chú trở thành một người gần như chai đá, cả thân xác cũng như con tim. Vậy mà mỗi lúc bất chợt nhớ đến chị Túc, chú không sao tránh khỏi chao lòng. Chị ấy là người đầu tiên khai phóng tuổi dậy thì của chú.....
- Thế theo chú nghĩ cô Túc có yêu chú không?
- Chú nghĩ là có. Bởi vì như cháu biết ai cũng bảo chị Túc khùng. Người ta nói như vậy cũng đúng. Đối với mọi người chị Túc khùng thiệt. Ai có chửi mắng đánh đập la hét gì chị cũng trố mắt lên cười không hiểu không biết gì. Đặc biệt có mình chú nói chuyện với chị thì cái gì chị cũng hiểu và cũng đối đáp lại trơn tru đầy thông minh. Cách trả lời của chị mộc mạc chất phác bởi vì con người chị là con người hiền lương bẩm sanh. Chắc có lẽ chị cảm nhận được rằng chỉ mình chú là yêu thương chị ấy chân tình và thật lòng, nhưng chị không diễn tả được cảm giác của mình mà thôi. Đôi lúc chị trả lời ngô nghê cũng bởi đầu óc chị trong sáng không hề vẫn đục bởi những toan tính ở đời...
Đột nhiên người đàn ông nhỏ giọng:
- Cháu có thể giúp chú một điều tâm nguyện không?
- Dạ chú cứ nói.
- Nếu lỡ bệnh chú không qua khỏi, khi người ta đem thiêu chú cháu nhớ mua một con búp bê bằng nhựa bỏ theo vào hòm. Cháu đề tên Túc trước ngực con búp bê đó và để con búp bê nằm cạnh chú. Nhớ để nằm bên trái vì nơi đó gần trái tim chú hơn. Hứa với chú làm điều này nha cháu. À mà này cháu phải nhớ cho kỹ là chữ Túc có dấu sắc phía trên. Chữ Việt Nam mình khác chữ Mỹ ở những con dấu..
- Dạ cháu hứa. Nhưng chú cứ yên tâm, chú sẽ qua khỏi mà. Khoa học bây giờ tân tiến lắm.
- Cám ơn lời an ủi của cháu, nhưng chú biết khoa học vẫn chưa tìm ra thứ thuốc nào có thể chữa chứng bệnh ung thư của chú.
Người đàn ông không nói gì thêm, miệng hơi mỉm cười khẽ nhắm mắt lim dim. Ngày hôm sau người đàn ông qua đời.
Cô y tá đầy tình người lái xe dạo cả buổi sáng sùng lục hết khắp cả các shopping trong thành phố để tìm mua một con búp bê bằng nhựa. Cô đi khắp cùng vẫn không tìm được một con búp bê nào tóc đen, mắt đen, da vàng, mũi tẹt. Cuối cùng cô chọn đại một con búp bê tóc đen nhưng đôi mắt màu xanh lơ. Cô van vái thầm:
- Chú ơi, chú thông cảm ở nước Mỹ này tìm được một con búp bê giống Việt Nam khó quá chú à!
Cô viết tên cố nhân của người vừa chết lên ngực con búp bê và trước những đôi mắt ngạc nhiên của nhân viên nhà quàng đang tẩm liệm,cô đặt con búp bê ngay ngắn vào hòm bằng một thái độ chân thành trang trọngvới hai hàng nước mát rưng rưng.
Cho mãi đến khi chiếc hòm được đẩy vào lò thiêu xác cô mới chợt nhớ ra là khi cô viết tên Túc, quen theo lối Mỹ quên đánh dấu sắc phía trên....

Hết

Xem Tiếp: ----