hứ sáu 30 – 8, cả ngày tôi nằm trên giường. Tôi không dám nhìn trẻ con khóc vì ăn không đủ no. Matty bưng cho tôi một tách nước trà và tôi uống rất khó khăn. Bụng đói làm người uể oải, và bất chấp nguy hiểm, tôi cho phép Dick nằm dài trên nệm gần giường tôi và gặm nhắm bất cứ thứ gì Matty kiếm được cho nó. Đôi mắt nó mở thao láo trên khuôn mặt xanh xao, những lọn tóc đen lơ lửng trên trán. Matty gầy hẳn đi, mắt trũng và buồn, má và cổ không còn tròn trịa nữa. Cô ta đã khéo léo lân la làm quen với một người lính phụ trách bếp núc, nhờ đó mới kiếm được chút đồ ăn cho Dick và bọn trẻ. Khoảng gần hai giờ trưa, tiếng ngựa hí đánh thức tôi dậy. Matty mở cửa sổ thấy một toán sĩ quan cỡi ngựa vào sân, có lính đi hộ tống. Viên chỉ huy ngồi trên lưng một con ngựa đen và khoác chiếc áo choàng màu xám. Matty ra ngoài thăm dò tình hình và trở về báo cho tôi biết rằng hầu tước Robartes đích thân ra ngoài bậc thềm nghênh đón khách. Sau đó tất cả vào phòng ăn hội họp. Người ta đã đặt lính gác ngoài cửa. Mặc dù tâm trí đang mệt mỏi, nhưng tôi hiểu đó là phiên họp cuối cùng. Chính bá tước Essex đến chủ toạ. Đưa tay bóp trán với hy vọng làm cho tâm địa bớt cơn nhức đầu, tôi nói với Matty: - Em hãy đi dò la tin tức nơi người lính đầu bếp, xem anh ta có biết điều gì không. Matty gật đầu mím môi và trước khi vâng lời lấy từ trong bọc ra một miếng sườn khác cho Dick, sau đó đưa Dick trở về đường hầm. Ba giờ, bốn giờ, năm giờ. Ngày sắp tàn trong cơn mưa và sương mù. Lúc năm giờ rưỡi, Matty trở lại. Cô ta đã làm gì trong suốt thời gian qua? Cho đến bây giờ, tôi cũng không bao giờ tìm hiểu chuyện ấy. Matty chỉ cho tôi biết rằng người lính đầu bếp muốn nói chuyện với tôi. Cô ta thắp sáng đèn lên bởi vì tôi đang nằm trong bóng tối. Hất cằm về phía hành lang, cô ta nói nhỏ: - Nếu cô biếu hắn chút đỉnh tiền, hắn sẽ làm tất cả những gì cô yêu cầu. Tôi gật đầu, nói Matty đưa cho tôi cái bóp đựng tiền. Cô ta vâng lời, mở cửa và ra dấu bằng tay. Người lính bước vào, chớp mắt dưới ánh đèn, sau khi ngoái cổ nhìn suốt hành lang. Tôi đưa một đồng tiền vàng, hắn bỏ túi ngay. - Anh có những tin tức nào? – tôi hỏi. Người lính đưa mắt nhìn Matty. Cô ta gật đầu ra hiệu cho hắn nói. - Đây chỉ là tin đồn tôi nghe được trên sân – hắn ngừng nói một chút liếc mắt về phía cửa – đêm nay, trung đoàn của chúng tôi sẽ rút lui. Năm ngàn người sẽ đi ra bờ biển và xuống thuyền nếu trời dịu gió. - Chỉ huy của anh làm thế nào giải quyết cho hai ngàn kỵ binh, cả người lẫn ngựa? Hắn lắc đầu, liếc mắt nhìn Matty. Tôi đưa thêm một đồng tiền vàng. - Tôi nghe cận vệ của ngài William Balfour nói rằng Bộ Tham mưu quyết định tung kỵ binh đột phá vòng vây trong đêm nay trong khi đó bộ binh rút lui bằng đường biển - Còn anh và các bạn anh trong toán hậu cần? – tôi hỏi. - Chúng tôi cũng đi bằng đường thủy như mọi người khác. - Không an toàn lắm đâu – tôi nói – hãy nghe tiếng gió kìa. Gió hú qua các rặng cây và những giọt mưa đập vào cửa kính. - Tôi biết trước điều gì sẽ xảy ra cho các anh – tôi nói – khi trời nắng các anh sẽ còn lang thang trên bãi, trong mưa gió và trước mặt anh là biển động. Nhân dân từ khắp nơi sẽ kéo đến, tay cầm chĩa ba. Người dân ở Cornouailles này khi đói không còn biết sợ là gì. Người lính không trả lời, thè lưỡi liếm môi. - Tại sao anh không đào ngũ? – tôi hỏi – Hãy trốn ngay đêm nay trước khi xảy ra điều xấu nhất. Tôi sẽ viết vài chữ cho ngài chỉ huy quân đội bảo hoàng để anh cầm đi. - Em cũng đã nói thế với anh ta – Matty nói – Chỉ cần cô viết vài chữ cho ngài Richard Grenvile đủ để anh ta vượt tuyến mà không bị phe ta làm khó dễ. Người lính nhìn chúng tôi từng người một, lưỡng lự, sững sờ. Tôi cho anh ta một đồng tiền vàng thứ ba. - Nếu anh đào ngũ trở về với quân đội bảo hoàng trước một giờ, hãy báo cho họ biết những gì anh vừa mới nói với tôi về âm mưu của kỵ binh phiến loạn muốn đột phá vòng vậy, anh sẽ được trọng thưởng. Người lính gãi đầu và nhìn Matty. - Thà anh bị quân đội bảo hoàng bắt làm tù binh còn hơn bị dân Cornouailles đâm lòi ruột. Câu nói cuối cùng này làm anh ta xiêu lòng. - Tôi sẽ đi - người lính nói – nếu bà viết vài chữ bảo đảm cho tôi. Tôi hí hoáy vài dòng cho Richard. Khó có cơ may bức thư này đến tay chàng, và thật ra, chàng không bao giờ nhận được. Tôi khuyên người lính đi xuyên rừng để đến Forwey trong đêm, sau đó sẽ tìm một chiếc xuồng để đi Bodinnick gặp quân bảo hoàng. Khi người lính đã ra đi, tôi lại nằm trên giường và lắng tai nghe. Trong tiếng mưa rơi đơn điệu, người ta nghe tiếng bước chân của các đoàn quân trên đường. Những giờ trôi qua, tiếng bước chân của họ nặng nề vang lên không ngớt, tiếng kèn đồng lanh lảnh hoà trong gió hú. Trời sáng, lính vẫn còn đi trên đường, mình mẩy bẩn thỉu, lấm đầy bùn, hỗn loạn, trốn về hướng bãi biển. Lúc giữa trưa, không còn chút kỷ luật nào trong đạo quân phiến loạn. Tiếng súng đại bác gầm vang từ Lostwithiel. Quân của Richard theo sát gót tàn quân đối phương. Chúng tôi đều đứng bên cửa sổ, quên cả đói. Mưa quất rát mặt. Suốt ngày, những toán quân đi qua, người, ngựa, xe, những lệnh ban ra chẳng được ai tuân hành, nhiều người lính kiệt sức gục xuống hố. Tiếng súng đại bác càng gần hơn. Một người hầu leo lên tháp chuông đồng hồ và báo cho chúng tôi biết rằng ở đồng bằng Castledore, lính đông như kiến. Mưa vẫn rơi và cuộc rút quân vẫn tiếp tục. Lúc năm giờ chiều, chúng tôi được lệnh tập họp tại hành lang tầng trệt. Cả John đang bệnh cũng phải xuống đó. Tất cả chúng tôi đi không vững vì đói lả. Từ hai ngày nay, chúng tôi chỉ ăn cỏ nấu canh. Chúng tôi họp thành một đoàn người kỳ lạ trong hành lang. Trẻ con đều nín khóc. Lần đầu tiên từ một tháng nay, tôi mới gặp lại John. Nó có vẻ bệnh hoạn, nước da vàng khè và tứ chi run rẩy. Nó nhìn tôi bằng con mắt dò hỏi và tôi mỉm cười gật đầu với nó. Tất cả chúng tôi đều chờ đợi. Không ai muốn phá tan bầu không khí im lặng này. Gartred và hai con gái đứng cách chúng tôi một chút. Họ cũng xanh xao hơn trước. Có lẽ từ nhiều ngày nay, không còn thịt gà cho họ ăn nữa. Tôi nhận thấy Gartred không còn đeo nữ trang nữa và ăn mặc rất đơn giản. Cô ta có vẻ không chú ý đến chúng tôi, ngoài vài câu xã giao với bà chủ nhà Mary. Gartred ngồi vào bàn nhỏ gần cửa sổ và chơi bói bài. Cô ta lật ngửa những lá bài lên và chăm chú quan sát từng lá một. Đây là giây phút mà cô ta chờ đợi hơn một tháng này – tôi nghĩ thế. Bất chợt, những tiếng bước chân nện thình thịch ngoài phòng đại sảnh. Hầu tước Robartes, đôi giầy bốt lấm đầy bùn, áo choàng ướt đẫm nước mưa, bước vào cùng với các sĩ quan khác. Mặt người nào cũng đanh lại và quả quyết. - Tất cả những người cư trú trong nhà này đều có mặt ở đây hết chưa? – Hắn hỏi – giọng cứng rắn. Khi biết mọi người đã tề tựu đông đủ, Robartes bước tới đứng trước mặt chị Mary và con trai là John. - Tôi được biết – hắn nói – chồng của bà, thưa bà và cha của ông, thưa ông, bằng hành động phạm pháp đã cất giấu ở đây một số lượng rất lớn đồ bạc, trên pháp lý thuộc về Hội đồng Nghị viện. Vì tình thế bắt buộc hiện nay, chúng tôi phải tạm thời lui quân. Nghị viện cần số bạc này để nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Tôi yêu cầu bà cho biết số bạc để đâu. Lạy chúa ban ơn cho Mary vì thật tình chị ta chẳng hay biết gì cả. Chị kinh ngạc nói: - Ông nói gì tôi chẳng hiểu. Chúng tôi chỉ giữ một số tiền để chi tiêu trong nhà thì các ông đã chiếm đoạt cả rồi, bởi các ông giữ chìa khóa của tôi mà. - Tôi muốn nói đến số lượng lớn đồ bạc, thưa bà, đang được chồng bà cất giấu ở một nơi kín đáo trong nhà này trong khi đợi chuyển đến kho bạc. Hắn ta quay sang John. - Còn anh. Chắc cha anh cũng cho anh biết phần nào công việc làm ăn của ông ta chứ? - Không – John quả quyết – Tôi không được phép biết chút gì về công việc làm ăn của cha tôi. Người tâm phúc duy nhất của cha tôi là Langdon thì hiện nay đang ở bên cha tôi. Không ai ở Menabilly này có thể trả lời được câu hỏi của ông. Hầu tước Robartes trừng mắt ngó John một hồi, đoạn quay sang các viên sĩ quan. - Hãy khám xét kỹ lưỡng ngôi nhà này – hắn ra lệnh khô khan – Xé nát các màn trướng và quần áo. Phá hủy tất cả những cái gì dưới tầm tay các ông. Tịch thu toàn bộ nữ trang, quần áo, vật quý giá. Chỉ để lại bốn bức trướng mà thôi. John trỗi dậy khó nhọc và nói: - Các ông không được làm thế. Nghị viện nào cho phép các ông tàn phá bừa bãi một ngôi nhà? Vì tình nhân đạo, tôi phản đối, thưa ngài hầu tước. Còn chị Mary của tôi quỳ xuống van xin: - Thưa ngài hầu tước, tôi thề trên đầu các con tôi rằng tôi không hề biết có vật gì cất giấu trong nhà này. Tôi cầu xin ngài thương xót cho gia sản của chúng tôi. Hầu tước Robartes lạnh lùng nhìn Mary: - Thưa bà, tại sao tôi lại thương xót người ta khi người ta không thương hại tôi? Trong chiến tranh, ai cũng phải chịu thiệt thòi, người thắng lẫn người bại. Các vị phải cám ơn tôi đã tha mạng cho các vị. Nói xong, hắn quay gót đi ra. Hai người lính đứng gác ngay lối ra vào. Robartes lại nhảy lên lưng ngựa tiếp tục chỉ huy quân lính vừa rút vừa khánh cự, dẫu rằng vô ích dưới cơn mưa phùn khắc nghiệt. Còn lại viên thiếu tá nhận lệnh của Robartes, chỉ huy đám lính đập phá ngôi nhà. Chúng tôi nghe gỗ kêu răng rắc, kính bể loảng xoảng. Mary quay sang con chồng, khuôn mặt đầm đìa nước mắt: - Lạy Chúa tôi! John, nếu con biết trong nhà này có giấu đồ bạc, hãy nói đi để cứu lấy ngôi nhà. Mẹ sẽ gánh hết trách nhiệm trước mắt cha con. John không trả lời, ngước mắt nhìn tôi. Và không ai khác, ngoài tôi ra thấy Gartred cũng nhìn tôi đăm đăm. Đôi môi tôi vẫn bất động. Tôi nhìn lại John, bằng vẻ cứng rắn và lạnh lùng như hầu tước Robartes. John đợi một lát và chậm rãi trả lời: - Con không biết gì hết. Vật đầu tiên bị ném ra phòng đại sảnh là bức chân dung của đức Vua, bị dẫm nát bởi những đế giầy lấm bùn, chỉ còn lại đôi mắt buồn bã của ngài đang nhìn chúng tôi. Bọn lính lên cầu thang, đột nhập vào các phòng. Khi nghe chúng đập bể cánh cửa phòng mình, chị Mary lặng lẽ khóc. Alice phải ôm choàng lấy kế mẫu và tìm lời an ủi. Mọi người đều đứng lặng yên. Gartred quay sang tôi - Này Honor, tôi và cô, chúng ta là những người duy nhất ở đây không cùng huyết thống với giòng họ Rashleigh. Tôi đề nghị chúng ta đánh một ván piquet để giết thì giờ nhé. - Từ lúc cha cô dạy tôi đánh piquet, đã mười sáu năm rồi, tôi không chơi nó nữa – tôi trả lời. - Nếu vậy tôi lợi thế hơn cô rồi – Gartred nói – Nào đánh thử một ván xem sao? Cô ta mỉm cười, xóc bài và tôi hiểu lời nói của cô ta có dụng ý. - Ngoài số phận của vài nén bạc – tôi nói – có thể còn có cái khác quý hơn trong canh bài này. Tiếng búa rìu, tiếng chày vẫn động mạnh trên lầu. - Cô không sợ phải đấu với tôi à? – Gartred nói. - Không – tôi đáp – Không, tôi không sợ. Tôi lăn ghế đến ngồi đối diện với Gartred. Cô ta đưa bài cho tôi cúp. Tôi cúp xong trả lại cho Gartred chia. Mỗi người mười hai lá. Thế là bắt đầu canh bạc lạ lùng nhất. Gartred có thể để tuột khỏi tay một gia tài lớn, còn tôi có thể mất Dick, con trai của Richard. Nhưng không ai biết điều ấy. - Năm lá – Gartred nói. - Bao nhiêu? - Chín. - được lắm. - Năm - Bốn con suốt, đồng hoa. Chín. Ba bồi. - Không. Cô ta lật lại con ách cơ lên còn tôi lật con mười, và trong khi cô ta ghi điểm, tôi nghe quân phiến loại giựt xé màn trướng trong các phòng. Một mùi khen khét xông lên và sau đó khói bốc nghi ngút bên ngoài cửa sổ. - Chúng đốt chuồng ngựa và các nhà kho trong nông trại – John bình tĩnh nói. - Mưa sẽ dập tắt lửa – John thì thầm. - Mười lăm – Gartred vừa nói vừa vứt con già rô xuống. - Mười lăm – tôi đáp lại vừa chìa lại con ách. Chúng tôi bắt đầu chơi ván thứ ba. - Ba già – Gartred nói. - Được lắm – tôi nói vừa lắng tai nghe bọn lính đang giật sập cửa sổ phòng tôi. Tôi thấy chị Mary ngước mặt đau khổ nhìn chúng tôi. - Chỉ cần bà nói một tiếng với viên sĩ quan – Chị tôi nói với Gartred – để họ ngưng ngay hành động cướp phá này. Bà là bạn của ngài hầu tước Robartes. Bà không thể làm gì được sao? - Tôi có thể giúp ích được chứ - Gartred nói – nếu cô Honor muốn. Nhưng cô Honor thích căn nhà bị phá hủy hơn. Mười lăm, mười sáu, mười bẩy và mười tám. Tôi thắng ván này. - Honor – Chị Mary nói – em phải biết rằng anh Jonathan sẽ đau lòng vô cùng trước cảnh nhà cửa tan nát. Kết quả của năm mươi năm làm việc và dành dụm. Nếu Gartred nói có thể cứu chúng ta mà em lại tìm cách ngăn cản, chị sẽ không bao giờ tha thứ cho em, cả anh Jonathan nữa, nếu anh ấy biết. - Gartred không thể cứu ai được ngoài cô ta ra – tôi nói và bắt đầu xóc bài cho ván thứ tư. - Năm lá – Gartred bảo - Huề nhé – tôi đáp. - Bốn bồi. Chúng tôi đánh ván thứ năm và cũng là ván cuối. Mỗi người chúng tôi thắng hai ván. Lúc ấy toán lính bước xuống cầu thang, đi đầu là viên thiếu ta. Phía trước nhà và trên sàn ngổn ngang những mảnh vụn, đồ đạc, gia sản của gần năm mươi năm. Tất cả những gì không được chất lên xe, đều bị đốt sạch. Viên thiếu tá bước vào hành lang, lạnh lùng chào John, vẻ nhạo báng. - Lệnh của ngài hầu tước đã được thi hành đầy đủ - hắn ta thông báo – Không còn gì tồn tại ở Menabilly ngoài quý bà, quý ông và bốn bức tường. - Thế ông có kiếm được vàng bạc gì không? - Không, thưa bà. - Vậy thì những hành động phá hoại vừa qua là vô ích phải không? - Chúng tôi chỉ sốt sắng làm việc cho Nghị viện, thưa bà, và đó là điều quan trọng đối với chúng tôi là những người lính vừa là người hầu. Hắn chào và bước ra. Chúng tôi nghe hắn ra lệnh cho tùy tùng mang ngựa lại. Cả bọn ra đi. Ngọn lửa liếm đến những hòn đá trên sân. Chỉ còn tiếng lửa nổ tí tách hóa với tiếng mưa phùn đơn điệu, ngoài ra tất cả đều im lặng hoàn toàn. Không còn bóng dáng người lính nào trước cửa nhà nữa. Will Sparke rón rén bước vào phòng đại sảnh và reo to: - Chúng đi hết rồi. Không còn một tên. Tôi nhìn Gartred, và lần này, chính tôi mỉm cười. Tôi ném những quân bài lên mặt thảm, và vừa cộng thêm mười vào tổng số điểm đạt được, tôi rút ra ba con ách, thắng ván quyết định này. Garted đứng dậy không nói một lời, hơi gật đầu chào, lên tiếng gọi hai đứa con gái và ba mẹ con lên phòng. Tôi ngồi lại một mình, lơ đễnh mân mê những lá bài trong khi những người khác phở phào, buồn vui lẫn lộn. Và trong khi tay vẫn còn mân mê những lá bài, tôi nghe văng vẳng từ xa một âm thanh mới lạ không kéo dài, quấy nhiễu như tiếng kèn đồng, nhưng rộn rã, đắc thắng và dứt khoát: đó là đội trống trong đạo quân Đức Vua.