Vào một buổi sáng. Khi tỉnh giấc tôi đã thấy trong nhà có bốn năm người đàn ông còn rất trẻ. Họ ăn vận áo quần giống nhau, đầu người nào cũng gần như cạo trọc, đang trò chuyện râm ran. Người nằm, người ngồi. Có một người ôm cái hộp bằng gỗ hình thù rất lạ, giống như quả bầu phình ra thắt vào có cái cần dài, đầu cần có những cái núm, căng sáu dây song song với nhau, anh gãi mấy ngón tay vào bật thành tiếng trầm bổng, thánh thót ngân vang, miệng anh khe khẽ hát lời bài ca nghe đến du dương:
Làng tôi xanh bóng tre Từng tiếng chuông ban chiều Tiếng chuông nhà thờ rung... Làng tôi theo đoàn quân du kích Cướp lấy súng quân thù, trả thù xưa... Tôi bần thần nhìn họ vừa lạ lẫm vừa khó hiểu nhưng vẫn bị hấp dẫn và cuốn hút. Rồi một người trong số họ trông thấy tôi, lên tiếng:
- Em nhỏ ngủ dậy rồi đấy à?
Tôi lắp bắp trả lời người khách lạ:
- Dạ... vâng...
Anh Thành bưng nồi cơm từ dưới bếp lên, giục tôi đi rửa mặt.
Tôi liền tụt xuống lết từng bước ra vại nước. Tôi hỏi anh:
- Mấy người đang ở trong nhà mình là ai thế?
- Các anh bộ đội Cụ Hồ đấy. Họ về hồi khuya, đóng quân rải
khắp từ trong Hệ Dưỡng ra xóm Núi Ngang mình. Đông lắm. Chắc các anh ấy sắp kéo xuống đánh bọn Tây ở phía Phát Diệm hay sao ấy.
- Sao anh biết?
- Thì nghe các anh ấy xì xào nói chuyện với nhau. Tao đoán thế.
- U có biết các anh ấy về trọ ở nhà mình không?
- Có chứ. U cho năm người ở nhà mình. Cái anh đang nằm ngủ tên là Hào. Chỉ huy đấy. Còn anh đang đánh đàn ghi ta tên là Phả làm y tá tiểu đoàn, quê mãi ở Hà Nội cơ.
Tôi cứ lác mắt nghe anh Thành nói. Anh ấy biết đến nhiều.
Suốt ngày tôi cứ ru rú ở nhà nên chẳng hiểu mô tê gì cả.
Tôi lết chân bước vào tới hiên thì anh Phả buông cây đàn xuống giường, chạy ra đỡ tôi.
- Em bị liệt chân à? - Anh hỏi.
- Ông ngoại em bảo em bị bán thân bất toại ạ.
- Năm nay em mấy tuổi rồi?
- Dạ... em đã mười tuổi ạ.
- Tên em là gì?
Tôi ngoảnh lên nhìn anh Phả. Cũng chỉ hơn chú Thìn tôi một hai tuổi là cùng:
- Tên em là Vững ạ.
Anh Phả nắm chặt cánh tay tôi dắt lên thềm.
Anh Thành đi học. Thằng Bền chạy theo mấy đứa trẻ con trong xóm lau nhau sáu bảy tuổi nô nghịch quanh quẩn bên sườn núi. Anh Phả với mấy anh bộ đội rồi cũng đi. Nhà chỉ còn lại mình tôi với quyển truyện mà cái Dung mượn giúp ở nhà ông giáo Kỳ.
°
*
Từ hôm có bộ đội Cụ Hồ về đóng quân, xóm Núi Ngang và nhất là nhà tôi lúc nào cũng có người qua lại nhộn nhịp. Tôi không còn cô đơn buồn chán nữa. Ngày nào anh Phả cũng tắm rửa cho ba anh em tôi sạch sẽ. Nhất là tôi. Lúc rỗi rãi anh còn kể chuyện hay dạy tôi hát. Anh làm y tá nên biết tiêm thuốc và chữa bệnh. Anh bảo nếu hồi tôi mới ốm mà được đưa đi nhà thương chữa sớm thì không như thế này. Tuy là người thành phố, anh Phả da đen nhẻm như củ súng. Vậy mà nom anh đến duyên. Chả thế mà dạo này chị Nhàn hôm nào cũng lấy cớ sang với tôi để nghe anh Phả hát, nghe anh Phả gẩy đàn ghi ta. Tôi thấy anh Phả cũng chiều chị Nhàn lắm. Nhiều khi anh ngồi hàng buổi gẩy đàn và hát cho chị Nhàn nghe. Tiếng đàn và lời ca quyện vào nhau trầm bổng, thánh thót du dương khuấy động làm xao xuyến tâm hồn thơ bé của tôi. Tôi bồi hồi như nghe rõ tiếng hạt mưa thu rơi. Tôi bâng khuâng như chính mình là người lữ khách bên sông ngóng cô lái đò. Tôi thổn
thức cùng chàng trai nào đấy ngẩn ngơ chẳng thấy bóng dáng cô bạn láng giềng đâu. Và, tôi còn mừơng tưởng được cả một buổi chiều trên chiến khu rừng nơi Việt Bắc xa mù, với
những cô son nữ đitrong rừng vắng...
Chị Nhàn bế tôi ngồi lên lòng. Nhiều lúc chị ghì chặt tôi, nhìn anh Phả không chớp mắt, ánh mắt long lanh, đôi má ửng hồng trông xinh hơn mọi ngày.
Chắc chắn có bọn Việt gian chỉ điểm nên chỉ mấy ngày sau, vào buổi chiều thứ sáu, giặc Pháp cho máy bay đến ném bom oanh tạc xứ đạo Hệ Dưỡng và các làng lân cận tới chập tối mới yên. Bọn trẻ con xóm Núi Ngang hoảng hốt sợ hãi, không đứa nào dám nhí nhố đứng ngoài ngó lên trời xem tàu bay nhào lộn như mọi bận nữa, chui tọt cả vào hang. Đến khiếp! Bom từ trên trời rơi xuống lã chã từng chùm như phân trâu. Nổ inh tai lộng óc. Anh Phả đè lên tôi che chắn kẻo mảnh bom bắn vào hang trúng phải người. Mỗi lần tiếng bom nổ gần, sức ép túa vào miệng hang hất chúng tôi lên. Núi Ngang như con voi khổng lồ thời tiền sử nằm phủ phục giữa cánh đồng rung chuyển lay động đến tận lòng núi.
Gần tối lũ tàu bay Pháp mới cuốn gói sạch. Bầu trời trở lại yên tĩnh. Những cánh đồng, làng xóm và núi non quanh vùng Hệ Dưỡng như rỉ máu, toang hoác những vết thương, nhà cháy, tháp chuông nhà thờ sạt đổ và làm nhiều người chết, bị thương. Đơn vị đóng quân trong vùng có mấy chiến sĩ hy sinh, anh liên lạc của tiểu đoàn bị mảnh bom phạt cắt đứt bàn chân. Con lừa chuyên đi tải gạo cho bộ đội bị bắn chết dọc đường.
Tối mịt cha tôi từ cơ quan tỉnh bộ mặt trận về. Ông gặp anh Hào. Hai người dắt nhau ra đầu núi trao đổi chuyện gì đó.
Mấy anh nuôi mang thịt lừa đem chia cho những gia đình nghèo ở xóm Núi Ngang. Nhiều nhà không chịu nhận bảo để bộ đội làm thức ăn đi đường.
Ông ngoại tôi vừa về đến đầu làng thì giặc ập tới bắt luôn.
Chúng giải ông lên bốt huyện. Khi mẹ con tôi biết tin thì ông ngoại đã được thả ra. Chúng không moi nổi lời khai nào của ông già. Hỏi người làng, họ đều nói ông ngoại là người làm ăn lương thiện. Mặt trận Liên Việt mời ông tham gia bởi ông ngoại là người có uy tín với bà con xóm giềng. Thế thôi, chứ ông nào có biết ai là du kích, ai là đảng viên mà tra khảo. Thế mà bọn giặc giam ông tới một tháng.
Khi trở về làng, các cậu tôi đưa ông lên Rịa ngay để ông nghỉ ngơi và dưỡng bệnh ở nhà bác Bội. Thành ra ông không thể vào đón mẹ con chúng tôi được. Ông nhắn qua người làng vào buôn bán ở chợ Kim Tân hỏi thăm tình hình sức khỏe của tôi. Rằng thằng Vững đã đi lại thật vững chân chưa? Đứng lâu có hay bị giật gân ngã không?
Suốt mấy ngày liền tôi những vẩn vơ nghĩ tới ông ngoại.
Nằm ngủ tôi cũng mơ thấy ông ngoại, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt vuông vuông với chiếc khăn nhiễu màu tím chít thành từng nếp trên đầu của ông cứ hiện ra trong óc tôi. Hình ảnh ông khắc đậm vào tâm trí tôi đến mức nhắm mắt lại tôi vẫn hình dung ra được từng chi tiết. Vậy mà bọn giặc Pháp đã bắt ông ngoại. Hẳn chúng trói giật cánh khuỷu ông ngoại dong đi. Chao ôi... đôi tay gầy của ông ngoại từng ôm ấp bế bồng tôi. Rồi chúng đánh đập tra tấn ông nữa chứ. Ông già yếu làm sao chịu nổi. Tôi còn mường tượng ra những thằng Tây cao lớn lênh khênh, chân tay mặt mũi tua tủa những lông lá giống hệt lũ quỷ sứ dưới địa ngục trong các tranh mà tôi đã từng được xem người ta dán ở đền trong các ngày lễ, xúm vào cấu xé ông ngoại...
Tôi không hiểu tại sao những người tốt, như ông ngoại chẳng hạn, lại chịu nhiều cay đắng khổ ải đến vậy? Tôi lại càng không hiểu là tại sao con người sống với nhau lại chém giết, đánh chửi và đối xử với nhau thù hằn và ác độc đến vậy? Sao người nước này đi đánh người nước kia? Trẻ con chúng tôi đâu có tội tình gì mà chúng cũng chém giết dã man thế? Liệu giết người làm điều ác chúng có run tay không?
Không thấy có người lớn nào giảng giải cho tôi biết cả.
Những câu hỏi đó cứ hiện ra trong đầu óc con trẻ của tôi.
Mẹ con chúng tôi những muốn ra thăm ông ngoại mà không thể bồng bế nhau đi được. Và khổ tâm hơn là chúng tôi không có một thứ gì để gửi ra biếu ông. Nhà tôi nghèo quá. Mẹ tôi mở hàng xén bán chác chẳng được là bao. Hy vọng người làng tìm thấy số đồ đồng cất giấu trong hang núi Ngang cùng với ba sào lúa chín nhờ cắt giúp cũng đều mất sạch. Mẹ tôi gắng kiếm để gia đình ngày có hai bữa cơm ăn với rau lang, rau dền, hoặc bát cà ghém vẫn chưa nổi. Tiền nong dấn vốn không có. Vay mượn thời loạn ai người ta cho vay. Vả lại toàn là dân tản cư ở với nhau có mấy gia đình dư dật.
Người nào cũng phải phòng xa nhỡ khi sa cơ lỡ vận. Chợ Kim Tân năm ngày mới họp một lần. Thành thử mẹ tôi phải đi đẩy xe thồ kiếm thêm. Vất vả lắm. Bà cùng mấy người dân phố cảnh nghèo với nhau, đi ngược trở ra, tùy sức khỏe mà đi xa hay gần, đón những người thồ hàng vào chợ Kim Tân, đẩy giúp họ qua từng con dốc. Tùy theo dốc cao hay thấp, dài hoặc ngắn mà họ trả cho vài trăm tiền kháng chiến. Nên mẹ con chúng tôi dẫu có thương ông ngoại cũng chỉ biết khóc thầm với nhau.
Dân phố Dốc Trầu hăng hái tham gia phong trào học bình dân để xóa nạn mù chữ. Người ta vận động cả mẹ tôi. Được thể, tôi xin mẹ cho tôi đi học.
- Ai cấm mày? Nhưng đi đứng làm sao được. Vậy là tôi đi.
Sáng dậy. Mẹ tôi ăn vội bát cơm nguội rồi đi đón xe thồ từ sớm. Anh Thành dẫn thằng Bền sang gửi bên nhà cô Bưởi, ở giáp bên cạnh. Rồi anh ấy phốc ngay đến lớp học. Tôi loay hoay buộc hai quyển vở cùng với cái bút cuộn lại, đeo vào vai. Xong đâu đấy, tôi tập tễnh lết từng bước một theo lối mòn vòng vèo lên đồi xuống dốc. Mỏi cẳng lại đứng nghỉ. Lần tiếp vào rừng vầu. Tới đây, đi luồn trong rừng vầu có dễ hơn. Vầu mọc gần nhau, không có cành gai góc, như những cây gậy đứng sẵn thẳng tắp để cho tôi vịn vào.
Không thể tả hết nỗi hào hứng, hân hoan của tôi khi được đến lớp học. Suốt đêm tôi không sao chợp mắt nổi, háo hức mong cho trời mau sáng lên. Tôi mường tượng ra cảnh lớp học đông vui cùng chúng bạn nghe thầy giáo cất cao tiếng giảng bài, mở ra trước mắt đám học trò chân trời tươi sáng và xa xôi đang ở đâu đó, về những miền quê, làng xóm bên Phi Châu, về những thổ dân da đỏ ở mãi bên kia Đại Tây Dương trong rừng hoang Mỹ Châu, về những con chuột túi ở úc Đại Lợi, những con khỉ độc sống trên quần đảo Nam Dương... mà hồi học ở Hệ Dưỡng ông giáo Kỳ thường kể. Tôi không thể nào quên người thầy giáo vốn là một y tá này cùng với tủ sách to đùng của ông.
Tới lớp học vẫn còn sớm. Tôi thấy chúng bạn cũng đã đến đông đúc. Vạt rừng vầu sôi động và sáng rực màu sắc áo quần, ríu ran tiếng nói hòa với tiếng chim hót.
Thầy giáo tròn mắt nhìn tôi hỏi:
- Thế em đã biết đọc biết viết chưa?
- Em làm được cả tính đố rồi. - Tôi đáp, trong lòng nhen nhóm một chút hãnh diện.
Thầy vẫn nhìn tôi vẻ khó hiểu. Chắc thầy nghĩ tôi là thằng bé tàn tật thì làm sao đã biết được chữ. Nên nghe tôi trả lời thế thì lấy làm lạ lùng lắm. Cái Dung ở đâu đó nhìn thấy tôi, bèn chạy tới nói với thầy giáo:
- Thưa thầy, cho cậu ấy học cùng lớp với em được ạ.
- Sao em biết? - Thầy giáo hỏi cái Dung.
- Vững trước đây cùng học với em mà. Học giỏi lắm. Cậu ấy mới ốm khỏi đấy ạ!
Rồi nó kể cho thầy giáo nghe tôi học khá như thế nào, ham đọc truyện ra làm sao. Nó còn nói cả những điều ông giáo Kỳ khen tôi nữa. Mặt mũi tôi đỏ bừng vì xấu hổ, còn thầy giáo nghe cứ chăm chú nhìn tôi.
Thầy mỉm cười, ghi tên tôi vào sổ điểm danh. Tôi bước đến chỗ lớp học cái Dung. Nhiều cặp mắt nhìn theo của đám học trò cùng tuổi. Hẳn chúng nhìn thấy thằng què như tôi mà còn đi học thì lạ lắm. Tôi đứng sững nhìn lớp học mà ngỡ ngàng.
Trước mắt tôi đám học trò lau nhau mỗi đứa chọn một chỗ ngồi vào những khoảng trống giữa vạt rừng vầu mọc thưa. Mỗi đứa đều đặt trước mặt một miếng gỗ trên bốn cái cọc, dùng làm bàn viết.
Những hôm trời mưa, chắc chắn không có máy bay giặc thám thính thì lớp học chuyển vào trong ngôi nhà tranh dựng cạnh hiệu thuốc tây của ông Phù Lưu ở trên đầu phố.
Tôi sống trong tâm trạng hào hứng với việc lại được đi học.
Về nhà, nếu làm được việc gì giúp mẹ hoặc anh Thành thì tôi gắng làm cho gọn rồi sau đó mang sách vở ra học. Tôi bỏ học lâu quá rồi, nên theo được các bạn rất khó khăn. Bài vở cũng nhiều. Nào toán tập, nào làm luận, học thuộc lòng các bài sử ký, địa dư hoặc các
bài thơ. Háo hức thật, nhưng nhiều khi đầu óc mụ mẫm thế nào ấy. Có mấy khổ thơ mà đọc đi đọc lại hàng buổi chiều vẫn chưa Luận: Môn tập làm văn. nhập tâm, nhớ câu trước, quên câu sau. Lắm khi cáu tiết tôi cứ dứt dứt tóc trên đầu mà nó vẫn không chịu nhớ cho. Dẫu sao, đi học được đối với tôi là sướng rồi. Bởi như thế là tôi được hòa nhập vào cuộc sống cùng với mọi đứa trẻ. Thích vậy còn mong gì hơn.
Lâu nay tôi vẫn thấy một thằng con trai chừng mười một, mười hai tuổi và một đứa con gái lớn hơn thường đến đứng xem chúng tôi học. Chẳng có đứa học trò nào để ý đến chúng nó. Tôi lấy làm lạ, bèn hỏi cái Dung. Nghe nó kể tôi mới biết. Thì ra thằng bé ấy bị câm, con nhà bà Xủng bán xôi, tên nó là Quý. Còn đứa con gái tên là Hằng, con ông Thênh mở hiệu chữa xe đạp, bị điếc. Thảo nào chúng nó không học được đành đứng ngoài ngó xem.
Vào giờ nghỉ giải lao, tôi thường lảng chơi một mình kẻo làm vướng cẳng cái Dung. Dạo này nó có nhiều bạn mới. Xem ý chúng nó chẳng thích tôi mấy. Tôi mà cứ bám theo cái Dung thì chỉ làm nó khó xử. Hơn nữa, cái Dung giờ cũng đổi khác so với hồi ở núi Ngang. Cũng có thể ngày thêm khôn lớn, cái Dung chẳng mấy thấy thích thú gì chơi với tôi nên có phần nhạt dần. Tôi nhận ra điều đó trong nỗi buồn man mác, xót xa như người mắc bệnh hủi bị người thân xa lánh sợ bị lây. Bởi thế, tôi lần đến chỗ thằng Quý với cái Hằng đứng. Cái Hằng chỉ vào chân tôi, hỏi:
- Đằng ấy bị Tây nó bắn vào cẳng à?
Tôi lắc đầu:
- Không phải, tớ bị ốm suýt chết đấy.
Cái Hằng nghiêng nghiêng cái đầu nghếch tai về hướng tôi.
Nhưng vẫn không nghe thấy gì thì phải.
- Cái gì? - Nó hỏi lại.
Tôi đứng đực ra như người điếc nghe kèn. Thằng Quý liền vỗ vào vai tôi, miệng uơ uớ, khoa tay làm hiệu một lúc. Tôi vẫn đần mặt, há hốc miệng, nhìn mà không tài nào hiểu nổi chúng nó "nói" gì, thằng Quý nhận ra tôi chưa quen "nghe" thứ ngôn ngữ nó "nói" nên cau mặt lại ngẫm nghĩ. Nom đến cực. Rồi nó hầm hầm kéo đầu tôi ghé gần vào tai cái Hằng. Một tay nó chỉ vào tai cái Hằng, còn tay kia vỗ vỗ vào miệng nó thành tiếng "oa, oa". Ra thế. Có nghĩa là tôi phải nói thật to vào sát tai cái Hằng thì nó mới nghe được. Tôi làm theo. Cái Hằng gật đầu, khua tay, ngả người làm điệu bộ "lên cơn sốt" để "nói" lại cho thằng Quý biết. Thằng Quý bèn gật đầu ra điều hiểu ý, nhìn tôi ú ớ. Cái Hằng bảo:
- Đằng ấy tội nhỉ? Giá đằng ấy không bị ốm...
Tôi kéo đầu cái Hằng cúi thấp xuống, ghé vào tai nói như thét:
- Trước tớ khỏe lắm! Còn cao hơn cái Dung kia kìa...
Cái Hằng nhìn theo tay tôi chỉ về phía cái Dung đang nói chuyện gì đó với chúng bạn. Nó gật đầu:
- Nó cũng xinh đấy nhỉ?
Chúng tôi nói chuyện với nhau như quát tháo nên bọn học trò để ý quay lại nhìn. Chúng phá lên cười ngặt nghẽo, chỉ trỏ về phía ba đứa chúng tôi rồi chúng diễn lại cho nhau xem để giễu cợt thằng què, con điếc, đứa câm chơi với nhau. Cái Dung lỉnh biến vào một chỗ. Hình như nó thấy xấu hổ về việc tôi là bạn nó hay sao? Tự dưng mặt tôi đỏ lựng, nóng ran khắp người. Nỗi tủi hờn cay đắng dâng trào đến nghẹn thở. Tôi chợt nhớ tới thằng mù hát
xẩm vẫn thường qua lại phố Dốc Trầu. Dân phố xúm đến nghe nó hát đông lắm. Nhiều người cho tiền và mủi lòng thương hại. Song có người tuy cho nó ít tiền nhưng lại trêu chọc ngay cái tật nguyền của nó. ấy là thử xem nó có nhận ra từng loại tiền hay không nên cho hai chục, lại bảo là năm chục hoặc một trăm. Thằng xẩm sờ tay vào tờ giấy bạc, nắn vuốt một lúc rồi đưa lên mũi ngửi. Đúng tiền thật rồi. Nhưng không phải như người bố thí xướng cho nó.
Miệng nó nhoẻn cười như mếu: "Các bác lại đùa trêu cháu mù lòa rồi. Đây là tờ bạc hai chục thôi!". Đám đông vây quanh nghe hát xẩm cười rộ lên vui thích vì thằng mù tinh quá. Nó chỉ sờ sờ, ngửi ngửi mà nói đúng tiền từng loại. Thế mới tài chứ. Trong khi đó,
thằng xẩm chẳng hiểu vì sao lại tự bẹo vào hai bên gò má mình.
Chắc chắn là nó bẹo vào má nhiều lần lắm rồi nên hai bên gò má nó lúc nào cũng sưng tấy lên. Thế thì nó đi hát rong ở nơi khác chắc cũng hay bị người ta trêu chọc những đứa tật nguyền. Tôi buồn muốn khóc lên được. Tại sao người ta độc ác vậy?...
Tôi quay lại chỗ ngồi học. Im lặng không hề để ý đến đứa ngồi cạnh. Thôi được, bọn bay cứ việc giễu tao què quặt. Bệnh tật gây nên tao thế, chứ những đứa khỏe chân mạnh tay mà học dốt như bò "đội nón" chuyên môn quay cóp bài của bạn thì hay hớm gì?
Sau này khi chơi thân với nhau rồi, tôi được biết cái Hằng bị điếc là do sức ép của bom đến độ làm túa máu ra đằng mũi, đằng tai, đằng miệng, ngất xỉu đi. Đến khi chữa khỏi mới biết bị điếc.
Màng nhĩ cả hai tai đều bị rách sạch. Còn thằng Quý thì bị câm, điếc bẩm sinh. Nó là đứa cực hơn hai chúng tôi. Cho đến bây giờ, thằng Quý vẫn không hề biết một thứ tiếng mắt mẹ tôi ánh lên cái nhìn lạ lắm:
- Mày muốn chết à? Què thì què nhưng Tây nó có Việt gian. Chúng nó sẽ biết mày là con Việt Minh, bố làm cán bộ kháng chiến, nó giết chứ không tha đâu.
Tiếng moóc-chi-ê từ dưới Phát Diệm, dưới bốt núi Sậu của giặc Tây đã bắn lên, thỉnh thoảng lại tắc bọp... veo, ùng oàng như thúc đít mọi người. Bốn mẹ con chúng tôi đương dở khóc dở mếu loay hoay với đôi bồ, tay nải áo quần và rổ bát đũa thì chợt có một người đàn ông từ trong làng Hệ Dưỡng đi ra tìm vào nhà tôi.
- Tôi là Thịnh - người đàn ông xưng tên - ở xóm nhà thờ trong Hệ. Anh Thành nhắn đoàn thể xã giúp đỡ đưa chị và các cháu tản cư vào Đình Trung, chỗ cơ quan Ty nông chính vừa chuyển đến. Nếu tình hình đợt này giặc Pháp càn ta căng, Ty nông chính chuyển đâu thì anh em sẽ đưa chị và các cháu chạy theo.
- Thế còn nhà tôi? - mẹ tôi mếu máo hỏi.
- Anh Thành phải ở lại lãnh đạo chống càn.
- Anh có biết nhà tôi ở đâu không?
- Tôi không được biết. Anh ấy về cơ quan huyện ủy từ tuần trăng trước rồi. Thôi... tôi cũng chẳng biết gì hơn để nói cho chị biết đâu. Chị chuẩn bị quang gánh tôi quẩy giúp cho. Cái gì nặng chị cứ chuyển cho tôi.
Bầu không khí hốt hoảng và bế tắc bao trùm lấy mẹ con tôi được phá tan. Người đàn ông tên là Thịnh bế tôi và thằng Bền đặt vào một bên thúng cái, còn bên thúng kia chất nào gạo, nồi niêu bát đũa, tay nải quần áo. Mẹ tôi gánh một bên bồ đựng hàng xén, cái chiếu, tấm chăn chiên; một bên bồ nhét đủ thứ từ hũ mắm cua, niêu muối, chai dầu tây... nghĩa là nom thấy thứ gì có thể mang đi được là vơ ráo bỏ tất vào bồ.
Anh Thành lăng xăng đeo túi dết đựng mấy quyển vở với cái chăn chiên cuộn lại buộc chéo vai, dắt con Vàng chạy trước. Chú Thịnh nhắc gánh lên vai rảo bước. Chỉ một lúc sau, cả mẹ tôi lẫn anh Thành vừa chạy vừa thở cũng không đuổi kịp.
Ngồi trong thúng chao đi chao lại theo nhịp chân bước, thằng Bền lấy làm khoái chí như ngồi ở trong nôi. Nó hò hét gọi anh Thành, gọi mẹ rối rít. Nhiều khi nó còn co quang rướn người đứng lên làm cho chú Thịnh phải quát mấy lần. Còn tôi, chỉ biết ngồi lặng im ngơ ngác nhìn lên bầu trời đầy mây đang kéo về phủ kín.
Dân các làng trong vùng kéo nhau lũ lượt chạy tản cư vào núi. Cả dân ngoài Bộ Đầu quê ngoại tôi nữa. Rồi thấy cả dân thị xã cũng chạy vào đây. Táo tác vội vàng.
Trời nổi giông, không khí mát dịu.
Tới Đình Trung vào lúc chạng vạng tối. Cơ quan Ty nông chính đóng ở một cái hang đá cao rộng như một tòa nhà lớn chứa được hàng trăm người. Thấy mẹ con tôi gồng gánh nhau vào, mấy bác cán bộ nhào ra đón. Người đỡ mẹ tôi, người đỡ chú Thịnh, người dắt anh Thành.
Con Vàng nhảy phốc lên hang, ngoáy tít đuôi mừng gặp lại người quen. Mấy bác cán bộ cứ trách mẹ tôi:
- Đã bảo chị cho các cháu chuyển cùng chúng tôi từ tuần trước thì đâu đến nỗi. Giờ đồ đạc, đàn lợn phải bỏ lại đấy.
- Mai em quay về mang bán đi vậy.
- Chắc mai có còn không?
Đuốc được đốt lên. Mẹ con chúng tôi ngồi bệt xuống những tảng đá trong hang nghỉ một chút cho đỡ mệt. Nói gì đó với mấy bác cán bộ Ty nông chính rồi ra chào mẹ con tôi - chú Thịnh quay về làng ngay để kịp chuẩn bị chống càn. Chúng tôi không kịp đun nước mời chú uống.
- Không việc gì phải khách khí như vậy, chị ạ. Đưa mẹ con chị vào đây tránh giặc cũng là nhiệm vụ của đoàn thể địa phương.
Nói rồi, chú Thịnh nhảy một cái lên cửa hang. Tôi chỉ còn nghe thấy tiếng đá lạo xạo, đoán chắc chú đang lần xuống núi.
Mẹ con tôi vội thu xếp một chỗ để ở tạm.
Trong lúc này, tôi thực sự là đứa bé vô dụng. Còn hơn thế, vì tôi mà mọi người khó nhọc. Bỏ tôi ở lại chắc mẹ không đang tâm, mà tha cho được mới cực nhọc làm sao. Bà ở trong tâm trạng hoang mang, chả biết tính toán định liệu cho mấy đứa con thế nào cho phải. Nghe binh tình chuyến này giặc Pháp mở đợt càn quét lớn lắm, lan rộng ra khắp vùng tây nam Ninh Bình. Làm thế nào chạy thoát và làm gì để sinh sống bây giờ? Các bác ở Ty nông chính bàn với mẹ con tôi là cơ quan chuyển đến đâu họ sẽ đưa mẹ con tôi theo tới đó. Còn chuyện cơm cháo thì có gì ăn nấy, khi bắt được liên lạc với tỉnh, ắt có tiếp tế thôi. Xem chừng mẹ tôi vẫn không yên bụng. Cơ quan đã thiếu thốn mọi bề, lại còn lỉnh kỉnh
đồ đạc, hồ sơ giấy má, máy chữ máy in... giờ đa mang cả mẹ con tôi sao xuể. Mẹ tôi định bụng sẽ quay về Núi Ngang bán đôi lợn với số đồ đồng cất giấu trong hang đá. Gom lấy ít tiền rồi tìm đường đưa anh em chúng tôi chạy vào Thanh Hóa.
Chắc mệt lắm nên mẹ tôi với anh Thành ngủ rõ say. Riêng tôi thì vẫn không thể nào chợp mắt được.
- Mẹ thằng Thành có trong đó không?
Tôi vùng dậy, lần lại chỗ mẹ tôi nằm lay người. Bà đang mệt, vừa thiếp đi được một lúc nên gắt:
- Để cho tao ngủ! ỉa đái thì cứ lần ra cửa hang ấy.
Tôi gắng dằn lòng lại, nói:
- Có ai gọi u ở cửa hang chứ con có muốn gì đâu.
Nghe vậy mẹ tôi mới nhỏm dậy:
- Hay là thầy mày đến tìm cũng nên...
Tiếng người gọi ở ngoài cửa hang lại vọng vào:
- Mẹ thằng Thành có ở trong đó không?
- Có! - Mẹ tôi nhận ra tiếng đáp như cái máy. Bà vội bò lên cửa hang:
- Ai gọi đấy?... à... thầy vào đấy ạ?
Hóa ra ông ngoại cùng cậu Phùng vào tìm đón mẹ con tôi đưa đi tản cư lên Rịa.
- Sao lại đi lên Rịa hả thầy? - Mẹ tôi hỏi lại.
- Cứ chạy lên đấy đã rồi liệu tính sau. Chồng mày có tạt qua làng gặp thầy. Nó cho biết có thể giặc Pháp tung lính mở càn lớn ra khắp tây nam Ninh Bình. Chuyến này có khi đánh nhau to. Chúng rao ai bắt được chồng màđộng nào ở bên ngoài nó ra làm sao. Thấy tôi hay lại chỗ hai đứa nó đứng chơi, chúng bèn bắt quen, sáng nào cũng đến dìu tôi đi học.
Mẹ tôi bị cảm rồi lăn ra ốm liệt giường. Tai họa giáng xuống ba anh em chúng tôi thực là thê thảm. Anh Thành trở thành người chỉ huy tối cao trong nhà. Nhưng anh ấy khí đụt nên chẳng biết lo toan gì. Mẹ tôi vẫn cứ phải cắt đặt công việc nhà cho từng đứa. Thằng Bền đỡ nô nghịch quấy quả hơn. Tôi nhận thêm việc nấu cơm, nấu cháo sắc thuốc cho mẹ. Anh Thành vừa bán hàng vừa lo chạy mời ông y tá về thăm bệnh cho mẹ.
Tôi vác rá đi vay gạo hết nhà cô Bưởi lại sang nhà chị Ngần, rồi đến nhà bác Vinh mà bệnh mẹ tôi vẫn chưa thuyên giảm.
Không nhắn được ai ra Rịa để báo cho bác Bội biết. Vay được ít tiền chỉ mua vài chai dầu tây và dăm tấm vải nhựa là hết. Bầy hàng bán câu dầm. Mẹ con ăn cả vào lãi lẫn vốn.
Nghĩ lại những ngày mẹ tôi chưa ốm, bà lăn lộn chạy ăn cho con, mấy anh em tôi ở nhà nấu cơm mà còn tỵ nạnh nhau từng việc. Giờ vác rá đi vay ê mặt tôi mới thấm thía. Để có hột gạo thổi cơm mới khó nhọc chứ cái việc xách nước, rửa rau, nhóm bếp thì nặng nhọc khó khăn gì đâu mà cứ đùn đẩy cho nhau! Ứớc gì thùng gạo nhà tôi chẳng khi nào vơi để hàng ngày anh em tôi khỏi phải thay phiên nhau mang rá sang vay hàng xóm.
Mẹ tôi cứ lúc sốt lúc tỉnh. Có ngày ăn được lưng bát cháo hành. Nhưng cũng có ngày bà kêu đắng miệng không hề nuốt lấy một thìa nước đường cát. Ông y tá bảo mẹ tôi bị ngã nước, cho uống tuyền ký-ninh vàng. Ba anh em tôi cứ ngơ ngác như bầy chim vắng mẹ gặp bão, nhớn nhác lo âu, chẳng đứa nào dám ăn no, có bữa nồi cơm còn nguyên. Không khí nặng nề bi thảm bao trùm khắp nhà. Thấm vào cả thằng Bền. Dường như nó cảm thấy
có một cái gì đó kinh hãi lắm sẽ xảy ra. Nên nó cứ ủ dột đến tội.
Tối tối cô Bưởi hay chị Ngần, bác Vinh sang ngủ đỡ đần mẹ tôi. Những khi cơn sốt rứt, mẹ tôi tỉnh táo, bà rầm rì nói chuyện. Tôi nằm ngủ ở giường bên này, nào có ngủ được, mắt mở thao láo nhìn lên nóc nhà, lặng im lắng nghe. Dần dần chắp nối những đoạn mẹ tôi kể với bà con xóm giềng lối phố mà tôi hình dung ra cuộc đời của cha mẹ tôi...
°
*
Bà ngoại thân sinh ra mẹ tôi là vợ hai ông ngoại. Nhưng lại là người làm nên cơ nghiệp nhà chồng. Bà ngoại sinh được chín người con. Tuy nhà khá giả, bà ngoại vẫn bắt tất cả con cái mình đều phải lăn lưng ra làm. Ai có việc ấy. Từ ẵm em, giã gạo cho tới việc đồng áng, trồng bông se sợi... Năm mẹ tôi mười ba tuổi, bà ngoại cho mẹ tôi lên tỉnh trông cửa hàng bán thuốc lào. Chả là người chị gái mẹ tôi lấy chồng quê vùng Tiên Lãng, Vĩnh Bảo tỉnh Kiến An là vùng trồng thuốc lào có tiếng. Bà ngoại tôi có mua một ngôi nhà mở cửa hiệu bán thuốc lào, phong gói bằng giấy đỏ, trưng biển An Khê hẳn hoi. Nay thuộc Hải Phòng.
Năm năm sau, tức năm mười tám tuổi thì mẹ tôi lấy chồng.
Cuộc tình duyên này, như mẹ tôi kể, âu nó cũng là cái duyên cái số giời se. Bởi cha tôi, người quê mãi tận ngoài tỉnh Hà Đông, sớm mồ côi mẹ phải lang bạt đi kiếm ăn khắp xứ để góp phần nuôi cha già và em dại, nên nghèo kiết xác. Vậy mà gặp nhau, rồi quen biết
nhau, mẹ tôi đã bằng lòng để cha tôi dạm hỏi. Bà ngoại và người anh trai mẹ tôi không ưng thuận. Không ưng thuận vì cha tôi là kẻ khốn khó chứ chẳng phải là người xấu xa gì. Còn hơn thế, cha tôi lại là một chàng trai mặt mày sáng sủa, hoạt bát linh lợi. Song mẹ
tôi đã vượt qua mọi sự cản trở phá ngang của những người trong nhà, cùng với những lễ nghi phong kiến trói buộc. Được ông ngoại, vốn là người hiểu biết dẫu không làm ra được của cải cho gia đình, nhưng vẫn là người đứng cầm cân nảy mực, thuận lòng, cuối cùng
cha mẹ tôi mới nên vợ thành chồng. Cố nhiên là bà ngoại giận con gái nên chẳng cho gì.
Vốn là một cô gái nông thôn nết na, chất phác, mẹ tôi chỉ biết chăm chỉ bán hàng, tiền nong thu được bao nhiêu đều đưa lại cho gia đình. Không biết trí trá, bớt xén. Chẳng hề tọc mạch chuyện buôn bán làm ăn của mẹ ra sao. Không hề đòi hỏi ăn tiêu, đua đòi lối sống thị thành. Thuần phác đến mức chẳng giao lưu bạn bè với ai trong phố. Giờ lấy chồng chỉ có hai bàn tay trắng về nơi "đất khách quê người" làm ăn. Trong khi đó cha tôi vẫn ở lại thị xã.
Sau này mẹ tôi mới biết ông hoạt động cách mạng nên không đưa bà về quê cùng sinh sống. Lạ nước lạ cái. Lạ người lạ cảnh. Nhà chồng nghèo đến mức ngoài mấy vuông đất làm nhà ở, còn thì chẳng có lấy một mảnh vườn hay sào ruộng nào để cày cấy. Anh em bên chồng đều đi làm mướn kiếm ăn. Mẹ tôi đành xoay sang buôn thúng bán mẹt khắp
các chợ quanh vùng.
Rồi một hôm có người làng Bộ Đầu làm ăn ở ngoài Hà Nội đi qua bắt gặp mẹ tôi bán muối ở ga chợ Tía. Thấy cảnh gieo neo vất vả quá, khi về quê người đó có nói lại cho ông bà ngoại biế.Nay thuộc Hà Tây.chuyện. Ông ngoại thương con gái, bèn cho người ra Hà Đông gọi mẹ tôi vào. Giấu vợ giấu con, ông ngoại dúi cho mẹ tôi ít tiền làm lưng vốn buôn bán ở chợ tỉnh. Rồi anh Thành ra đời, đến tôi xuất hiện... Rồi cách mạng tháng Tám năm bùng lên. Cha tôi cùng mọi người dân thị xã vùng lên cướp chính quyền tỉnh. Rồi cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Mẹ con tôi mấy lần chạy tản cư vào Thanh Hóa rồi lại phải trở ra quê ngoại ở ngay phố Cầu Yên buôn bán. Đến lượt đẻ ra thằng Bền thì loạn lạc giặc dã càn quét khủng khiếp. Kiếm ra đồng bạc khó biết mấy. Cho đến bận tôi ốm
thì nhà tôi thực sự khánh kiệt...
°
*
Tiếng mẹ tôi thỉnh thoảng lại rì rầm nói chuyện với bác Vinh, giọng mệt mỏi:
- Bác tính, con cái đứa nào mà mình chẳng thương chẳng quý. Nhất là thằng Vững...
Nói đến đây bà ngừng một chút để thở rồi nói tiếp:
- Cái hoàn cảnh em nuôi nó éo le lắm... Mà em... thực tình em coi nó như đứa con đẻ dứt ruột ra...
Bác Vinh ngến rước thầy. Cái Thảo đang ở ngoài đường, nó gánh cho chị Thành một ít đồ đạc.
Ông ngoại gật đầu:
- Thế cũng được. Thầy tính cả nhà cứ lên đường đi tiếp rồi mấy đứa bay quay lại gặp đâu đón đó. Chứ binh tình này không thể dềnh dàng, Tây nó kéo tới Ghềnh không biết đâu mà lường.
Trời sáng đã nhìn rõ mặt nhau. Đằng đông ửng hồng nơi chân mây báo hiệu một ngày nắng ráo.
Cậu Tùng buộc cái chăn chiên vào dóng ngang xe đạp. Bế tôi ngồi lên, bảo hai tay nắm chặt lấy ghi đông cho chắc. Cậu du du xe thử xem tôi ngồi đã vững chưa rồi nhảy pê-đan phóng xe vọt lên.
Lúc đầu tôi lấy làm khoái được ngồi xe đạp phóng như bay đi trước, thích thú nhìn cảnh vật hai bên đường. Con đường từ Ghềnh đi lên Rịa là con đường đất đồi. Cũng chẳng có gì ngoài những bụi cây dại um tùm và những cây thuồng muồng trổ đầy buồng quả chạy suốt hai bên đường lên đến đỉnh đồi, bạt ngàn như rừng. Giờ tôi mới biết đây là con đường đi chợ Vĩnh Khương mà tôi được nghe kể, ngày còn sống, bà ngoại vẫn thường mang rượu, vải vóc lên bán hoặc đổi cho bà con người Mường lấy lúa về xay. Suốt đời bà chỉ có làm như thế mà bà nuôi nổi một gia đình hơn mười miệng ăn, lại còn xây nhà tậu ruộng, dạy dỗ con cái trồng bông, sợi dệt vải... thành một nhà khá giả trong làng.
Rồi xe xóc. Tôi ngồi ê cả mông chỉ muốn mau tới Rịa. Đường mỗi lúc một đông người chạy tản cư. Toàn đổ lên Rịa. Xe ngựa lọc cọc chạy qua, người đánh xe nào cũng vút roi liên tiếp vào mông ngựa thúc phi nước đại. Đường qua trận mưa rào ban đêm, giờ ráo
nước đỏ quạch. Nắng lên. Đất đồi rực một màu gạch cua.
Cậu Tùng vòng tay lái, đạp xe rẽ vào lối nhỏ bên đường cái chỗ có cây mít cành lá tốt xanh.
- Đến nhà rồi.
Tôi nhìn thấy chị Yến và anh Tịnh con bác Bội chạy ra:
- Vững đấy à... xuống đi!
Cậu Tùng đỗ xe, nhưng vẫn để tôi ngồi trên dóng khung, dắt vào nhà mới bế tôi xuống.
Tôi ngước nhìn ngôi nhà đến lạ của bác Bội mà sau này được biết đó là nhà sàn.
Ngôi nhà rất to, cao ngất, sừng sững những cột gỗ cả vòng tay ôm mới xuể. Dưới sàn không có thưng vách gì cả, bỏ trống tuềnh, ngổn ngang những cưa, bàn mộc và đồ nghề đục chạm của thợ, hai cái xe trâu đương đóng dở, dăm cái vòng bánh gỗ đã lắp vào vành sắt. Còn gỗ thì hàng đống chất cao có ngọn ngoài sân. Từ sàn đến mái lợp nứa, che chắn bằng những tấm phên cứng cáp và chắc chắn, mỗi gian đều mở cửa sổ có chấn song gỗ. Ngôi nhà được bao bọc một vườn cây mít lúc lỉu những quả quanh thân. Chị Yến với anh Tịnh tròn mắt nhìn tôi kinh ngạc sau vài năm mới gặp lại nhau. Tôi vốn là thằng bé khỏe mạnh, linh lợi. Giờ đứng trước mắt họ là một "bộ xương quặt quẹo" với cái đầu trọc tếu to tướng như cái sọ dừa, mông teo lại, toàn thân "cắm" trên hai cái chân chỉ còn da bọc xương nhẳng như hai cái tăm oặt ra sau như cái trò lấy củ lang làm thằng người cắm mấy cái tăm làm chân tay. Như vậy, chị Yến anh Tịnh không thấy lạ lẫm sao được. Nhất là chị Yến. Chị bằng tuổi tôi. Năm lên sáu tuổi tôi gặp chị Yến ở nhà ông ngoại. Hồi ấy chúng tôi về chịu tang bà mất.
Tôi cũng nhìn lại chị Yến, anh Tịnh ngỡ ngàng trước sự ngạc nhiên của họ. Có lẽ không tin vào mắt mình hay sao nên chị Yến lại đánh tiếng hỏi:
- Vững đấy à?
Tôi nhìn chị, chớp chớp mắt và gật đầu, cảm thấy mình yếu đuối và tiều tụy quá.
Cậu Tùng vào bếp uống nước rồi đi ra. Cậu không để ý đến chúng tôi đương nhìn nhau như kẻ ở Cung Trăng với người ở Trái
Đất. Cậu hỏi:
- Thằng Sơn phóng xe đi rước ông rồi à?
- Vâng ạ! - Chị Yến lễ phép đáp.
- Thế mà tao không gặp... Thôi, cái Yến dắt thằng Vững vào hầm tránh máy bay, ngồi chơi. Cậu đạp xe quay lại đón thằng Bền đây.
Nói rồi cậu lại nhảy lên xe đi thẳng. Tôi tập tễnh lê từng bước một theo chị Yến đi ra phía đằng sau nhà sàn đến trước cửa hầm khoét ở sườn đồi. Sau giây phút ban đầu bàng hoàng đến khó hiểu, trẻ con chúng tôi rất chóng làm quen nhau nên chẳng mấy chốc đã ríu rít trò chuyện cởi mở. Tôi kể cho chị Yến nghe chuyện tôi bị ốm suýt chết như thế nào, mẹ con tôi chạy tản cư ra làm sao, và tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ khi nghe tiếng con Vàng sủa ông ổng gọi theo từ bên dãy núi đá vôi vọng tới. Chị Yến an ủi: - Thôi được. Để chị nói với bác cho nhà em một con chó khác. Con chó Bông nhà chị vừa mới đẻ một lứa năm con, lông trắng đẹp lắm. Chị Yến không hiểu. Tôi đâu tiếc vì mất con chó rồi thay bằng một con chó khác là xong. Con Vàng nhà tôi khôn lắm. Nó không chỉ là một con chó giữ nhà, nó là người bạn của anh em tôi.
Nhất là tôi. Con chó Bông lông trắng của chị Yến đẹp thật. Song đem so nó với con Vàng của tôi làm sao được. Không rõ từ lúc sủa gọi chúng tôi đến giờ, nó có còn quẩn quanh ở bến đò nữa hay thôi?
Nó đã biết mình lạc chủ chưa? Liệu nó có biết tìm đường trốn vào núi kiếm ăn không hay lại cứ lảng vảng ở đấy thì Tây đến, chết với tụi nó mất thôi...
Có tiếng máy bay vè vè trên đầu dứt những ý nghĩ của tôi về con Vàng. Anh Tịnh kéo tôi:
- Vào hầm đi Vững. Máy bay cào cào bay thám thính đấy.
Hầm tránh máy bay của nhà bác Bội đào sâu vào lòng đồi, đâm thẳng rồi tách đôi theo hình chữ T. Nóc hầm được ken đầy những đoạn gỗ to như thân cây chuối để chống sập; hai bên vách hầm thẳng đứng, nhẵn như tường; nền hầm được rải một lớp ván cho sạch. Hầm tránh máy bay như thế này thì suốt ngày ở đây cũng không chán.
Mấy đứa đang mải nói chuyện huyên thuyên với nhau thì bác Bội gái đi chợ Rịa về. Nghe nói tôi đã lên đang ngồi trong hầm, bác chạy vào mang theo một chùm quả đo đỏ bằng ngón chân cái người lớn:
- Thằng Vững đã lên đấy à? Ăn dâu da đi cháu.
- Bác nói sao lạ thế? Thằng Vững là con riêng của bác trai ư?
- Không phải con riêng của nhà tôi đâu.
- Lại còn thế nữa cơ. Vậy nó là con nuôi à?
Không hiểu sao mẹ tôi bối rối nói thì thầm:
- Không phải con nuôi. Em vẫn coi nó như con đẻ. Nhiều lúc thấy còn yêu quý hơn cả thằng Thành, thằng Bền nữa kia. Nó là thằng bé khôi ngô, hiếu thảo...
Bác Vinh càu nhàu. Có lẽ bác ấy chả hiểu những điều mẹ tôi nói.
- Bác nói lảm nhảm thế nào ấy. Thôi, khuya rồi ngủ đi cho đỡ mệt.
Nhưng mẹ tôi vẫn cứ thì thầm:
- Em không nói lảm nhảm đâu. Thằng Vững không phải là con em đẻ ra, không phải con riêng của nhà em...
- Nếu không có gì phải giữ kẽ thì bác kể đi.
Cuộc sống có sức mạnh lạ kỳ. Nếu không có ai đánh thức dĩ vãng thì đến ngay tôi cũng không thể biết rõ mình sống những ngày thơ bé như thế nào. Nhưng một khi đã được khêu gợi thì bỗng nhiên trí nhớ chợt hiện ra đầy đủ mọi tình tiết cuộc sống, cứ như trước mắt ta là màn ảnh đang chiếu phim vậy.
Giọng nói của mẹ tôi vẫn đều đều. Tôi chìm đắm vào câu chuyện bà kể với bác Vinh...
°
*
Một hôm em đi chợ Rồng về đến phố nhà em ở. Thấy mọi người vây quanh trước hè phố hiệu ảnh Đông ích xem anh ta vẽ chân dung Cụ Hồ trên một miếng vải căng rộng bằng cái chiếu đại.
Giống quá đi thôi. Người xem ai nấy đều trầm trồ khen. Em cũng dừng lại, ngó coi. Cha mẹ ơi, cái anh Đông ích này đến tài. Biết chụp ảnh lại còn biết cả vẽ nữa. Em đứng ngây ra ngắm mãi
Chợt có tiếng người gọi phía sau lưng làm em giật cả mình:
- Chị Thành còn chưa về nhà à? Anh ấy ngóng chị mỏi mắt rồi.
Em quay lại. Hóa ra nhà cô Tẽo, vú em ở nhà ông phán Hoàn bên cạnh nhà em. Vậy là em tất tưởi về nhà.
Tới cửa đã thấy nhà em ngó ra:
- Sao mẹ thằng Thành về muộn vậy?
- Em qua hiệu ảnh Đông ích thấy anh ấy vẽ tranh đẹp quá nên đứng lại ngó xem một lúc.
Vừa nói vừa đặt cái làn xuống phản, em nhìn thấy một thằng bé con đang ngồi ở trên giường kê giáp buồng trong, miệng ăn bánh đa vừng nhai rau ráu, bèn hỏi:
- Con ai đấy hả mình?
Nhà em ngồi xuống phản, miệng tủm tỉm:
- Con riêng của tôi mình ạ.
Em sững sờ giây lát. Song, lạy Phật, cũng trấn tĩnh được ngay. Quay lại nhìn kỹ thằng bé. Nó chỉ mới hơn hai tuổi là cùng. Kém thằng Thành hai ba tuổi. Như thế thì không thể là con riêng của anh ấy được. Em biết rõ nhà em chứ. Anh ấy không có tính trai gái cờ bạc rượu chè. Vả lại, thằng bé kia chẳng có nét gì giống nhà em cả. Ngay đến nước da cũng khác. Em lấy làm yên tâm, bật cười:
- Nếu là con riêng thì mình bế nó đi ngay về nhà mẹ nó mà ở.
Nhà em vốn không biết đùa dai. Anh ấy kể rõ sự thể. Hóa ra nó là con một người cùng hoạt động cách mạng với nhà em bị giặc Pháp đày đi Côn Đảo từ năm, khi đó mẹ nó vừa mới mang thai. Rồi mẹ nó cũng bị sa vào tay giặc. Chị ta sinh con trong nhà tù. Hồi trước cách mạng tháng Tám thành công mấy tháng, đoàn thể tìm cách giải thoát cho mẹ con chị ra khỏi nhà tù. Nay chị lâm bệnh hiểm nghèo mới qua đời mấy ngày, để lại đứa con nhỏ dại
Thế là chuyện đã rõ. Nhà em muốn đưa nó về nuôi. Hoàn cảnh đã đến nông nỗi ấy mà em gạt đi làm sao đành lòng được. Vậy là từ đó thằng Vững trở thành con em. Nhà em dặn không được cho một ai biết chuyện, nhất là đối với thằng bé. Bên nhà chồng em ở tận
ngoài Hà Đông nên không một ai rõ sự thể. Còn bên em chỉ có một mình thầy em là biết thôi. Thằng Vững trở thành con em như một lẽ thường tình. Em đẻ thằng Thành, ba năm sau mới sinh ra nó kia mà. Ai chả tin như thế. Giờ em kể, bác nghe để bụng biết vậy thôi. Thằng Vững tuy còn bé nhưng cả nghĩ lắm. Nhất là từ khi nó ốm đau bệnh tật tới nay...
Để kết thúc, mẹ tôi thở dài:
- Cái số em khổ cả đời bác ạ! Ai cũng bảo đẻ được mấy đứa con trai thì sướng. Sướng cái nỗi gì hở bác? Có chồng mà em đâu có nhờ cậy được gì. Nhà em cứ đi biền biệt. Giờ em một nách ba đứa con mọn, lại chạy loạn, lại ốm đau...
°
*
Tôi nghe rõ tiếng mẹ tôi sụt sùi khóc, tiếng thở dài của bác Vinh. Hồi lâu mẹ tôi chợt mếu máo:
- Ngộ nhỡ em không qua khỏi... nhờ bác nhắn ông ngoại các cháu vào... đỡ đần em nuôi các cháu. Thằng Thành với thằng Bền thì chả làm sao, chứ còn thằng Vững thì... thật tội nghiệp! Nó sẽ khổ suốt đời. Em mà sống được... em còn tần tảo nuôi nó...
- Đừng có dại miệng! Chết thế nào được - Bác Vinh gắt: - Mai cho thằng Thành lên nhà ông Phù Lưu mua tiếp ít thuốc nữa mà tiêm, hoặc uống cho dứt cơn sốt.
- Tiền nong đâu mà mua. Chả nhẽ mua chịu người ta mãi hay sao.
Bác Vinh vẫn sẵng giọng:
- Rõ dở hơi! Thiếu bao nhiêu thì cứ nói với tôi. Chị em cùng cảnh chạy loạn với nhau, việc gì phải giữ kẽ như thế.
Giọng mẹ tôi thều thào mệt mỏi:
- Bác cứ nói thế chứ. Hoàn cảnh em cứ túng quẫn mãi thì lấy của đâu ra trả cho bác sau này.
Bác Vinh bật cười:
- Thì gán nợ thằng Thành cho tôi vậy.
Mẹ tôi cũng phì cười, nhưng cười trong nước mắt:
- Ơn giời, sau này nó mà được làm rể nhà bác thì sướng cả
một đời...
Tiếng rì rầm trò chuyện dần dần lặng im. Hẳn mẹ tôi với bác Vinh đã thiu thiu ngủ. Đêm về sáng càng thêm tĩnh mịch. Thỉnh thoảng có tiếng hoẵng kêu vẳng đến lạc lõng. Chắc con vật hiền lành đang táo tác chạy sao cho thoát khỏi nanh vuốt con cọp đuổi sau đuôi đây. Cầu trỻc thấp bước cao, hoặc vấp chân vào đá, chệch choạng tưởng ngã. Chuyến đi này không phải lo sợ giặc đuổi sau lưng nhưng tâm trạng người nào cũng mỏi mệt, buồn bã. Vì lẽ gì? Tôi nào biết được. Ngay tôi cũng cảm thấy làm sao ấy. Dường như chúng tôi đương dấn thân vào chốn hang cùng ngõ hẻm nào đó để rồi đành phải quay lại Rịa cũng nên. Chẳng rõ con đường này có từ bao giờ mà sao hoang vắng thế? Cảnh vật mịt mùng rờn rợn. Song chúng tôi đều thấy là phải tới chỗ rừng sâu, ma thiêng nước độc thì mới sống yên ổn được. Chứ chỗ nhiều người qua lại hoặc đông vui sầm uất dẫu không bị máy bay oanh tạc thì giặc Pháp cũng xua lính đến càn quét. Và sẽ có bọn Việt gian chỉ điểm gia đình tôi là gia đình có người đi kháng chiến.
Không hiểu sao tôi chợt nhớ tới những câu chuyện về hổ báo ở chốn rừng xanh vẫn đọc trong sách hoặc nghe người lớn kể. Đâm ra có cảm giác sờ sợ. Bởi biết đâu đấy, trong hẻm núi hay trong rừng kia, bất thần có con cọp nào đấy đang rình nhảy ra vồ cha mẹ, anh em tôi thì sao? Rồi những con rắn độc, những con trăn đất, không biết ẩn náu từ chỗ nào văng mình tới quấn lấy người thì chết. Sợ hãi đến mức tôi nín thở, toàn thân run lên. Cha tôi ngỡ tôi lên cơn sốt, hỏi:
- Vững làm sao thế? Con thấy mệt lắm không?
Tôi đành phải nói sự thật cho cha biết. - Con có trí tưởng tượng như thế là tốt. Rất có thể trong rừng núi vùng này lắm hổ báo và nhiều loài rắn rết. Phải nghĩ tới điều đó. Nghĩ tới là để cảnh giác đề phòng bất trắc, chứ không phải để lo sợ. Như vậy là không được. Người ta sẽ coi mình là kẻ yếu hèn, nhút nhát. Con người trước thiên nhiên hoang dại quả là bé nhỏ. Nhưng con người có trí khôn để nhìn nhận thiên nhiên con ạ. Và con người sẽ trở
thành khổng lồ nếu họ thông minh và có lòng can đảm.
Cha tôi vừa đi vừa thủng thẳng nói. Tôi cảm nhận từng lời của ông như một sự chê trách mình. Tôi từng coi anh Thành nhút nhát sợ ma. ấy vậy mà anh Thành còn hăng hái đi lên phía trước kia kìa. Có sợ hổ báo gì đâu, lại còn lò cò chân sáo nữa chứ. Vả lại, cha tôi còn đeo một khẩu súng bên hông đây thôi. Lơ tơ mơ thấy động tĩnh gì là ông rút ra bắn liền.
Mặt trời đã bắt đầu lên. Núi rừng quanh tôi hiện ra rõ đường nét và màu sắc, hùng vĩ và mịt mùng, tươi mát trong nắng sớm.
Lần đầu tiên đi sâu vào rừng núi tôi mới tận mắt thấy điệp trùng nhấp nhô của muôn lớp núi này tiếp nối rặng núi kia, vạt rừng này lan tới cánh rừng nọ. Tôi đã thấy vực sâu, quèn dốc và cảnh mây bay dưới chân mình.
Cha tôi bảo cả nhà dừng chân. Mẹ tôi liền đặt gánh xuống, ngồi bệt ra vệ cỏ, kéo vạt áo lau mồ hôi ròng ròng quanh cổ, thở như kéo bễ lò rèn. Anh Thành tới chỗ tảng đá thẳng bên đường, nằm kềnh duỗi thẳng cẳng hai chân. Cha tôi ngồi xuống bên cạnh
anh Thành, lấy cái mũ cát trên đầu phe phẩy quạt. Còn tôi, từ lúc tụt trên lưng cha xuống đất, hai chân đứng oặt ra mải nhìn xuống vực sâu thăm thẳm.
- Thằng ranh! Có đến chỗ thầy mà ngồi không? Lộn cổ xuống đất bây giờ.
Tôi giật nảy mình nghe tiếng mẹ quát, quay lại lê bước chân đến chỗ cha, hỏi:
- Đây là đâu hở thầy?
- Bố con mình đang ngồi ở chân dốc Giang. - ông chỉ tay nói: -
Con dốc cao chưa, bên kia là vực.
Tôi ngước mắt nhìn theo hướng tay cha tôi chỉ. Con dốc vươn dài lượn lên lưng chừng núi khi đổ xuống phía bên kia có thoai thoải hơn. Người ta bạt núi làm con đường. Thành thử nó chênh vênh, phải đi giáp vào bên vách núi.
- Thầy đã qua đây lần nào chưa?
- Đi rồi nên mới biết chứ con. Đến ngày hội đền Sòng, con đường này tấp nập người qua lại. Chúng ta nghỉ lấy sức để vượt một mạch qua dốc kẻo trưa máy bay giặc đến oanh tạc.
Chốc chốc lại có một gia đình gồng gánh chạy tản cư vượt
qua chúng tôi. Rồi xe trâu, xe ngựa gõ móng xuống mặt đường lọc cọc. Anh Thành nói như van vỉ:
- Thầy ơi, con mỏi cẳng lắm. Bàn chân sưng tấy lên đây này.
Quả thật, bàn chân anh Thành sưng vù lên như bị phù. Cha tôi nhào ra đường ngáng một chiếc xe trâu:
- Bác làm ơn cho tôi gửi thằng cháu qua con dốc này có được không? Cháu nó đi bộ nhiều quá, giờ hai chân sưng tấy lên không thể bước được.
Người đánh xe trâu nhìn gia đình chúng tôi rồi gật đầu:
- Bác bảo cháu leo lên xe.
Ông ta phàn nàn như để thanh minh:
- Xe chở nặng quá chứ không tôi cho bác gái gửi đôi bồ kia lên nữa.
Khi anh Thành trèo lên xe, người đánh xe còn dặn:
- Nhớ lúc xuống dốc chớ có ngó ra ngoài kẻo lộn cổ xuống vực
đấy.
Chúng tôi cùng lên đường. Chiếc xe trâu lóc cóc chuyển bánh. Thằng Bền ngủ gục trong bồ bây giờ mới tỉnh. Nó đòi sang xe trâu ngồi với anh Thành. Ông đánh xe không bằng lòng, sợ đường xóc nó lăn xuống vực. Vực sâu hun hút. Mà dưới ấy cũng là núi đá vôi và những khe nước.
Nắng chói chang. Không khí nồng nực, oi bức. Càng lên dốc, con đường càng lộ ra giữa trời. Ai nấy đến phải mau chân bước. Tôi ngoái đầu nhìn lại phía sau mình. Những người còn ở dưới chân dốc bé tí như đàn kiến lúi húi chậm như rùa bò lên.
Cha tôi cũng bắt đầu thở dốc. Thỉnh thoảng ông lại xốc tôi trên lưng. Tôi im lặng sợ làm điều gì không phải để ông nổi cáu thì khốn. Tai họa giáng xuống đời tôi khủng khiếp cho đến chết vẫn phải gánh chịu. Suốt từ ngày tỉnh lại cho đến nay tôi càng nhận thấy tai họa hiện ra cụ thể. Con đường mở ra trước mặt hệt như con đường leo dốc mà cha con tôi đương cõng nhau vượt qua. Nó ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, gập ghềnh lúc ẩn lúc hiện trong mây,lẩn vào sương mù. Liệu tôi có đủ sức vượt qua? Vượt qua bằng cách nào? Tôi đã bước sang tuổi thứ mười. Như vậy là sẽ còn sống nhiều năm nữa. Mẹ tôi nói không sai. Tôi có sống cũng chỉ là đứa ăn báo cô mà thôi.i cho nó thoát nạn.
Tôi gắng nhắm mắt lại hồi lâu mà vẫn không thể kéo được giấc ngủ đến. Đầu óc tỉnh táo như vừa chợp mắt được một giấc ngon lành.
Giờ đây, tôi mới thấu tỏ cuộc đời cha mẹ và cuộc đời tôi. Chao ôi! Một khi được nhìn thấy sự thật, thì sự thật mới nghiệt ngã làm sao! Nếu không lấy cha tôi, hẳn cuộc đời mẹ tôi đâu đến nỗi vất vả gian truân. Giá như tôi không "bước vào" cửa nhà bà thì hẳn bà cũng đỡ cơ cực bần hàn. Túng quẫn quá nên mẹ tôi trở nên bẳn tính, suốt ngày gắt gỏng, lắm khi quẫn trí đánh chửi các con. Vậy bố mẹ thật của tôi là ai... là ai? Tôi không hề biết một chi tiết dù nhỏ nhặt nhất về cha mẹ đẻ ra mình, bóng dáng họ như thế nào.
Xin cuộc đời hãy tha thứ cho đứa trẻ khốn khổ này! Đừng ai nhắc tới cái sự thật phũ phàng đớn đau của tôi. Xin hãy cứ đinh ninh rằng đây là bố mẹ đẻ ra tôi. Như vậy, có lẽ cuộc sống của tôi dịu bớt nỗi xót xa hơn nhiều. Xin đừng ai nhắc đến sự thật... Sự thật
nhiều khi làm ta ứa máu và tủi hờn..
Ngẫm nghĩ, tôi mới thấy cuộc đời mình không có người mẹ như bà thì chẳng rõ thân phận tôi sống chết thế nào. Suốt đời bà chỉ biết lo gánh vác công việc gia đình, chịu mọi cực khổ. Giờ đây ốm đau cũng chỉ một mình. Vậy mà tôi... mà tôi... sao lại có những ý nghĩ không hay về mẹ, sao lại đòi hỏi quá đáng, sao lại cứ ghen tỵ với anh em chúng bạn? Nào có một ai làm cho tôi đến nông nỗi này đâu. Mẹ tôi đã gắng chạy chữa thuốc men hết sức rồi đấy chứ.
Tôi thật là một đứa trẻ tội lỗi và hèn kém. Trời ơi... giá tôi chết quách đi từ dạo nào có phải hơn không?
Mấy hôm nay trời mưa dầm. Bầu trời lúc nào cũng sầm sì đầy mây đen bưng kín khắp mọi chỗ. Phố xá vắng ngắt. Mưa thế này không có mấy ai mang hàng từ vùng tề ra. Đường sá lầy lội.
Đèo cao dốc thẳm. Thỉnh thoảng gió lại u ú trên đỉnh rừng tràn qua. Vào những ngày mưa rả rích, dân vùng núi cũng chỉ bám quanh bếp lửa giữa nhà sàn chứ chẳng đi đâu.
Tối đến. Dọc dãy phố Dốc Trầu nhà nào cũng đóng cửa sớm.
Sau khi cắt cơn sốt, mẹ tôi vẫn nằm bẹp giường. Bà đuối sức quá. Vả lại cũng chả có gì để tẩm bổ. Vẫn ngày ăn vài bát cháo, bữa với muối, bữa với thìa đường cát. Anh em chúng tôi không còn lo mẹ chết, nhưng không khí trong nhà vẫn cứ buồn buồn.
Đêm ấy...
Đã khuya lắm rồi. Rừng núi yên tĩnh đến nỗi có thể nghe được tiếng hổ gầm gừ trong rừng sâu vọng về. Mẹ con chúng tôi ai nấy đều ngủ thiếp đi vì mỏi mệt. Chợt có tiếng người gọi ở ngoài đường.
- Có phải nhà chị Thành đây không?
Cả nhà tôi vẫn đang trong giấc ngủ say nên không một ai nghe thấy tiếng gọi:
- Có phải nhà chị Thành ở đây không?
Cô Bưởi ở nhà bên cạnh chỉ cách bức vách bằng phên nứa, nghe thấy bèn lên tiếng:
- Ai gọi đấy?
Người ở ngoài đường trả lời:
- Tôi đây. Tôi là Hào đây. Có phải nhà chị Thành ở đây không ạ?
- Đúng rồi bác ạ. Để tôi gọi hộ cho...
Rồi cô Bưởi đập tay vào phên nứa, gọi:
- Chị Thành! Chị Thành!... Có ai gọi chị ở ngoài đường đấy.
Mấy mẹ con chúng tôi cùng bừng tỉnh. Anh Thành vội đánh bật lửa thắp đèn, ra mở then cửa:
- Ai hỏi mẹ em đấy?
Ba người từ trong bóng tối ở ngoài đường nhảy qua rãnh nước vào thềm nhà. Một người lên tiếng:
- Cháu Thành đấy à? Chú Hào đây. Cháu còn nhớ chú không?
Anh Thành ngước mắt nhìn ba người đàn ông rồi thốt lên:
- Ô... chú Hào thật! U ơi... chú Hào! Vững, Bền ơi... chú Hào đây này.
Mẹ tôi ngồi nhổm dậy. Anh Thành phải đốt thêm ngọn đuốc trám cho sáng. Tôi với thằng Bền sau giây phút ngơ ngác cũng nháo nhác ngó nhìn ba người khách. Chú Hào độ này già hẳn. Dẫu vẫn nhanh nhẹn như xưa nhưng đôi nét đường bệ của người chỉ huy đã xuất hiện. Hai anh bộ đội cùng đi đều là người chúng tôi mới gặp lần đầu.
Cởi mũ, áo mưa rũ sạch nước ngoài hiên, ba anh bộ đội to xù những ba lô và bao gạo trên người bước vào nhà.
- Sao trông chị gầy thế?... Mới ốm dậy hả? - Chú Hào nhìn mẹ tôi hỏi liên tiếp.
- Tôi suýt chết đấy, chú Hào ạ! - Mẹ tôi thều thào trả lời.
Sau khi tháo cởi nào những ba lô, bao gạo, túi dết để gọn vào góc nhà, ba anh bộ đội ra ngoài giếng khơi kéo nước rửa mặt mũi tay chân. Mẹ tôi sai anh Thành nhóm bếp nấu cơm cho khách.
Chú Hào gạt đi móc trong túi dết ra gói cơm nắm vẫn còn nguyên.
Giữa đêm khuya nhà tôi bỗng ồn ào tiếng người trò chuyện.
Cái không khí vắng ngắt buồn đến hiu hắt được ba chú bộ đội xua tan. Thôi thì hồi tưởng lại những ngày sống ở xóm Núi Ngang, điểm tên từng người quen biết. Anh Phả lên công tác ở quân y trung đoàn, anh liên lạc bị thương ở bàn chân hôm máy bay oanh tạc xứ đạo Hệ Dưỡng được đi học trên chiến khu Việt Bắc... Chú Hào nói cho mẹ con chúng tôi biết là chú đi công tác lên miền Tây Bắc, nghe nói gia đình chúng tôi chạy tản cư vào đây, tiện đường chú hỏi thăm. Thật là cuộc gặp gỡ bất ngờ đến ngỡ ngàng. Sau này tôi mới biết đận đó chú Hào vào quân tình nguyện sang Lào đánh giặc giúp nước bạn.
Suốt đêm, cả nhà không ai chợp mắt được, chốc chốc lại rì rầm nói chuyện với nhau đôi ba câu.
Gần sáng thì chú Hào cùng hai chú chiến sĩ lên đường. Chú để lại cho mẹ con chúng tôi hai bao gạo, một cái chăn trấn thủ, lòng những ngậm ngùi ái ngại cho hoàn cảnh mẹ con tôi.
- Chẳng có gì để lại thêm cho chị và các cháu cả! Thôi... chị và các cháu hãy gắng chịu đựng tới ngày kháng chiến thắng lợi. Ngày ấy chắc sẽ không xa...
Anh em chúng tôi bịn rịn bám lấy các chú bộ đội, nướcng.
°
*
Tôi không thể nhớ là chúng tôi đã leo qua bao nhiêu con dốc, vượt qua bao chặng đường xuyên rừng. Càng đi càng chậm chạp và mỏi mệt. Con đường cứ tít tắp lẫn vào cây rừng, hút vào hẻm núi.
Câu chuyện của đoàn người tản cư trên dọc đường nhạt dần. Rồi không thấy ai nói nữa. Đến chiều, chúng tôi đến dốc Trầu.
Cha tôi bảo đây là thuộc địa phận xã Kim Tân, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Tôi ngẩn ra không hiểu gì hết. Tưởng Thanh Hóa là ở thị trấn Cầu Cừ ấy chứ. Đằng này chẳng thấy làng xóm đâu cả. Xung quanh tứ bề toàn đồi núi và rừng xanh mịt mù
âm u.
Cha tôi xốc tôi bá chặt vai, gần như bò, gắng sức vượt lên. Nghỉ ở đỉnh dốc lấy sức, khi quay xuống đỡ anh Thành ông dặn tôi chú ý không rắn rết ở trên cây văng xuống cắn. Tôi ngồi thu lu ngó nghiêng xem có động tĩnh gì ở cỏ cây, cành lá. Anh Thành tự leo lên. Cha tôi liền gánh hộ mẹ tôi đôi bồ. Nhìn thấy ngôi nhà đầu tiên dựng bên đường dốc, cha tôi thốt lên:
- Các đồng chí ở Rịa nói với tôi đúng quá.
Có dân tản cư vào sống ở dốc Trầu kia kìa.
Gia đình chúng tôi xin ở nhờ một người Hà Nội. Vợ chồng ông bà chủ nhà ân cần và sẵn lòng giúp đỡ.
Tối hôm đó, sau khi gia đình chúng tôi đã dọn dẹp xong chỗ ở tạm thời. Ông bà chủ nhà ngồi hàn huyên với bố mẹ tôi hoàn cảnh của nhau.
Bác Cần trai - chủ nhà, vốn là người tham gia kháng chiến, sau một thời gian bị bệnh, bác nghỉ công tác thoát ly, đưa gia đình tản cư vào đây sinh sống được hai năm rồi. Vợ bác -một người đàn bà đẫy đà, trạc tuổi mẹ tôi. Xem ra bác Cần gái mới là người cai quản gia đình. Bác có hai mụn con gái. Một đứa bằng thằng Bền, một đứa nhỏ hơn. Cả hai đều tròn như viên bánh trôi, trắng như cục bột. ở đây có cả một "dãy phố" chạy dài xuống chân dốc theo con đường đi vào chợ Kim Tân. Dân thành thị tản cư đến đây khá
đông.
Mấy ngày liền cha mẹ tôi đi hết khắp phố, lại xuống chợ Kim Tân thăm thú tình hình và tìm chính quyền kháng chiến địa phương để liên hệ nhờ họ giúp đỡ. Cuối cùng cha tôi bàn là nên làm nhà ở phố dốc Trầu này. Theo ông, nơi đây tiện tránh máy bay đánh phá, có thể mở cửa hàng xén buôn bán. Chứ xuống dưới chợ Kim Tân ở, vừa là mục tiêu máy bay oanh tạc, vừa bất tiện cho sinh hoạt. Cha tôi không muốn để anh em chúng tôi sống ở nơi chợ búa "dễ hư thân". Mẹ tôi lại muốn làm nhà ở phố chợ. Nhùng nhằng cho tới hôm cha tôi nhắn được cậu Tùng vào. Cậu Tùng cùng đồng tình với ý của cha tôi. Mọi chuyện mới đi đến quyết định.
Cậu Tùng trở ra Rịa. Đến tối hôm sau lại trở vào ngay cùng với người thợ ở xưởng mộc của bác Bội. Vậy là tất bật tìm đất dựng nhà. Dân tản cư đến trước làm nhà từ phía đỉnh dốc chạy xuống lối đi chợ Kim Tân. Cho nên gia đình tôi dựng nhà ở cuối "phố" phía bên kia đường có mấy vạt nương của dân địa phương. Tôi không ngờ làm nhà lại nhanh đến thế. Chỉ vài ngày sau đã dọn vào ở. Bà con lối phố kéo tới làm giúp đến đông. Người vào
rừng chặt gỗ, chặt bương, chặt vầu. Người lên đồi cắt cỏ tranh về lợp nhà, đập nứa đan phên thưng vách. Ba anh em chúng tôi nô đùa, quên béng mấy ngày đi đường vất vả lo âu. ổn định nơi ăn chốn ở xong đâu đấy, cha tôi lại ra đi. Ông quay vào vùng tề bám dân trong lòng địch để giữ vững phong trào.
Bốn mẹ con tôi ở lại ai nấy đều buồn. Cuộc sống nay mai đến với chúng tôi sẽ như thế nào? Cha tôi sống trong vùng kìm kẹp của giặc có an toàn không? Hôm cha tôi ra đi trời mưa rả rích. Đường đất đồi vừa dính vừa trơn. Nấn ná mãi, ông dằn lòng lên đường mặc mẹ con tôi bịn rịn, sụt sịt khóc. Hình ảnh ông ghi đậm vào tâm trí tôi. Ông thắt bao súng ngắn vào bụng, trùm áo ra ngoài, khoác tấm vải nhựa đội chiếc nón lá lên đầu như những người thường dân vẫn qua lại giữa vùng địch và vùng tự do buôn bán các loại hàng hóa, tay chống gậy rảo bước ra đường.
Bầu trời xám xịt những đám mây sũng nước. Gió ào thổi trên đỉnh rừng thành những tiếng hú u ú âm vang.