án đảo Hoa Viên. 10h20’. Diệp Tiêu ngồi trong căn biệt thự của Dung Nhan và Chu Tử Toàn. Lúc này đã gần như kiệt sức. Từ 8h sáng nay, anh đã bắt đầu lục soát căn nhà này, hy vọng có thể tìm ra được may mắn nào đó như việc phát hiện ra cuốn nhật ký của La Tấm Tuyết ngày hôm qua, những manh mối quan trọng của vụ án. Nhưng đã hơn 2h đồng hồ qua đi, anh ngồi trong phòng làm việc tại nhà của Chu Tử Toàn trên tầng hai. Trước mặt anh lúc này là một đống tài liệu bày ngổn ngang như đống giấy vụn. Tối hôm qua sau cuộc hỏi cung Trương Đại Hứa, Diệp Tiêu đã phát hiện ra một bí mật rất lớn. Bí mật này có liên quan rất nhiều đến Chu Tử Toàn. Lúc này Trịnh Trọng đang ở bên ngoài giúp anh thu thập các tình tiết có liên quan. Nếu như mọi việc thuận lợi thì câu đố này sẽ mau chóng có được lời giải đáp.Tuy bây giờ anh không thu thập được thêm gì ở đây nhưng Diệp Tiêu vẫn còn có rất nhiều cơ hội vì anh vẫn còn có thời gian ở phía trước. Anh có còn thời gian ở phía trước không? Diệp Tiêu cũng không thể tự trả lời cho câu hỏi này được. Anh tắt chiếc máy tính xách tay của Chu Tử Toàn lại, bên trong chẳng có thứ gì có giá trị. Anh nhắm mắt, trước mắt anh hiện ra nữ chủ nhân của ngôi nhà này, nữ nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám mà anh đã từng hâm mộ. Một tiếng trước, anh đã tỉ mỉ lục soát căn phòng ngủ của Dung Nhan. Anh vùi đầu vào đó, ngửi mùi thơm của sáp thơm đặt trong tủ quần áo của cô. Cuộc sống riệng tư của người phụ nữ này hiển hiện trước mắt anh. Mặc dù anh hiểu rằng đó chỉ là một phần rất nhỏ trong cuộc sống của cô, còn rất nhiều những bí mật và riêng tư vẫn còn đang giấu kín trong cơ thể hấp dẫn và trái tim không thể đoán định được của cô. Hoặc có thể, dưới vẻ bề ngoài hấp dẫn kia đang ẩn nấp một ác quỷ? Diệp Tiêu cứ thế tự chất vấn mình, cuối cùng, anh đã không thể chịu đựng nổi, đấm một cú thật mạnh lên tấm kính bàn làm việc của Chu Tử Toàn. Tay anh đau dát. Anh nhìn chằm chằm vào bàn tay đang đau, từ từ rụt tay lại. Nhưng đúng vào lúc đó anh phát hiện ra dưới tấm kính anh vừa đấm vào có một chiếc bản đồ thành phố được nhét ở giữa mặt bàn và tấm kính. Và chỗ anh vừa đấm vào chính là góc phía Tây Bắc của thành phố. Điều quan trọng hơn là, Diệp Tiêu chú ý đến góc phía Tây Bắc trên tấm bản đồ thành phố có vẽ một kí hiệu hình chữ thập bằng bút máy. Kí hiệu đó được vẽ trên một con đường nhỏ trên tấm bản đồ. Hình chữ thập? Có ai lại vô duyên vô cớ đi vẽ lên trên bản đồ một kí hiệu hình chữ thập cơ chứ? Diệp Tiêu cảm thấy có điều gì đó cần phải cảnh giác. Anh nhấc tấm kính đặt trên mặt bàn lên, rút ra chiếc bản đồ. Đây là tấm bản đồ mối được xuất bản năm nay, vô cùng rõ ràng và chuẩn xác. Diệp Tiêu thậm chí còn có thể tìm thấy đường An Tức ở trên tấm bản đồ này, nhưng trên tấm bản đồ không hề có đề tên đường. Vị trí của kí hiệu hình chữ thập này nằm ở góc phía Tây Bắc thành phố. Diệp Tiêu biết nơi này, cách bán đảo Hoa Viên ở góc Đông Nam thành phố chỉ có nửa tiếng chạy xe, là nơi nằm giữa ranh giới nội thành và ngoại thành của thành phố. Nếu so với khu nội thành thì đây có thể được coi là một nơi xa xôi, vắng vẻ. Bỗng nhiên, Diệp Tiêu nhìn thấy dưới hình chữ thập hình như có in một dòng chữ gì đó rất nhỏ. Anh vội úp bản đồ xuống xem mặt sau. Ở đây giới thiệu một số danh lam thắng cảnh của thành phố và quảng cáo một số nhà hàng, khách sạn. Ở một góc phía sau bản đồ có dòng chữ được viết bằng bút mực…Thần đang nhìn ngươi đấy. “Thần đang nhìn ngươi đấy?” Diệp Tiêu khẽ đọc câu đó lên. Vừa đọc xong, không biết làm sao mà bỗng anh thấy sởn gai ốc khắp người. Nhưng chỗ năm chữ được viết ở mặt sau tấm bản đồ và chỗ có vẽ hình chữ thập ở mặt trước trùng khớp nhau. Anh đã nhìn thấy nét chữ của Chu Tử Toàn, cũng đã nhìn thấy nét chữ của Dung Nhan nhưng năm chữ được viết ở đằng sau tấm bản đồ không phải là chữ của Chu Tử Toàn cũng không phải chữ của Dung Nhan. Vậy thì đó là của ai? Có lẽ, bí mật nằm ở chính chỗ đó. Diệp Tiêu nhìn lại vị trí của kí hiệu hình chữ thập trên bản đồ, sau đó anh nhét nó vào trong túi của mình, nhanh chóng rời khỏi căn nhà. 10h30’. Tại một quán cà phê kiểu Hồng Kông ở gần nhà thờ. Mã Đạt vừa ngồi xuống ghế đã nôn nóng định mở túi đựng hồ sơ nhưng Dung Nhan đã ngăn anh lại, khẽ nói: “Cẩn thận một chút, đặc biệt là phía bên ngoài cửa sổ.” Tuy đã gần trưa nhưng bầu trời càng ngày càng âm u, cô nói với Mã Đạt: “Mình ăn sáng trước đi đã.” Mã Đạt cắn một miếng bánh ngọt, sau đó cẩn thận mở chiếc túi nylon lấy ra túi đựng hồ sơ. Thứ đầu tiên rơi ra từ chiếc túi đựng hồ sơ là hai chiếc đĩa, tiếp đó là vài cuốn sổ kế toán, cuối cùng là một phong bì thư. Mã Đạt cẩn thận tìm lại trong đống đồ một lần nữa. Anh không tìm thấy tiền hay bất cứ trái phiếu có giá trị gì, cũng không tìm thấy bất cứ tờ séc hay cuốn sổ tiết kiệm nào. Anh nhìn Dung Nhan với vẻ mặt thất vọng. Dung Nhan cầm mấy cuốn sổ kế toán lên, vừa nhai, vừa lật vài trang xem. Vài phút sau, cô đã phát hiện ra một điều gì đó. Cô từ từ đặt miếng bánh ngọt đang cầm trong tay xuống, hạ thật thấp giọng xuống nói: “Đây là cuốn sổ quỹ tiền mặt nội bộ của công ty chứng khoán Thiên Hạ.” “Như vậy nghĩa là chồng em đã phạm tội về kinh tế, đúng không?” “Anh nói khẽ thôi.” Cô đưa dấu ra hiệu im lặng, “chỉ từ những gì số tiền được ghi lại và các hóa đơn này thì đúng là như thế.” Mã Đạt lè lưỡi nói: “Anh ta đã tham ô bao nhiêu tiền?” Dung Nhan lắc đầu nói: “Em không biết, có lẽ là một con số cực lớn.” “Vậy thì, cuốn sổ quỹ tiền mặt và tập hóa đơn này ghi lại hết những gì anh ta đã tham ô?” “Đúng thế, còn có cả hai chiếc đĩa kia nữa, chỉ có điều sổ sách thì là bằng giấy còn những thứ trong đĩa kia thì đều có trong dữ liệu nội bộ của công ty chứng khoán Thiên Hạ cả. Đây là chứng cứ phạm tội quan trọng nhất, những thứ này đủ để cho anh ta bị xử tội cực nặng. Nhưng em cũng mới chỉ xem qua một phần nhỏ nên chưa thể nắm rõ hết cả vấn đề được.” “Xem ra đây đúng là thứ quan trọng mà hồn ma muốn có rồi.” “Em không biết.” Dung Nhan thấy một điều gì đó trong cuốn sổ. Mắt cô bỗng thoáng chút lo âu. Mã Đạt đã ăn xong bữa sáng (hoặc là bữa trưa), bỗng nhiên anh nhớ ra điều gì, vội nói với Dung Nhan: “Nhưng số tiền khổng lồ mà chồng em đã tham ô đấy, bây giờ ở đâu?” Dung Nhan lắc đầu vô vọng. “Dù là phía cảnh sát hay phía tội phạm thì lúc này điều quan trọng nhất không phải là những thứ này mà là số tiền đã bị mất.” Mã Đạt nhìn vào mắt Dung Nhan nói. “Anh đừng nôn nóng, chúng ta vẫn còn có thứ chưa xem cơ mà.” Nói xong, Dung Nhan cầm lấy chiếc phong bì nhỏ rơi ra cuối cùng. Cô cẩn thận xé chiếc phong bì, bên trong có một bức thư được đánh máy. Mã Đạt cũng rướn cổ sang phía cô. Hai người họ cùng nhau đọc thầm bức thư… Xin chào. Lúc ông đọc được bức thư này có lẽ tôi đã nằm dài trên bãi cát ở Malayxia, hoặc đang nằm trong chiếc quan tài lạnh ngắt. “Thấn đang nhìn ngươi đấy.” Không biết mật mã mà tôi để lại cho ông có làm ông đau đầu không, nhưng lúc này, khi ông đã đọc được bức thư thì tôi cũng chẳng còn gì để nói nữa. Những vậ tôi để lại cho ông đều là những thứ ông nhất định sẽ rất thích, có điều, tôi nghĩ chắc ông sẽ không thấy thỏa mãn với chúng. Bởi vì ông sẽ phát hiện ra rằng ở đây không hề có số tiền mà ông đang cần tìm. Xin thứ lỗi cho tôi. Tôi hiểu rất rõ rằng chỉ cần ông lấy được tiền thì tôi sẽ chẵng còn là vũ khí bí mật của ông nữa mà sẽ trở thành một kẻ thù bí mật. Đến lúc đó, ông chắc chắn sẽ giết tôi.Vì thế, để đảm bao cho sự an toàn của mình, tôi đã cất số tiền ở một nơi bí mật. Nếu như lúc ông đọc bức thư này, tôi vẫn còn sống thì tôi đã mang số tiền đó cao chạy xa bay rồi, ở một góc nào đó trên hành tinh này cầu nguyện cho sự bình an của ông. Bây giờ, chắc ông rất muốn biết nơi tôi đã giấu chỗ tiền kia. Đáp án vẫn chính ở trong năm chữ mà tôi đã tặng ông. Nếu như lúc này tôi đã chết thì ông vẫn còn có cơ hội để lấy lại chổ tiền đó. Chúc ông may mắn. Bức thư kết thúc, không có ký tên cũng không có thời gian. Giấy viết thư là giấy dùng để in, khổ A4 thông thường, các dòng chữ cũng được in bởi loại mực in phun của máy in thông dụng nhất. Từ vẻ bề ngoài của lá thư không thể tìm ra được manh mối gì. Mã Đạt chỉ vào câu đầu tiên trong bức thư nói: “Anh đã nằm trong chiếc quan tài lạnh ngắt rồi, à không, là tro xương của anh đã nằm trong hộp rồi.” “Thôi anh, bây giờ điều em muốn biết nhất là lá thư này được viết cho ai?” Dung Nhan chú ý nhất đến đoạn… “chỉ cần ông lấy được tiền thì tôi sẽ chẳng còn là vũ khí bí mật của ông nữa mà sẽ trở thành một kẻ thù bí mật. Đến lúc đó, chắc chắn ông sẽ giết tôi.” “Điều này chứng tỏ chồng em và người được chồng em gọi là “ông” ở trong bức thư này có một sự giành giật về quyền lợi một cách trắng trợn. Chỉ cần đạt được mục đích thì sẽ trở thành kẻ thù, một mất một còn. Còn nhân vật “ông” trong thư xem ra còn cao tay hơn cả chồng em, khiến cho chồng em phải vắt óc ra tìm mọi cách để đối phó với ông ta.” Mã Đạt gõ lên bức thư nói: “Anh thấy chồng em chắc là do thằng cha khốn nạn đó giết chết, “Thần đang nhìn ngươi đấy” câu nói đó chắc là do chồng em chuẩn bị để nói cho ông ta nghe, nhưng vì thằng cha kia nôn nóng quá nên đã giết người diệt khẩu. Nhưng sau đó ông ta lại phát hiện ra số tiền khổng lồ và đống chứng cứ kia sớm đã bị chồng em cất giấu. Ông ta nhớ ra người cuối cùng tiếp xúc với chồng em là anh, vì thế ông ta bắt đầu đe dọa anh. Anh đoán có đúng không?” Mã Đạt rõ ràng là có vẻ rất đắc chí với một loạt các suy luận vừa rồi. Nhưng anh không biết rằng cao thủ suy luận thực sự đang ngồi trước mặt anh, nữ nhà văn viết truyện trinh thám lắc đầu nói: “Mã Đạt, lúc nước sôi lửa bỏng liên quan đến tính mạng con người thế này mà anh vẫn còn có thể vui được sao?” “Anh chỉ muốn tăng thêm chút niềm tin cho bản thân thôi mà.” “Thôi được rồi, xem lại câu trong đoạn cuối của bức thư nhé.” Sau đó Dung Nhan khẽ khàng đọc ra thành tiếng: “Bây giờ, chắc ông rất muốn biết nơi tôi đã giấu chỗ tiền kia. Đáp an vẫn chính ở trong năm chữ mà tôi đã tặng ông.” “Vẫn là “Thần đang nhìn ngươi đấy?” “Có thể những mã điện báo đó ngoài việc là mật mã của két sắt còn có một ý nghĩa gì khác nữa.” Mã Đạt gật đầu, anh giở lại cuốn sổ ghi dãy 20 con số đó: 43770961417041920132. Hai người lại tiếp tục xem xét tỉ mỉ 20 con số này, cho đến tận khi Mã Đạt thấy đầu ong lên, mắt hoa đi. Những con số đó lúc này như đang nhảy múa trước mắt anh. Bỗng dưng Dung Nhan lên tiếng: “4377.” “Em vừa nói 4 chữ số đầu tiên đúng không?” Mã Đạt cũng dán mắt vào dãy số và nói: “Đây là mã điện báo của chữ “Thần” “Trông có vẻ giống như một ngày tháng năm nào đó.” “4377…ngày 7 tháng 7 năm 43 (1)?” “Đúng thế, nhưng đúng ra phải là 19430707 mới đúng.” Mã Đạt cũng chẳng nghĩ được nhiều hơn nữa, anh vội nói: “Thử may rủi xem sao, chúng ta cứ coi nó là ngày 7 tháng 7 năm 1943. Nhưng ngày tháng này thì có ý nghĩa gì chứ?” “Em không biết. Có lẽ là vào ngày này đã từng có việc gì đó xảy ra chăng?” Mã Đạt bắt đầu chán ngán, anh lắc đầu nói: “Cái mật mã như thế này thì đến quỷ cũng chẳng giải được, chồng em chắc không có gì bất thường chứ hả?” Dung Nhan không phản ứng gì, cô rút di động ra tìm kiếm một số nào đó. “Em gọi cho ai đấy?” Mã Đạt bỗng nhiên thấy căng thẳng. “Một người bạn. Anh ấy là biên tập của một nhà xuất bản. Sách của em là do anh ấy biên tập. May ra anh ấy có thể giúp em.” Cô mau chóng tìm được số điện thoại và quay số. Nghe thấy tiếng ở bên kia đầu dây, cô khẽ nói qua điện thoại: “Chào anh, em Dung Nhan đây.” Đầu dây bên kia lặng đi một lát sau đó nói giọng run run: “Dung Nhan, bản tin sáng nay đã ra lệnh truy nã em đấy. Em đang ở đâu?” “Anh đừng hỏi việc đó. Tóm lại anh hãy tin rằng em không giết người. Bây giờ em có một việc quan trọng nhờ anh. Việc này có thể sẽ liên quan đến cả tính mạng em.” Người bạn ngần ngừ trong giây lát rồi cũng nhận lời: “Em nói đi, Dung Nhan.” “Ngày 7 tháng 7 năm 1943 ở thành phố này đã xảy ra việc gì?Anh tìm trong dữ liệu trên máy hộ em.” “Em đợi chút nhá.” Đầu dây bên kia vang lên tiếng gõ bàn phím. Đợi khoảng 2 phút sau, tiếng người bạn ở đầu dây bên kia lại cất lên: “Ngày 7 tháng 7 năm 1943, nhà thờ Chính giáo (2) ở khu nghĩa trang người Nga Kiều (3) đã có một vụ hỏa hoạn. Khoảng mười người dân Nga đang làm lễ trong nhà thờ đã bị gặp nạn. Anh chỉ tìm ra được mỗi tin này, không còn tin nào khác. Dung Nhan, nói cho anh biết, em cần tìm điều này để làm gì?” “Sau này rồi anh sẽ hiểu… nếu như em còn sống. Thế đã nhé. Chào anh.” Cô tắt máy, mặt cô lúc đỏ ửng lúc tái nhợt. Sau đó cô kể những gì cô nghe được từ anh bạn cho Mã Đạt nghe. “Nghĩa trang của người Nga Kiều? Nhà thờ Chính giáo?” Mã Đạt chưa bao giờ nghe nói đến những chỗ này. “Em biết nơi đó. Mấy năm trước em đã từng đến đó.” Dung Nhan cắn môi nói: “Lúc trước em đã nghĩ rồi, thành phố này có rất nhiều nhà thờ, không phải chỉ có mỗi nhà thờ Thiên chúa giáo ở đây mà còn có cả nhà thờ Chính giáo nữa. “Đúng, nhà thờ Chính giáo cũng đúng với nghĩa của câu “Thần đang nhìn ngươi đấy.” Mã Đạt gật đầu. “Mã Đạt, anh mau dọn chỗ đồ trên bàn này đi. Bây giờ chúng ta sẽ đi luôn đến nhà thờ Chính giáo.” Nói xong Dung Nhan đứng dậy, vẫy tay: “Thanh toán em ơi.” Hai phút sau, họ đã rời khỏi quán cà phê. Lúc này trời đã bắt đầu mưa lất phất. Họ gọi một chiếc taxi lập tức đi về phía khu nghĩa trang của người Nga kiều ở góc Tây Bắc thành phố. Từ đây đi đến đó phải mất chừng 20 phút chạy xe. Mã Đạt ngồi trong xe, nhìn ra phía bên ngoài, mưa càng lúc càng nặng hạt. Anh bỗng nhớ đêm mưa hôm anh gặp Chu Tử Toàn. Bỗng nhiên, anh cảm thấy toàn thân Dung Nhan đang ngồi kế sát bên anh cứ khẽ run lên. Anh nắm chặt tay Dung Nhan hỏi: “Em lạnh à?” “Không, em sắp nổ tung rồi đây.” 11h20’. Mã Đạt và Dung Nhan đã đến nghĩa trang của người Nga kiều. Nhiều năm về trước, thành phố quốc tế hóa này có rất nhiều người Nga trắng sống lưu vong ở Trung Quốc. Sở dĩ gọi họ là người Nga trắng là để phân biệt với người Nga đỏ sinh sống ở nước Nga. Vào thời Sa Hoàng, phần lớn họ đều là các quý tộc, địa chủ và các chủ xí nghiệp người Nga. Sau cách mạng tháng Mười, họ bị bóc lột hết tài sản nên đi lưu lạc khắp nơi. Họ căm thù Xô Viết và luôn hoài niệm về Sa Hoàng vì thế họ đã sống cả đời ở nơi đất khách quê người. Trong thành phố duyên hải Trung Quốc này có hàng nghìn hàng vạn người như thế đang sinh sống. Rất nhiều người Nga trắng đã chết tại nơi đất khách này. Họ được chon cất trong một nghĩa trang chung ở vùng ngoại ô. Khu nghĩa trang chung này được xây theo tục lệ của Chính giáo nước nga để linh hồn những người nga được an tang ở Trung Quốc có thể được trở về với quê hương. Lúc này, xe đã đi đến trước nghĩa trang. Nghĩa trang đến cái cổng cũng không có, trên miếng đất của một nhà máy cũ bị bỏ hoang, chỉ có một con đường nhỏ gập ghềnh. Anh tài xế sợ sau khi lái xe vào trong sẽ không thể quay đầu ra được nên một mực bảo họ xuống xe ở đây. Bên ngoài xe lúc này trời đang mưa rất to, mây đen cuồn cuộn, sấm sét ầm ầm. Từng hạt mưa to bằng hạt đầu rầm rầm rơi xuống đầu Mã Đạt và Dung Nhan. Tuy bây giờ là giữa trưa nhưng đám mây đen dày đặc đã che phủ kín bầu trời, trông hệt như cảnh chiều muộn vào lúc 6h khiến cho người ta có cảm giác ức chế. Mã Đạt cởi áo khoác ngoài đội lên đầu mình và Dung Nhan để tránh những giọt mưa to đang dội lên đầu họ. Nhưng chỉ được một lúc, toàn thân họ đã ướt sũng. Quần áo của Dung Nhan dính chặt vào người càng làm nổi lên thân hình cô. Dưới sự bảo vệ của chiếc áo của Mã Đạt, cô chỉ có thể dựa sát vào người Mã Đạt. Mã Đạt một tay đỡ chiếc áo che đầu, một tay ôm chặt lấy cô. Anh cảm thấy anh và Dung Nhan dưới trời mưa đã hòa vào làm một. Mắt bị mưa làm cho ướt nhòe. Trước mắt lúc này là một màn mờ ảo. Họ không còn nhìn rõ được đường đi phía trước, chỉ có thể nhìn mang máng thấy hình dáng của một ngôi nhà đang nằm trơ trọi ở phía trước. Trời đất trong phút chốc bỗng dưng biến mất chỉ còn tiếng sấm vang dền bên tai. Và còn có anh và Dung Nhan, hai cơ thể còn đang hừng hực sức sống. Anh ôm chặt lấy Dung Nhan, hai người dính sát vào nhau. Có lẽ đây là một bản năng vốn có của con người. Trong nước mưa giá lạnh, họ dính sát cơ thể vào nhau để giữ thân nhiệt. Tuy nước mưa làm họ lạnh run nhưng cơ thể họ càng ngày càng nóng rực, như sự bịn rịn của nước và lửa. Đúng vào lúc Mã Đạt dường như đã bị nước mưa làm mất đi lý trí, Dung Nhan đã nghiến răng bấu cho anh một cái. Lúc đó Mã Đạt mới như tỉnh lại. “Mã Đạt, anh cũng phải nghĩ xem đây là đâu chứ.” Dung Nhan nhắc khéo vào tai anh. “Ở phía trước rồi, mau đi thôi.” Dung Nhan gọi anh, nhà thờ Chính giáo trang nghiêm kia đang hiện lên rõ ràng trước mắt họ. Đó là một tòa kiến trúc bị diệt vong đã lâu. Dưới bầu trời tối đen và làn mưa phủ kín, vòm đỉnh tròn lớn của phần điện thờ vẫn cao vút lên tận trời xanh. Vòm đỉnh tròn đáng nhẽ phải là màu xanh da trời nhưng trận hỏa hoạn năm 1943 đã làm cho cả nhà thờ biến thành một màu đen xỉn, trông rất thảm hại. Thế nhưng vẻ cao to của tòa lâu đài vẫn nguyên hình dạng như 20 năm về trước, và vẫn sống sót với vẻ trang nghiêm vốn có của nó ở trong nghĩa trang đáng sợ này. Dung Nhan kéo Mã Đạt xông vào cổng lớn nhà thờ nhưng chiếc cửa đã bị chiếc khóa rỉ mèm khóa chặt, có lẽ phải đến gần sáu chục năm rồi chưa có ai mở chiếc cửa này ra. Cô lại kéo tay Mã Đạt sang phí bên kia của nhà thờ, Mã Đạt bỗng ghé sát vào tai cô nói: “Anh thấy cái nhà thờ này như một nấm mồ vậy. Có lẽ anh sẽ chết trong nấm mồ này mất.” “Cho dù có chết ở trong cái nấm mồ này cũng còn hơn bị sét đánh chết dưới trời mưa ngoài kia.” Họ đi ra phía đằng sau nhà thờ, cuối cùng họ cũng phát hiện ra trên bức tường to và dày ở phía sau có 1 đống mái ngói đen xì, vỡ nát rơi đầy dưới chân tường. Trên bức tường để lộ ra một lỗ hổng tường cao hơn 2m, rộng chừng 1m. Đây chắc có lẽ là sự tàn phá duy nhất của nhà thờ vô cùng kiên cố này sau trận hỏa hoạn năm 1943. Dung Nhan kéo Mã Đạt đi vào bên trong từ lỗ hổng đó. Lúc này, ít nhất họ đã thoát khỏi được lễ rửa tội của mưa. Chưa kịp ngó nghiêng bên trong nhà thờ, Mã Đạt đã vội lột bỏ chiếc áo ướt sũng trên người và cởi trần đứng trước mặt Dung Nhan. Anh nhìn Dung Nhan cũng đã ướt sũng toàn thân như có ý ám chỉ cô làm điều mà anh vừa làm. Dung Nhan khẽ nói: “Đừng nhìn em như thế, em không lạnh.” “Anh chỉ không muốn em bị cảm lạnh thôi.” Mã Đạt ôm chặt lấy cô. Anh muốn dùng nhiệt độ cơ thể mình làm ấm lên cái giá lạnh trên người cô. “Cám ơn anh.” Dung Nhan không nói gì nữa. Cô ngẩng đầu lên nhìn sảnh lớn của nhà thờ. Sự tàn phá bên trong giáo đường có vẻ còn tồi tệ hơn cả bên ngoài, bốn bề đều có những dấu vết của ngọn lửa đi qua, ngay cả đến đỉnh vòm tròn lớn ở trên cao cũng bị khói đen bám đầy. Quanh giáo đường rộng lớn nhưng trống trải đâu đâu cũng có vết tích của trận hỏa hoạn. Tro tàn của những chiếc ghế dài và lan can bằng gỗ đã tích lại dưới sàn nhà nhiều tính mạng con người, khiến cho họ mãi mãi bị chôn vùi ở nơi đất khách quê người. Bỗng nhiên trước mắt Dung Nhan hiện lên từng xác người bị thiêu cháy rụi. Cô khẽ thở dài: Nhà thờ này có thể may mắn tồn tại được sau trận hỏa hoạn đó hơn nữa vẫn còn đứng vững được đến ngày hôm nay có thể đúng là một phép màu của Thượng đế. Năm đó, nhà thờ này là một kiến trúc quan trọng nhất ở nơi đây. Tang lễ và các hoạt động tôn giáo quan trọng của các Nga Kiều trong khu vực này đều diễn ra ở đây. Vì thế nó đã trở thành nhà thờ quan trọng nhất của Chính đạo ở vùng Viễn Đông sau Cáp Nhĩ Tân. Nhưng sau khi Đức và Xô Viết giao chiến vào năm 1941, phần lớn người Nga kiều đã về nước tham gia chiến tranh, để lại những di dân đã già nua từ thời Sa Hoàng. Vì vậy mà nơi này càng ngày càng trở nên vắng lạnh. Ngày 7 tháng 7 năm 1943, đã xảy ra một vụ cháy bất ngờ, hơn mười người Nga Kiều đang tham gia hoạt động tôn giáo đã bị tử nạn. Mặc dù nhà thờ vẫn còn đó nhưng bên trong do hư hỏng quá nhiều, hơn nữa những người ở lại chỉ còn lèo tèo vài người, kinh tế nghèo nàn nên sau đó nhà thờ này đã trở nên hoang phế. Gần 60 năm qua nó cứ thế cô độc đứng một mình giữa nghĩa trang vắng lạnh. Từ thiên đàng xuống địa ngục chỉ cách nhau có một bước chân. Lúc này khi Dung Nhan quan sát nhà thờ, cô càng cảm thấy thấm thía câu nói đó. “Dung Nhan, em xem bên này này…” Mã Đạt bỗng dưng cất tiếng gọi, dùng ngón tay chỉ vào phía sâu bên trong nhà thờ. Dung Nhan nhìn theo hướng tay Mã Đạt chỉ, quả nhiên có một bức tường ở đó, có điều trong bống tối của nhà thờ, họ nhìn không rõ. Vì thế 2 người bước nhanh đến chỗ bức tường. Đó là cung thờ ở phía trong của nhà thờ. Những đồ bày biện trên bàn thờ đã bị cháy rụi hết cả. Trên bức tường ở phía trên bàn thờ có một bức tượng chúa Giêsu. Đây quả là một điều kì diệu, bốn bức tường xung quanh đều bị cháy rụi cả nhưng bức tượng Giêsu gần như không hề hấn gì, qua chút ánh sáng từ cửa sổ phía trên chiếu xuống vẫn có thể nhìn thấy được ngũ quan trên mặt bức tượng chúa Giêsu. “Có lẽ nó được làm từ nguyên liệu nào đó chống cháy.” Mã Đạt nói. “Mã Đạt, anh mặc áo vào đi.” Anh hiểu ý của Dung Nhan. Anh không nên cởi trần đứng trước mặt chúa Giêsu. Mặc dù anh không vui vẻ gì lắm nhưng vẫn mặc lại chiếc áo ướt sũng vào người. Mắt của Dung Nhan vẫn cứ dán chặt vào đôi mắt của bức tượng Chúa Giêsu đang mở mắt, ánh mắt như đang nhìn xuống phía tay trái còn tay phải chúa Giêsu đang chỉ về phía dưới tay phải của Người. “Thần đang nhìn ngươi đấy.” Dung Nhan lập tức cảm thấy một mách bảo gì đó. Cô nhìn theo phía tay mà bức tượng chỉ. Trên mặt đất phía tay trái của bức tượng chúa Giêsu có một vật trông giống như một cỗ quan tài. Trông có vẻ như được làm bằng đá vì thế nên nó chưa bị lửa thiêu rụi. Cô kéo tay Mã Đạt đi đến trước chiếc quan tài. Anh hỏi: “Đây là cái gì?” “Em không biết, em nghĩ chắc không phải là cái quan tài đó.” Dung Nhan đứng trước cái vật bằng đá đó, rồi quay đầu lại nhìn về phía bức tường. Lần này, ánh mắt của cô và ánh mắt của Chúa Giêsu đã gặp nhau còn tay của Chúa Giêsu đang chỉ thẳng vào mắt cô. Cô bỗng trở nên phấn khích như quên đi hết mọi giá lạnh. “Quả nhiên là thần đang nhìn về phía anh.” Mã Đạt quay đầu lại, nói. Dung Nhan cúi đầu, cẩn thận nhìn chiếc nắp bằng đá đang được đậy ở bên trên. Phía bên trên trước đây có phủ một lớp tro bụi nhưng trên tấm đá hình như có người đã từng lau nó. “Trên tấm đá có chữ.” Mã Đạt kêu lên. Họ nhanh chóng nhìn thấy rõ 4 chữ số được khắc chìm trong tấm đá: 0132. Ngay lập tức, Mã Đạt kêu lên vì anh đã học thuộc lòng mã điện báo của năm chữ kia. Nhưng anh vẫn rút cuốn sổ ra đối chiếu lại, quả nhiên, mã điện báo “0132” thay thế cho chữ “Ngươi”. Phía đằng sau lưng họ, ánh mắt của bức tượng chúa Giêsu đang nhìn thẳng vào chữ số được khắc trên tấm đá: 0132 “Anh hiểu rồi, hóa ra “Thần đang nhìn ngươi đấy.” chính là Thần đang nhìn vào những con số được khắc trên tấm đá này: 0132”. Mã Đạt phấn khích nói: “Đây đúng là chỗ mình cần tìm.“ Dung Nhan lại nhớ ra điều gì: “Mã Đạt lúc trước mở két sắt anh chỉ dùng có 12 số thôi đúng không?” “Ừ, nhóm số cuối anh chưa dùng đến.” Mã Đạt bỗng dưng hiểu ra vấn đề, “Đúng rồi, số mã điện báo của chữ “Ngươi” cuối cùng chẳng phải chính là những số đó ở đây sao?” “Thần đang nhìn ngươi đấy.” 20 chữ số thay thế cho 5 chữ. Cái nào cũng có chỗ để dùng cả vì thế anh ta mới viết trong thư là “đáp án vẫn nằm chính ở 5 chữ mà tôi đã tặng ông.” Anh gật đầu rồi hỏi: “Nhưng dưới tấm đá này có cái gì nhỉ?” Dung Nhan quan sát thật kĩ cả tấm đá một lần nữa, trông nó có vẻ không giống quan tài, mà có vẻ giống như một chiếc hòm được làm bằng đá. Bỗng nhiên cô nói: “Lẽ nào đây chính là chiếc hòm giao ước?” “Hòm giao ước là gì?” “Hòm giao ước là một vật thánh của đạo Do Thái và Cơ Đốc, được làm bằng gỗ và vàng, bên trong có chứa “10 điều răn” của Thượng Đế đích thân viết, và do nhà tiên tri Moses đặt vào trong thánh điện ở Jerusalem, về sau không biết đã lưu lạc ở đâu. Nhưng trong một số các nhà thờ của đạo Do Thái và Cơ Đốc sau này vẫn đặt một chiếc hòm giao ước được làm mô phỏng lại để sử dụng cho các nghi thức tôn giáo.” Dung Nhan nhìn chiếc hòm giao ước bằng đá được làm phỏng theo chiếc hòm giao ước gốc, nói: “Trên nóc hòm giao ước có viết: “10 điều răn” của Thượng Đế, nghe nói chiếc hòm này còn có một sức mạnh vô biên.” Dung Nhan vừa nói xong thì Mã Đạt đã dùng tay đẩy tấm đá. Anh dùng hết sức mới có thể di chuyển được tấm đá ra khỏi chiếc hòm giao ước. Họ hồi hộp nhìn vào bên trong, dưới ánh sáng lờ mờ họ nhìn thấy hình như có một chiếc túi. Mã Đạt bạo gan thò tay vào trong. Anh sờ thấy một vật cưng cứng, hình như còn có cả tay cầm, sau đó anh nhấc chiếc túi đó ra khỏi hòm giao ước. Thần đang nhìn ngươi đấy. Anh dung chiếc tay đang run lên lẩy bẩy cẩn thẩn cầm lấy một bó, chắc được khoảng 100 tờ, mỗi tờ có mệnh giá là 100 đô. Anh cố hết sức để cho mình có thể trấn tĩnh lại. Anh quay đầu sang nhìn Dung Nhan, người cô cũng đang run lên. Dung Nhan không nói câu nào, cô thò tay vào trong chiếc vali, đếm số bó tiền. Trong chiếc vali có tổng cộng khoảng hơn 300 bó, mỗi bó khoảng 10,000 đô. Vậy có nghĩa là trong đó có khoảng hơn 3 triệu đô la Mỹ. Đây là 1 con số khiến người ta phát điên. Trong cựu ước có nói, trong chiếc hòm giao ước có chứa các luật cấm và có chứa cả một sức mạnh vô biên. Bây giờ, họ tìm thấy được từ chiếc hòm giao ước vật có sức mạnh vô biên của thời hiện đại. Đó là tiền. “Thần đang nhìn ngươi đấy.” Dung Nhan khẽ đọc câu đó, bởi vì trên cái hành tinh này, đô la Mỹ dường như đã thay thế cho vị trí của Thượng Đế, trở thành vị thần không có gì là không thể làm được. Bỗng nhiên, cô cảm thấy sau lưng mình có một đôi mắt sắc lạnh đang nhìn cô. Dung Nhan từ từ quay người lại. Cô nhìn thấy ánh mắt của bức tượng chúa Giêsu. Trong phút chốc, cô cảm thấy có 1 cảm giác mắc tội vô cùng mãnh liệt. Trước Chúa, cô cần phải sám hối. Cô nói giọng lạnh lùng với Mã Đạt đang kích động thốt không nên lời: “Mã Đạt đây không phải là tiền của chúng ta.” Mã Đạt ngẩn người ra sau đó quay đầu lại nhìn cô, nhưng chỉ vài giây sau, mặt anh lập tức biến sắc, 1 nỗi sợ hãi không thể dùng lời để miêu ta đang hiện lên trên khuôn mặt anh. Dung Nhan nhìn chằm chằm vào anh, lẽ nào anh đã chạm phải mười điều răn được viết trong hòm giao ước sao? Vài giây qua đi, Mã Đạt đứng dậy, anh mở to mắt nhìn về phía trước, từ trong cổ họng anh phát ra một tiếng nặng nề: “Hồn….ma…” Dung Nhan cũng lập tức đứng dậy, quay người về phía sau…hồn ma đang đứng ngay sau họ. Trong nhà thờ hoang vắng, 1 bóng đen từ từ di chuyển về phía họ. Cuối cùng, ánh sáng lờ mờ chiếu từ trên chiếc cửa sổ hắt xuống đã soi sáng khuôn mặt của hồn ma. Vào thời khắc đó, Mã Đạt và Dung Nhan đã nhìn thấy rõ khuôn mặt đó Khuôn mặt của một người đã chết. Chu Tử Toàn. Dung Nhan cảm thấy có một cái lạnh thấu xương chạy dọc cột sống cô. Cô đứng đó nhìn hồn ma kia, bởi vì anh ta là chồng của cô. Còn Mã Đạt thì lần thứ 2 gặp người đàn ông này. Lần này, trước mắt anh là một hồn ma đã chết đi sống lại. Điều này càng khiến anh cảm thấy sợ hãi. Mã Đạt lùi về phía sau mấy bước nhưng sau lưng anh là một bức tường đá màu đen. Đột nhiên, hồn ma giơ ra một khẩu súng, nhắm chuẩn vào tim Mã Đạt. Mã Đạt trợn tròn mắt, muốn nói với hồn ma kia một điều gì đó, nỗi sợ hãi đã làm cho anh không thốt nổi ra thành lời. “Không…” Dung Nhan kêu to, Gần như đúng lúc với tiếng kêu, Mã Đạt đã nghe thấy tiếng súng nặng nề vang lên. Sau đó, anh nhìn thấy miệng khẩu súng đang ở trên tay hồn ma bay lên một làn khói. Sau đó anh cảm thấy có vật gì đó vừa xuyên vào trong lồng ngực, như bị ai đó đấm vào ngực. Quả tấn công đó khiến anh ngã ngửa ra phía sau, va phải bức tường phía sau rồi từ từ ngã xuống đất. Sau khi ngã xuống nên đất giá lạnh, tai anh vẫn còn nghe thấy tiếng vang của khẩu súng dội lên khắp đỉnh vòm nhà thờ, còn có tiếng khóc đau thương của Dung Nhan. Trời đất xoay chuyển. Lúc này trong mắt Mã Đạt dường như nhà thờ này đang xoay chuyển. Đỉnh vòm to lớn kia dường như đã bị lửa bao trùm, trong tích tắc đổ xuống. Trước mắt anh mọi thứ đều mờ đi, có lẽ anh đã sang thế giới bên kia. Anh cảm thấy máu của mình đang chảy ra khỏi ngực. Thứ cuối cùng Mã Đạt nhìn thấy chính là bức tượng chúa Giêsu. Ánh mắt của chúa Giêsu đang nhìn anh, tay chỉ vào anh. Cơn ác mộng mà anh mơ lúc sáng nay đã trở thành sự thực. Chú thích
(1) Người Trung Quốc đọc và ghi ngày tháng theo thứ tự năm, tháng, ngày (khác với chúng ta thường đọc và ghi theo thứ tự ngày, tháng, năm) (2) Chính giáo: một phái của đạo Cơ đốc. (3) Người Nga kiều: là người Nga sinh sống tại Trung Quốc, giống như cách gọi Hoa kiều, Việt kiều.
(1) Người Trung Quốc đọc và ghi ngày tháng theo thứ tự năm, tháng, ngày (khác với chúng ta thường đọc và ghi theo thứ tự ngày, tháng, năm) (2) Chính giáo: một phái của đạo Cơ đốc. (3) Người Nga kiều: là người Nga sinh sống tại Trung Quốc, giống như cách gọi Hoa kiều, Việt kiều.