TẬP I - Phần Thứ Nhất - Đời Thuộc Địa Là Thế! - 1925
- 6 -

Cơ sở chính thức của quan sứ thần tọa lạc bên một con đường rợp bóng cây thuộc khu vực Tân Định, phía bắc Nhà thờ Đức Bà. Phòng lớn nhất của ngôi nhà cho thấy rất ít bằng chứng về tài sản to lớn được dòng họ Trần tích lủy qua ba thế hệ hợp tác chặt chẽ với Pháp. Bên ngoài cửa sổ, các lùm bụi và cây ăn quả vùng nhiệt đới như mảng cầu, đu đủ, xoài tượng, lựu, vươn lên rậm rạp từ mặt đất ẩm bên trong khu vườn có tường thành bao quanh. Đồ đạc trong phòng thưa thớt, hợp truyền thống khắc khổ và hiếu học của giới quan lại An Nam. Nổi bật cuối phòng là bàn thờ gia tiên gồm ba chiếc tủ thờ sơn son thiếp vàng. Cái lớn nhất và cao nhất là tủ thờ chính, đặt ngay chính giữa. Sát hai bên tủ thờ chính là hai tủ thờ phụ, cao ngang nhau, trên mỗi cái đặt linh vị, hai ngọn đèn cầy, bát nhang và lư hương nhỏ. Trước mỗi bàn thờ phụ kê một chiếc bàn nhỏ, trên đó đặt các lễ vật của thân nhân mang đến gồm cau, rượu, trà, vàng hương. Sau phần nghi lễ chính, họ sẽ lần lượt bái lạy trước bàn thờ trước khi cùng ngồi vào ăn giổ.
Trên mặt tủ thờ cao trưng bày hai bình bông huệ trắng mới hái, tươi nguyên, như còn long lanh sương sớm. Bốn cây đèn cầy màu đỏ cắm trên bốn chân đèn bằng đồng đánh bóng loáng. Giữa bàn thờ có một bát nhang bằng gỗ, trên cắm tua tủa chân nhang còn lại từ những lần thắp buổi sáng buổi chiều trong suốt tháng chạp này. Mé ngoài bát nhang là một lư đồng, khói lên nhè nhẹ, tỏa hương dìu dịu làm không khí mỗi lúc một thêm vẻ linh thiêng. Ngay trên bàn thờ chính, xếp hai khay gỗ bày đầy hoa quả, chất vun cao theo hình kim tự tháp, được hái từ những cây trái sum sê trong vườn. Kế bên khay hoa quả và sâu vào bên trong một chút là phần cúng cơm, gồm một bát cơm, một quả trứng. Cơm sới có ngọn trong cái chén đầy, úp lồng một cái chén khác làm thành bát cơm lồng. Trứng gà luộc bóc vỏ, ấn dẹt cho nứt ra, đặt trên dĩa với một ít muối hạt. Bên cạnh là ba chiếc ly nhỏ chưa rót rượu. và trầu cau têm sẵn.
Mé trước bàn thờ chính kê một chiếc bàn thấp, bày cổ cúng gồm những dĩa nhỏ chưng dọn thịt luộc, chả lụa và cá, kèm theo gỏi ngó sen và rau, các tô miến nấu đặc biệt có nấm và kim châm, hương vị đậm đà; xôi chè; cơm trắng, hai hàng chén đơm sẵn cơm có kèm theo các đôi đũa đặt ngay ngắn bên cạnh mỗi chén; mấy chiếc ly thủy tinh đựng rượu trắng hơi vơi một chút; mấy chiếc tách sứ để không và bình trà đã pha, sẵn sàng châm trà khi các hương linh thụ xong cổ, và chuẩn bị cho người chủ lễ vái ba lần sau cùng, hoàn tất phần nghi lễ. Ngay đằng trước mâm cổ cúng trải chiếc chiếu hoa cạp điều, dùng để bái lạy. Tuy thế, tâm điểm của bàn thờ là bức chân dung khung thiếp vàng của một vị quan trông rất khả kính, mình mặc triều phục, ngự chốn danh dự và cao nhất trên bàn thờ chính giữa.
Tất cả phẩm vật và cách thức trưng bày ấy không là sáng kiến cá biệt của dòng họ Trần. Số lượng nhiều hay ít tùy gia cảnh, nhưng nói chung, chúng được bày biện theo những qui định có tính truyền thống, làm thành phong tục của người An Nam về lễ giỗ. Đó là một nghi lễ được cử hành hằng năm và suốt đời, để tưởng nhớ ngày lìa trần của ông bà cha mẹ. Họ là những đấng sinh thành nên con cháu phải chịu tang trọn đời, khác với tang vợ tang chồng chỉ chịu ba năm. Không ai biết rõ phong tục và nghi thức ấy bắt đầu từ thời điểm nào trong lịch sử dân tộc, nhưng thực tế nó hiện hữu đã ngàn năm trên đất Việt.
Bắt đầu từ đồng bằng bắc bộ, cái nôi của dân tộc và văn hóa Việt, chúng theo chân đoàn lưu dân đi dọc Trường sơn vào các đèo cao và vùng đất sỏi đá miền trung. Rồi sau đó, chúng cùng đi với đoàn người khai phá vào phương nam, nơi gạo rất trắng nước rất trong, khí hậu thoáng mát, đồng ruộng cò bay thẳng cánh và mùa nước lên cá lội tràn bờ. Qua bao nhiêu thay đổi triều đại, thăng trầm với lịch sử, biến thái theo hoàn cảnh địa phương, dị biệt về lập trường chính trị hay giai tầng xã hội, người Việt khắp nơi vẫn tuân giữ và thực hiện những qui định căn bản trong phong tục tập quán ấy. Giới giàu sang phú quí thường cử hành lễ giỗ để vinh danh người chết và chiêu đãi kẻ sống. Hạng nghèo khổ cơ cực tới ngày giỗ ông bà cha mẹ cũng rán cúng chén cơm ly nước cây nhang mới khỏi tủi thân và ngủ yên giấc.
Hôm nay là ngày chính giỗ vị thượng quan cụ thân sinh của người An Nam mặt nhăn nheo, mặc áo bào vua ban chỉ may bằng một tấm vải được thượng nghị sĩ Sherman khéo lấy lòng một giờ trước đó.
Chiều hôm trước đã có lễ cúng tiên. Thường là để họ hàng thân thuộc đến nhóm họ, ở lại chầu chực gia tiên và chuẩn bị cho sáng sớm ngày mai bắt tay chuẩn bị cỗ bàn. Như thế, lễ giỗ ngoài mục đích tưởng niệm người đã khuất còn là dịp tụ họp để siết chặt tình gia tộc trong phúc ấm của ông bà tổ tiên, quấn quít thêm vòng sống của người Việt trong bốn vòng gia đình, thân tộc, làng xóm và dân tộc. Việc thực hiện nghi lễ này là một trong vô số cách để củng cố thêm văn hóa cùng tín ngưỡng của đại gia đình người Việt trong đó kẻ sống và người chết quần tụ bên nhau, hằng ngày hằng đêm tương tác cảm thông, vượt không gian và thời gian. Từ đó làm thành một cuộc sinh hoạt vừa chan chứa tình nghĩa vừa dồi dào tâm linh trong quân bình và hài hòa giữa con người với tổ tiên, có trời cao lồng lộng là cha nghiêm minh và đất thấp bao la là mẹ từ ái.
Đúng ra phần nghi lễ cúng giỗ theo truyền thống phải cử hành buổi trưa vào giờ chính ngọ. Nhưng đặc biệt lễ giỗ này hằng năm thường cử hành lúc hoàng hôn vì hôm trước giỗ là ngày 23 tháng Chạp, nhà nào cũng bận đưa ông táo về trời nên có một số người sáng nay mới từ lục tỉnh lên kịp. Thêm nữa, cũng vì phải tham dự buổi tiếp tân dành cho gia đình thượng nghị sĩ Nathaniel Sherman tại dinh thống đốc nên vị thượng quan bộ Lễ quyết định cử hành vào buổi tnhúng tay vào của tham mưu trưởng chẳng khác nào làm nhục họ. Cũng như Paul, các sĩ quan khác lúc này hẳn đang choáng váng bởi cường độ và mức độ pháo kích dồn dậïp của đối phương, vì trước đây chính đại tá Piroth đã kịch liệt bác bỏ khả năng đó. Ông khẳng định nhiều lần rằng nếu muốn phóng ra một cuộc pháo kích, địch chỉ có thể bố trí trọng pháo ở mặt ngoài vòng đai, mé bên kia sườn núi, và như thế, đường đạn cầu vồng qua núi sẽ đi quá, không thể rơi trên tập đoàn cứ điểm.
Paul lại lắng tai nghe và anh tự hỏi phải chăng lần đầu tiên đại tá Piroth lầm. Nếu các cổ trọng pháo của đối phương đặt ở mé bên kia sườn núi ngoài lòng chảo, chúng phải cách xa trung tâm chỉ huy ít nhất tám chín cây số, nhưng tai anh nghe có vẻ địch khai hoả gần hơn. Sau vài giây ngập ngừng, Paul đội mũ sắt lên rồi quay cần truyền tin dã chiến, gọi chỉ huy trưởng pháo binh.
Anh nói hết sức lớn, cố át tiếng đạn pháo, để đầu dây đằng kia nghe rõ:
- Charles này, hình như bọn chúng sử dụng pháo hiệu quả hơn chúng ta tiên liệu, tôi nói như vậy có đúng không?
Đầu ống liên hợp đằng kia kêu lách tách. Paul hét lớn hơn, gằn câu hỏi chậm lại:
- Có phải bọn chúng đặt các khẩu 105 li trên sườn núi mé bên trong này. Hình như gần hơn ta tưởng.
- Đúng... nhưng tôi thấy ba cái chuyện nhỏ đó nhằm nhò gì.
Lần này Paul nghe rõ câu trả lời của Piroth. Anh cũng có thể nghe ra trong giọng nói của ông không còn âm điệu tự tin quen thuộc.
- Anh bạn ạ, anh nghĩ chỉ có mấy khẩu thôi sao?
Ở đầu dây đằng kia im lặng khá lâu. Sau cùng, Piroth trả lời, giọng không giấu nổi vẻ miễn cưỡng:
- Không, hình như địch không chỉ có vài khẩu 105. Tôi đoán địch còn đặt nhiều khẩu ở phía trên nữa, rất cao.
Paul thúc giục:
- Nhưng anh đang xác định vị trí của chúng, phải không. Bộ để chúng ho và khạc xuống chúng ta lâu thêm chút nữa à?
- Chúng tôi đang cố hết sức khoá mõm chúng.
Đường dây thình lình im bặt nhưng rõ ràng giọng nói của Piroth rất thảng thốt, dù chỉ nghe qua máy truyền tin dã chiến. Cảm thấy lo lắng tới thắt ruột, Paul chụp kẹp hồ sơ, lao ra giao thông hào. Anh phóng tới hầm chỉ huy trưởng. Vừa ló mình vào anh đã thấy đại tá chỉ huy trưởng De Castries đứng cạnh bàn bản đồ, mặt ông trắng bệch. Đầu ông đang nghểnh qua một bên, nghiêng tai lắng nghe tiếng gầm rú bất tận như một cơn bão sầm sập cả bầu trời đen đặc bên trên lòng chảo.
De Castries hỏi, giọng thì thào nghèn nghẹt:
- Hỏa lực của đối phương mạnh hơn chúng ta tưởng nhiều, phải không?
Paul chào và nghiêm trọng gật đầu:
- Đại tá Piroth nói rằng bằng cách nào đó đối phương đã đưa được trọng pháo 105 li lên những cao điểm trên sườn núi mé bên này, sát ngay vành đai.
De Castries quẫn trí quay mặt không nhìn Paul. Ông bắt đầu loay hoay với cây thước gỗ:
- Nhưng hỏa lực phản pháo của chúng ta sẽ dập tắt chúng ngay tức khắc. Có phải tất cả các đơn vị đang sẵn sàng ứng chiến khi bộ binh đối phương tràn xuống?
- Trình đại tá, đương nhiên là vậy.
- Vậy chẳng việc gì chúng ta phải băn khoăn, đúng không? Anh liên lạc với chỉ huy trưởng từng cứ điểm để nắm tình hình và báo cáo ngay cho tôi, càng sớm càng tốt.
Sau khi Paul về lại hầm tham mưu trưởng, tiếng gầm thét liên tục của pháo Pháp và pháo Việt Minh khiến anh không thể ráp nối tình thế thành một hình ảnh rõ nét vì trận pháo mở màn đầy bất ngờ của địch đã phá hỏng đường dây truyền tin dã chiến.
Dù một số đơn vị báo cáo rằng sau những tuần lễ chờ đợi căng thẳng tinh thần, binh lính đang háo hức dàn chào cuộc tấn công của đối phương, hầu hết các chỉ huy trưởng lính Lê dương và lính dù đều không thể truyền tin về một cách thông suốt. Paul lo lắng gọi qua máy nhiều lần nhưng không nhận được câu trả lời nào rõ ràng. Khi nghe một tiếng nổ thật lớn, át hẳn các tiếng nổ khác, anh chạy ra chiến hào thông với cửa hầm, nhìn vào bóng đêm.
Mắt Paul bắt gặp một cảnh tượng làm môi anh bất giác mím chặt, kinh hoàng. Một loạt đạn pháo của địch từ trên đỉnh núi bắn thẳng xuống trúng kho nhiên liệu và kho bom xăng na-pan của binh đoàn. Từ hai vị trí đó, phụt ra những ngọn lửa màu da cam và dần dần bốc lên cao trong bầu trời đen đủi bên trên lòng chảo. Paul có thể nhìn thấy kế bên đám cháy, mấy chiếc máy bay đang bắt lửa hoặc đã bị thiêu rụi, thành một đống trơ khung sắt bên cạnh phi đạo nhỏ bé. Nhưng cái làm anh thật sự mất thở là cảnh tượng trên các sườn núi bọc quanh thung lũng.
Trước con mắt quan sát của Paul, mé dưới các sườn núi sống động hẳn lên với từng đợt rồi từng đợt bộ đội cộng sản. Đối phương di chuyển như những đàn kiến đông vô số kể. Trong ánh lửa kho xăng bốc lên chiếu sáng rực, hàng ngàn lính Việt Minh đồng phục xanh lá cây đầu đội mũ trệt bằng tre đan, vọt ra khỏi giao thông hào trong rừng, ào xuống hai cụm cứ điểm Him Lam và Đồi Độc Lập, hai ngọn đồi trọng yếu được phòng ngự bởi các đơn vị thiện chiến lính Lê dương nước ngoài. Dù Paul cố sức liên lạc liên tục nhưng không một chỉ huy trưởng cứ điểm nào trong hai cụm cứ điểm đó trả lời anh. Và bỗng nhiên tình thế rõ ràng rằng đối phương đã dồn hết hỏa lực của trận pháo đầu tiên trút xuống hai cụm cứ điểm đó.
Đang chăm chú quan sát, Paul giật nẩy mình thấy có một xe díp chạy tới, đậu lại bên ngoài căn hầm nằm xéo với hầm của anh. Trong ánh lửa màu da cam chói lọi, anh nhận ra thân hình cao lớn lực lưỡng của đại tá Piroth. Và anh sửng sốt khi thấy vị chỉ huy trưởng ấy lái xe từ bộ chỉ huy pháo binh về đây trên đầu không đội mũ sắt. Paul lớn tiếng gọi nhưng ông hình như không nghe, cứ lầm lũi bước xuống xe díp rồi đi loạng choạïng tới hầm trú ẩn của mình.
Cảm thấy có điều không ổn, Paul nhảy lên mặt đất, lao tới túm vai Piroth:
- Charles, anh phải cẩn thận lo cho mình hơn mới được. Mũ sắt của anh đâu?
Khi người sĩ quan pháo binh một tay ấy quay đầu lại, Paul choáng váng vì diện mạo ông thình lình biến đổi kỳ lạ. So với vẻ ngạo nghễ thường thấy trong những lần anh gặp Piroth trước đây, bộ mặt bạnh quai hàm nay bỗng hốc hác phờ phạc với vẻ ám ảnh dữ dội của một kẻ biết mình đắc tội. Ánh mắt ông vô cùng xa xăm, gần như mụ mẫm, và ông tỏ ra chẳng muốn trả lời chút nào.
Paul gằn giọng dứt khoát:
- Đại tá tới hầm tôi ngay, tôi pha cà phê mình uống với nhau. Tôi cần anh cho biết ý kiếnứng có quy củ theo thứ bậc và theo nhóm nội ngoại, họ hàng gần rồi họ hàng xa, không phân biệt tuổi tác hay nam nữ.
Quan Tham tri bộ Lễ Trần Văn Lung bước tới gần bàn thờ. Ông cẩn thận kiểm soát lễ vật, cả số lượng đủ thiếu lẫn qui cách chưng bày. Xong ông đưa tay nhận cây nến nhỏ vừa được thắp sáng từ một thân nhân làm chấp sự. Kính cẩn cúi đầu trước bức chân dung của thân phụ, ông mồi nến vào từng tim đèn cầy cao màu đỏ đặt hai bên bức chân dung. Khi bốn ngọn lửa trên cao toả sáng khắp bàn thờ, ông bước vào giữa chiếc chiếu trải trước bàn thờ, lễ bốn lạy, rồi quỳ xuống, hai tay chấp lại, vòng lên ngang trán.
Dù tuổi cao chân yếu, vị lão quan phải lạy đúng theo truyền thống qui định. Đứng thẳng, chắp hai tay dơ cao lên ngang trán, khom mình cúi xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, quì gối bên phải rồi gối bên trái xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống sát hai bàn tay lúc này lật ngửa trên mặt chiếu, gọi là thế phủ phục. Sau đó, ông cất đầu và thẳng lưng đồng thời co hai tay đã chắp lại trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy. Kế đó, ông đem hai bàn tay vẫn chấp xuống, tì vào đầu gối bên phải để đứng lên. Chân trái đang quì tự nhiên theo cử động chót này cùng đứng thẳng lên.
Thấy ông lão đã lễ đủ bốn lạy, người chấp sự lấy ba nén hương châm lửa thắp, đưa cho ông. Trần Văn Lung cầm hương vái một vái dài rồi trao lại cho chấp sự cắm lên bát nhang. Kế đó, chấp sự mở nút bình rượu, rót vào ba cái chén nhỏ để trên bàn thờ. Chờ mọi sự cử hành đâu vào đó, vị thượng quan Bộ Lễ bắt đầu đọc lời lễ khấn bằng tiếng Hán Việt trong tờ sớ, đại ý:
“Nước Đại Nam, triều vua Đồng Khánh năm thứ chín, nhằm năm Giáp Tý, tháng chạp, ngày hai mươi tư, tại thành Gia Định. Con xin cùng với cả gia đình, và các con các cháu thành khẩn kính dâng lễ vật rượu, trầu, hoa quả, xôi, chè, cổ bàn, lên thân phụ là đấng sinh thành, tên húy là Trần Văn Soạn, tên thụy là Xuyên Vân, mất ngày hai mươi tư tháng chạp năm Mậu Tý, an táng ở cánh đồng Hòa Hưng. Hôm nay là ngày giỗ, với lòng thành xin kính dâng chút lễ bạc, cung thỉnh thân phụ soi xét lòng thành hâm hưởng, phù hộ cho con cháu cả nhà được mạnh giỏi, mọi sự tốt lành. Xin cung thỉnh ông bà tổ tiên tam đại tứ đại cùng hương linh thân tộc thượng hạ về cùng hưởng cúng lễ. Xin cung thỉnh hương linh tiền nhân liệt sĩ, dù văn dù võ, sống trung dũng chết anh hùng, không phân biệt địa phương, thời gian, địa vị, chính kiến và triều đại, cùng quần tụ về đây thượng hưởng.”
Tuy mới mười tuổi nhưng vì hầu như đã trải qua suốt ngày quan sát mẹ đôn đốc người nhà và thân nhân chuẩn bị làm cỗ, Lan biết rõ trên bàn thờ đang bày những thức ăn thức uống thuở sinh thời, vị thượng quan nội triều ấy thích thưởng thức nhất. Được cho phép phụ dọn cỗ cúng và chợt nhận ra rằng kèm theo các món cao lương mỹ vị kia là sáu cái chén với sáu đôi đũa, Lan hỏi mẹ tại sao như vậy. Và được mẹ thì thầm giải thích:
- Chúng ta cúng thêm thức ăn thức uống để cụ cố c
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 21 -
  • TẬP III - Phần V - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • TẬP III - Phần VI - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • - 15 -
  • - 16 -
  • TẬP IV - Phần VII - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • - 15 -
  • - 16 -
  • - 17 -
  • - 18 -
  • - 19 -
  • - 20 -
  • TẬP IV - Phần VIII - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • - 15 -
  • - 16 -
  • - 17 -
  • - 18 -
  • - 19 -
  • - 20 -
  • - 21 -
  • TẬP III - Phần V - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • TÁI BÚT
  • THAY LỜI BẠT của Hoàng Khởi Phong
  • PHỤ LỤC - TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
  • Ðài Á Châu Tự Do (RFA) Phỏng vấn Nguyễn Ước
  • Nguyên văn Lời Mở đầu của A. Grey
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~--- !!!8679_70.htm!!!>
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • TẬP II - Phần III - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • TẬP II - Phần IV - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • - 15 -
  • - 16 -
  • - 17 -
  • - 18 -
  • - 19 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • - 15 -
  • - 16 -
  • - 17 -
  • - 18 -
  • - 19 -
  • - 20 -
  • TẬP IV - Phần VIII - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • TÁI BÚT
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • - 15 -
  • - 16 -
  • TẬP IV - Phần VII - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • - 12 -
  • - 13 -
  • - 14 -
  • - 15 -
  • - 16 -
  • - 17 -
  • - 18 -
  • - 19 -
  • - 20 -
  • TẬP IV - Phần VIII - 1 -
  • - 2 -
  • - 3 -
  • - 4 -
  • - 5 -
  • - 6 -
  • - 7 -
  • - 8 -
  • - 9 -
  • - 10 -
  • - 11 -
  • TÁI BÚT
  • THAY LỜI BẠT của Hoàng Khởi Phong
  • PHỤ LỤC - TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
  • Ðài Á Châu Tự Do (RFA) Phỏng vấn Nguyễn Ước
  • Nguyên văn Lời Mở đầu của A. Grey
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---