Như đã nói trong đoạn trước, cộng sản là những người vô thần duy vật, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo, vì Marx cho tôn giáo là thuốc phiện của loài người mà "bọn" tư bản dùng làm công cụ ru ngủ nhân dân lao động bằng cách khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực ở đời này rồi sẽ được đền bù một thiên đường ở kiếp sau để dễ bề bóc lột, trong khi chủ nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng thiên đường cộng sản ngay trên mặt đất này. Bởi vậy, cộng sản cho tôn giáo là một trở lực cần phải tiêu diệt. Tại Việt Nam có hai tôn giáo chính là Thiên chúa giáo và Phật giáo. Cộng sản gọi Thiên chúa giáo là Công giáo mà tiếng lóng của họ là "cứt gà", còn Phật giáo thì tiếng lóng của họ là "phân gà". Tại sao họ lại gọi là cứt gà và phân gà? Tức họ cho Công giáo khó tiêu diệt hơn Phật giáo. Họ phân tích rất kỹ và vì nhiều lý do, nhưng quá dài không thể kể hết ra ở đây, tôi chỉ tóm tắt sự phân tích của họ như sau: cộng sản đánh giá Công giáo tuy là số ít, nhưng là những con sư tử, khó tiêu diệt, cũng như cứt gà sáp (cứt gà ướt sền sệt) đã dính vào quần áo thì chỉ còn cách cắt bỏ chỗ ấy đi thôi, chứ giặt khó sạch lắm ; còn Phật giáo tuy là số nhiều, nhưng chỉ là những con cừu, dễ tiêu diệt, cũng như phân gà khô, chỉ cần gạt một cái là sạch! Nhưng dù khó hay dễ thì cuối cùng cũng phải tiêu diệt. Nhưng cách thức tiêu diệt thì tùy từng giai đoạn, tùy từng nơi chỗ. Người cộng sản có đường lối gọi là "biện chứng", nghĩa là mục tiêu họ đã đặt ra là phải đạt cho bằng được ; nhưng trên đường đi đến mục tiêu ấy mà êm xuôi thì đi đến ngay, còn nếu gặp trở ngại thì tạm thời dừng lại, nếu cần phải lùi thì lùi, cần phải rẽ ngang cũng rẽ ngang, nhưng cuối cùng vẫn phải đạt mục tiêu, châm ngôn của họ là "lùi một bước tiến ba bước". Đối với việc tiêu diệt các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, cũng vậy, nếu nơi nào xóa bỏ được ngay mà không gặp chống đối hoặc phản ứng bất lợi, thì họ làm ngay, nếu thấy trở ngại thì họ ngưng lại. Không những ngưng lại, mà nếu xét thấy tôn giáo trong giai đoạn ấy có lợi cho cộng sản thì họ lại lợi dụng tôn giáo tối đa. Trong chủ trương tiêu diệt Phật giáo Việt Nam cũng không ngoài đường lối ấy. Chẳng hạn, trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cộng sản Việt Nam cần phải đoàn kết toàn dân, hơn nữa, cũng chưa rảnh tay để nghĩ đến việc tiêu diệt Phật giáo, cho nên họ lại lợi dụng Phật giáo bằng cách lập ra cái gọi là Phật Giáo Cứu Quốc nằm trong mặt trận Liên Việt. Lúc đó "sư cụ" Phạm Thế Long trụ trì chùa Cổ Lễ tại phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, đưa ra lời kêu gọi thanh niên tăng "Tạm xếp cà sa khoác chiến bào", nghĩa là hãy tạm thời cởi bỏ áo nhà tu để đi cầm súng giết Tây. Thế là hàng loạt sư trẻ bỏ chùa bỏ Phật để đi "yêu nước". Đây là chính sách dùng một mũi tên bắt hai con chim một lúc: trước mắt có thêm người cầm súng, đồng thời, lại được cái lợi (mà cái lợi này mới là chủ yếu) là tiêu diệt mầm non của Phật giáo trong tương lai! Mà lại dùng chính sư ra lời kêu gọi để tiêu diệt mầm non Phật giáo mới hợp thức, ai trách được cộng sản bắt sư đi lính! Điều đó cũng dễ hiểu thôi: nếu muốn bắt cò thì phải dùng con cò làm chim mồi, muốn bắt cu thì phải dùng con cu làm chim mồi, chứ nếu muốn bắt cò mà dùng cu làm chim mồi thì bắt sao được. Lại nữa, xét thấy những ngôi chùa lịch sử danh tiếng, điển hình như chùa Thiên Trù (chùa Hương - chùa ngoài) ở huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Đông, chùa Quỳnh Lâm tại làng Cổ pháp xưa (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) do Thiền sư Định Không (729-808) sáng lập vào khoảng năm Trinh Nguyên đời Đường bên Tàu, cộng sản thấy sau này, khi đã thành công, khó mà tự mình ra tay phá được vì sẽ có ảnh hưởng rất lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện. Cộng sản bèn đưa quân lính đến đóng tại các chùa đó, treo cờ đỏ sao vàng lên, máy bay thám thính của Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh đã rút trước rồi), thế là chùa tan nát! Trong trường hợp này cũng lại một mũi tên bắt hai con chim: một mặt kích động lòng căm thù của nhân dân, lên án giặc Pháp phá chùa và kêu gọi toàn dân hết lòng đánh Pháp ; mặt khác, sau này, khi thành công rồi khỏi phải phá để tránh tiếng cộng sản phá chùa lịch sử danh tiếng! Tôi cảm thấy xót xa vô hạn khi đến nhìn lại nền chùa Quỳnh Lâm nơi thờ pho tượng là một trong "Việt Nam tứ khí" do Thiền sư Không Lộ, Quốc sư đời Lý, kiến tạo. Tôi đến đây vào cuối năm 1991. Nghe người ta kể lại, sau khi Pháp dội bom phải mất hơn một tháng trời mới cháy hết ngôi chùa. Hiện còn lại những cái tảng đá chân cột rất lớn, chứng tỏ những cây cột gỗ lim ngày xưa phải đến một vòng tay người ôm ; một vài ngôi tháp đá không bị cháy. Sau ngày cải cách tố khổ, những gạch của chùa của tháp còn sót lại được dùng để xây nhà nuôi lợn của Hợp tác xã ngay trước cửa chùa cũ. Sau ngày "đổi mới", Hợp tác xã giải thể, nhà nuôi lợn đã được bán đấu giá. Tôi thấy một vài tấm bia đá đổ úp xuống đất, nhờ người lật lên xem thì thấy khắc Pháp danh của mấy vị Tăng thống đời Trần. Ngày tôi đến đây, sau sáu năm đổi mới, dân chúng địa phương đã góp sức làm được ba gian nhà gạch sơ sài trên nền chùa cũ để thờ Phật. Hiện có một vị sư trụ trì, vị sư duy nhất tại tỉnh Quảng Ninh, nhưng cũng là người Hà Nam Ninh lên, chứ ở địa phương không còn sư nữa. Tôi được biết hầu hết các tỉnh trên Việt Bắc không còn chùa còn sư nữa. Ngay tại tỉnh Thái Bình chỗ tôi ở, cả tỉnh cũng chỉ còn tám vị sư tăng già tuổi, từ bảy mươi trở lên và mấy chục sư ni vừa già vừa trẻ. Sau khi về Vũ Đoài được vài tuần, tôi nghe bộ Văn Hóa của nhà nước cộng sản Việt Nam đã xếp hạng chùa Quỳnh Lâm vào hàng "di tích lịch sử" có cấp bằng và tổ chức rước hẳn hoi. Còn gì nữa đâu mà di tích với lịch sử! Đến ngay cái nền nhà nuôi lợn Hợp tác xã trước cửa chùa cũng chẳng còn! Chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử bị đốt cháy, chùa Phật Tích ở Bắc Ninh xây dựng ở đời Lý cũng đã bị phá hủy. Chùa Thầy ở huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nơi thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, cũng được xây dựng vào đời Lý, đang trong tình trạng xuống cấp nặng nề, ngôi nhà Tổ phải chống đỡ bằng nhiều cây tre, chưa biết sẽ sụp đổ lúc nào. Chùa Pháp Vũ (chùa Đậu) ở phủ Thường Tín tỉnh Hà Đông, nơi có nhục thân (xác khô) của hai vị Thiền sư đời Lê, một vị đã bị cưa trán ra để khám nghiệm! Chùa chính đã bị phá, còn ngôi bái đường và nhà tổ trong tình trạng xuống cấp. Chỉ có chùa Thiên Trù và chùa Quỳnh Lâm là mỗi chùa có một vị sư, còn các chùa kia không có sư. Những chùa được xếp hạng di tích lịch sử do ti Văn hóa địa phương quản lí. Du khách đến tham quan hoặc khách hành hương phải mua vé vào cửa và trả tiền bến đậu xe. Hôm đoàn chúng tôi đến lễ, đậu xe chưa đến nửa giờ mà phải trả năm nghìn đồng. Diệt Phật, đồng thời, bán Phật! Trên đây là mấy ngôi chùa điển hình mà tôi đã đến tận nơi thấy tận mắt và kể lại sơ qua thế thôi, chứ nếu đi sâu vào chi tiết thì còn nhiều điều thương tâm lắm, việc ấy để cho các nhà viết sử Phật giáo sau này. Đến năm 1954, cộng sản về tiếp thu Hà Nội, đã hoàn toàn làm chủ miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, bắt đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản, nhất là sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, cải cách tố khổ, thì ở nông thôn, việc phá chùa đình miếu mạo không còn phải e ngại gì nữa. Nhiều đình chùa bị trưng dụng làm nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ, hoặc phá đi lấy gạch, gỗ để làm nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn v.v... của Hợp tác xã ; cột đình cột chùa bằng gỗ lim đưa ra bắc cầu qua các rạch nước ở ngoài đồng cho những người gánh phân gánh lúa đi qua ; các tấm gỗ câu đối sơn son thếp vàng thì dùng đóng ghế dài cho học sinh ngồi học, úp mặt chữ xuống dưới. Đó là ở nông thôn, còn ở thành thị thì chùa được trưng dụng làm cơ sở sản xuất công nghệ, làm trụ sở Ủy ban, làm nơi hội họp, cũng có chỗ làm nhà chăn nuôi. Và để thế tục hóa, chùa nào có sư ở thì dân chúng vào chiếm các nhà phụ cận của chùa để ở, chỉ trừ chùa và nhà Tổ là để cho sư, còn các nhà họ chiếm hết. Họ nấu nướng, ăn uống, phơi áo quần chăn mền, nhìn vào không còn gì là vẻ tôn nghiêm của ngôi chùa nữa. Tôi còn nhớ năm 1975, Hòa thượng Thích Đôn Hậu về chùa Ần Quang kể lại tình trạng chùa Quán Sứ tại Hà Nội, dân chúng vào ở đầy trong chùa, hệt như dãy chung cư, chứ không còn là chùa nữa. Rồi Hòa thượng kể Hòa thượng có nói với sư cụ Trí Độ như sau: "Cụ ở đây mà để cho ngôi chùa thế này à?". Sau đó Hoà thượng Đôn Hậu kể tiếp, tại một cuộc họp ở Liên minh Dân chủ Dân tộc và Hòa bình do ông Trịnh Đình Thảo chủ tọa, trong bài phát biểu của mình, sư cụ Trí Độ nói: "Từ ngày được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường, tôi mới thấy rõ con đường mình đi!". Thì ra hàng mấy chục năm xuất gia theo Phật, sư cụ vẫn đi trong đêm tối ; nhưng đến ngày đó và mãi cho đến lúc chết, tuy không mặc áo Phật, mà mặc áo cộng sản, nhưng sư cụ vẫn cứ ở chùa và ăn cơm Phật! Khi nghe sư cụ Trí Độ nói thế, một bà Phật tử trước là hiệu trưởng trường Đồng Khánh (bà Nguyễn Đình Chi) ở Huế, cũng ra "bưng" năm Mậu Thân (1968), tỏ vẻ khinh thị. Rồi đến bữa ăn, bà này đến chỗ Hòa thượng Đôn Hậu xin một món ăn chay, vì bà ăn mười ngày chay mỗi tháng, mà ngày hôm ấy là ngày 15 ; một cán bộ nói với bà: "Chị đã đi làm cách mạng mà ăn chay làm gì? Sư cụ Trí Độ kia có kiêng gì đâu?". Bà ta trả lời: "Trước đây tôi đã qui y Phật và tự nguyện sẽ ăn chay mười ngày, chứ Phật không bắt buộc. Đã tự nguyện như thế mà không giữ thì tức tôi đã phản bội chính tôi, vậy là một Phật tử xấu. Và đã là một Phật tử xấu thì làm sao trở thành người cách mạng tốt cho được". Người cán bộ kia phải xin lỗi. Tóm lại, các chùa đều bị trưng dụng để làm cơ sở này cơ sở khác, còn không thì cho người tại gia vào ở làm mất vẻ tôn nghiêm của chùa và thế tục hóa dần dần. Về các cơ sở vật chất thì phá hoại bằng những cách như trên, còn đối với cơ cấu tổ chức của giáo hội thì cộng sản dùng thủ đoạn quen thuộc là "gậy ông đập lưng ông", nghĩa là dùng tăng ni chia rẽ tăng ni để phá hoại nội bộ giáo hội. Trước năm 1954, Hòa thượng Thích Tố Liên là Trị sự trưởng lãnh đạo Giáo hội Phật giáo miền Bắc nằm trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc, gồm sáu tập đoàn Tăng già và Cư sĩ Bắc Trung Nam. Tổng hội Phật giáo Việt Nam là thành viên sáng lập của hội Phật giáo thế giới. Năm 1957, một số tăng ni hoặc bị hăm dọa, hoặc vì sợ hãi, hoặc cũng có những người vì động cơ danh lợi thúc đẩy, nên đã họp nhau tại chùa Quán Sứ để tố khổ Hòa thượng Thích Tố Liên (ta còn nhớ trong thời cải cách tố khổ, con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy, tín đồ tố sư, tố Linh mục, anh em họ hàng tố lẫn nhau. Bây giờ đến lượt tăng ni tố tăng ni! "văn hóa" cộng sản là thế đó!), rồi đem chùa Quán Sứ hiến cho "Phật giáo cứu quốc", mời sư cụ Trí Độ về ở chùa Quán Sứ và thành lập hội Phật giáo mới là Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam do cụ Trí Độ làm Hội trưởng, thế là Giáo hội Phật giáo truyền thống tại miền Bắc tan rã. Hai mươi bốn năm sau (1957-1981) họ cũng làm hệt như vậy đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại miền Nam (sẽ nói sau). Về mặt tinh thần thì phá hoại bằng cách chùa nào cũng phải nuôi lợn nghĩa vụ, thậm chí các sư giết lợn gà là thường. Nuôi lợn là để phá bầu không khí thanh tịnh trang nghiêm của cảnh chùa, giết lợn giết gà là hủy hoại tinh thần từ bi và giới sát của đạo Phật để thế tục hóa đạo Phật, đó là cách tiêu diệt đạo Phật nhanh nhất. Trước năm 1954, chùa Quán Sứ là trụ sở Trung ương của Giáo hội Phật giáo miền Bắc, trong đó có viện Phật học đào tạo tăng ni, trường trung học Khuông Việt dạy chương trình thế học, nhà in Đuốc Tuệ in Nguyệt san Phương Tiện và kinh sách, có thư viện v.v..., nhưng sau khi cộng sản tiếp thu Hà Nội thì Viện Phật học phải giải tán để tăng ni ở đâu về đó lo việc tăng gia sản xuất, trường Trung học Khuông Việt đóng cửa, thư viện khóa kín, Nguyệt san Phương Tiện đình bản và nhà in Đuốc Tuệ bị chiếm dụng. Nghĩa là tất cả mọi hoạt động của Giáo hội hoàn toàn bị đình đốn, hệt như trong miền Nam năm 1975. Bây giờ Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam về đóng đô ở chùa Quán Sứ đã làm được những gì cho Phật giáo miền Bắc? Phải trả lời ngay là chẳng làm được gì cả. Tại sao? Bởi vì chủ trương của cộng sản là tiêu diệt Phật giáo trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn, như vậy làm sao họ để cho Hội Phật giáo hoạt động được? Hơn nữa, như lời Hòa thượng Thích Đôn Hậu kể mà tôi vừa nhắc lại ở trên, cụ Trí Độ được ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường cụ mới thấy rõ đường đi, thì dĩ nhiên bây giờ cụ phải đi con đường sáng của cụ để truyền bá chủ nghĩa Mác, chứ cụ đâu có làm gì cho Phật giáo nữa. Còn cái Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam của cụ chẳng qua chỉ dùng để phục vụ đường lối chính trị của đảng cộng sản Việt Nam bằng cách thỉnh thoảng đi dự một vài hội nghị về hòa bình do phe cộng sản quốc tế tổ chức họp tại Liên xô, Mông Cổ để lên án giặc Mỹ xâm lược, đồng thời, cũng để cho miền Nam và thế giới biết, dưới chế cộng sản miền Bắc, tôn giáo vẫn được tôn trọng, thế thôi, chứ thực chất thì Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam của cụ Trí Độ chẳng làm gì cho Phật pháp, nếu không nói là ngồi làm bù nhìn để hợp thức hóa cho việc cộng sản tiêu diệt Phật giáo. Không phải tôi nói ngoa đâu, lịch sử còn đó. Xuất phát từ âm mưu tiêu diệt Phật giáo ngắn hạn cũng như trong dài hạn, từ năm 1954 trở đi, cộng sản chỉ cho mỗi chùa một sư già ở làm chủ hộ, còn sư trẻ (nếu có, hiếm lắm ) phải về quê cũ sản xuất làm ăn. Sau khi sư già chết, không ai kế tiếp, chùa bỏ không, nếu ở thành thị thì bị trưng dụng làm cơ sở sản xuất, còn ở nông thôn thì ủi bằng đi để làm ruộng cấy lúa. Giả sử (hiếm lắm) có ai muốn đi tu thì phải làm đơn và khai lí lịch nộp cho công an, với lí do nhà nước chọn công dân tốt cho đi tu để ích đạo lợi đời, nhưng có người chờ đến già mà vẫn chưa được phép! Vì Hiến pháp nhà nước cộng sản có điều khoản "tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng" (một cách chơi chữ), vậy người có tín ngưỡng muốn đi tu, chẳng lẽ lại nói huỵch toẹt ra rằng anh hay chị không được phép đi tu à? Thôi thì nại lí do "chọn công dân tốt ích đạo lợi đời" để ngăn chặn là hợp hiến hợp pháp nhất! Tôi nghe người ta kể lại thị xã Thái Bình có mấy người xin đi tu, chờ đợi đã lâu mà chẳng được phép, bèn tổ chức "thụ giới chui" ở một chùa nọ bị công an đến tóm cổ hết! Dưới chế độ cộng sản tất cả thượng vàng hạ cám đều do nhà nước quản lí, nếu tư nhân muốn làm gì riêng phải làm lén lút, họ gọi là "làm chui" như những người vượt biên gọi là đi chui, bán phở lén gọi bán chui, rồi đến đi tu cũng thụ giới chui! Những người muốn xuất gia làm tăng ni thì như thế. Còn thanh thiếu niên nam nữ ngoài đời thì đoàn thể nào vào đoàn thể ấy rồi, nếu em nào lai vãng đến chùa thì bị đoàn thể phê bình chế giễu, vì thế chẳng em nào dám bén mảng đến chùa ; câu "Trẻ vui nhà già vui chùa" được ứng dụng một cách triệt để. Như thế là ngoài đời cũng vậy, chỉ còn một số rất ít các cụ già trầu móm mém hơn bảy tám mươi thuộc lớp người cũ còn lại là được tự do tín ngưỡng đến chùa, những người ấy qua đời rồi thì tín đồ tại gia cũng hết! Một em bé trai mười hai tuổi ở thị xã Thái Bình chỉ thích đi tu, em thường đến chùa Kỳ Bá tụng kinh, có khi ở lại chùa mấy hôm liền. Tối đến công an vào chùa đuổi, em chui vào gầm giường hoặc trèo lên cây để trốn. Sau nhiều lần như thế, bố mẹ em được gọi lên ty công an bảo phải đến chùa bắt em về và ra lệnh cho sư già ở chùa không được chứa chấp, nếu không nghe sẽ bị "xử lí". Đó là âm mưu tiêu diệt mầm non của Phật giáo và cộng sản hy vọng trong vòng năm mươi năm là Phật giáo sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn trên cả nước. Nhưng người xưa đã nói "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", người Tây phương cũng có câu tương tự: "Man proposes, God disposes", nghĩa là con người mưu tính là một chuyện, nhưng nên việc hay không thì lại do trời. Mà thực vậy, bức tường Bá Linh đã sụp đổ, khối cộng sản Đông âu và Liên xô đã tan rã, cộng sản Việt Nam không còn đủ thì giờ để thực hiện được việc đó nữa đâu. Thời đại "nhất đội nhì trời" không còn nữa và chủ nghĩa duy ý chí "Thằng trời đứng ra một bên, để cho thủy lợi tiến lên thay trời" cũng chẳng còn giá trị gì nữa. Khối cộng sản Liên xô sụp đổ cũng chỉ vì thái độ kiêu căng ngạo mạn và ngông cuồng ấy. Nhà sử học Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ năm trước tây lịch là ông Herodotus đã nói: "Vận mệnh của một chế độ chia làm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là thành công, giai đoạn thứ hai là kiêu căng, giai đoạn thứ ba là sụp đổ". Đến năm 1975, cộng sản toàn thắng miền Nam về tiếp thu Sài gòn. Đối với Phật giáo, đại khái cộng sản cũng làm y hệt như ngoài miền Bắc, nghĩa là cũng chiếm dụng các chùa, các cơ sở giáo dục, văn hóa, như các trường Trung tiểu học Bồ đề, viện Đại học Vạn Hạnh, các Trung tâm văn hóa, từ thiện xã hội từ Trung ương đến các địa phương trên toàn miền Nam, tất cả đều bị chiếm dụng vào các mục đích đại để cũng như ngoài miền Bắc. Các viện Phật học phải giải tán để tăng ni sinh về quê sản xuất, các chùa chỉ để một vài sư già, sư trẻ phải đi nghĩa vụ hoặc về quê làm ruộng, đại khái cũng hệt như ngoài miền Bắc. Về cơ cấu tổ chức của Phật giáo thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) là đối tượng chính mà cộng sản, bằng mọi cách, phải triệt hạ cho bằng được và, dĩ nhiên, cũng dùng thủ đoạn gậy ông đập lưng ông. Nhưng thủ đoạn nầy chỉ áp dụng được với Phật giáo mà thôi, chứ không dùng được với Công giáo mà họ gọi là "cứt gà sáp" như đã nói ở trên. Trước hết, cộng sản đẻ ra cái gọi là "Ban liên lạc Phật giáo yêu nước" do sư cụ Minh Nguyệt làm trưởng ban, đặt trụ sở tại chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Công Lý Sàigòn. Đứng về phương diện luận lí mà nói, đã có phật giáo yêu nước thì tất phải có Phật giáo không yêu nước, hoặc nói theo ngôn ngữ của cộng sản là "Phật giáo phản động". Vậy cái Phật giáo phản động ấy là Phật giáo nào? Đích thị là GHPGVNTN rồi chứ còn ai nữa. Như vậy, theo chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp của đảng cộng sản thì, tất nhiên là Phật giáo yêu nước phải đấu tranh để tiêu diệt Phật giáo phản động. Oái ăm thay! Một đảng chính trị như đảng cộng sản Việt Nam, lúc nào cũng hô hào đoàn kết, đại đoàn kết, mà lại chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, thì đoàn kết làm sao? Thật là mâu thuẫn. Phật giáo Việt Nam có mặt trên đất nước này suốt dòng lịch sử trên dưới hai nghìn năm, đã cùng chung một vận mệnh thăng trầm vinh nhục, qua các thời đại, đã có lần nào Phật giáo phản bội dân tộc chưa, để giờ đây phải lập ra Phật giáo yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội để đấu tranh căm thù với Phật giáo phản động? Từ đó, cộng sản dùng các vị tăng "yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội" đi hăm dọa thúc ép tăng ni trong GHPGVNTN gia nhập Ban liên lạc Phật giáo yêu nước. Hai người hăng hái và đắc lực nhất trong việc này là sư cụ "nằm vùng" Pháp Lan và sư Từ Hạnh. Tuy bị hăm dọa, ép buộc, khủng bố, nhưng chỉ có một số rất ít tăng ni nằm vùng hoặc vì quá sợ hãi mà phải tham gia cho yên thân, còn tuyệt đại đa số tăng ni trong Giáo hội, từ Quảng Trị vào đến Cà mau, vẫn một lòng trung thành với Giáo Hội và kiên trì chịu đựng. Đến tháng 11 năm 1975, xẩy ra vụ tự thiêu tập thể của mười hai vị tăng ni ở Thiền viện Dược sư tại Rạch Gòi thuộc tỉnh Cần Thơ để phản đối cộng sản đàn áp Phật giáo. Mãi đến tháng 12 năm 1976 vụ ấy mới được báo cáo lên Giáo hội Trung ương. Viện Hóa Đạo GHPGVNTN gửi văn thư khiếu nại với nhà nước cộng sản, yêu cầu điều tra sự việc. Ông Mai Chí Thọ, lúc đó là Giám đốc sở Công an thành phố Sàigòn, đến chùa Ần Quang đề nghị Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra (xin nói lại ở đây là kể từ ngày 30-4-1975 đến hôm ấy, Viện Hóa Đạo đã gửi tất cả sáu mươi hai (62) văn thư lên nhà nước cộng sản phản đối và yêu cầu giải quyết các vụ bắt bớ tăng ni Phật tử và đập tượng phá chùa, lấy chùa làm nhà đở đẻ, nhưng không hề được trả lời. Đây là lần đầu tiên một thư khiếu nại của Viện Hóa Đạo được đáp ứng và dĩ nhiên họ đã sắp đặt như thế nào để có lợi cho họ rồi đó). Bấy giờ Thượng tọa Trí Tịnh đề nghị rằng sự việc xẩy ra đã hơn một năm rồi, thôi, xin bỏ qua! Nhưng cố Thượng tọa Thiện Minh, Thượng tọa Huyền Quang và tôi phản đối đề nghị ấy và yêu cầu Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra, Viện liền cử Đại Đức Hộ Giác và tôi đại diện Viện đi điều tra, nhưng sau Đ.Đ. Hộ Giác bận việc khác nên chỉ có tôi đi. Tất nhiên, như tôi vừa nói ở trên, mọi việc đã được nhà nước cộng sản sắp đặt cả rồi, đi điều tra chẳng qua chỉ là để hợp thức hóa cho cái kết quả mà họ đã định sẵn. Trong cuộc điều tra này, có ông Huỳnh Châu Sổ, Phó Thanh tra Trung ương từ Hà Nội vào, chủ trì cuộc họp. Ngoài ra có nhiều cán bộ địa phương, trong đó tôi để ý có một người to béo vạm vỡ, lúc nào cũng nhìn tôi trừng trừng với nét mặt hầm hầm dữ tợn, đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người ta, hình như để uy hiếp tinh thần tôi. Về giới sư thì có sư cụ Thiện Hào và sư Huệ Thành là thầy của Đại Đức Thích Huệ Hiền. Có một số "nhân chứng" được lựa chọn từ địa phương xẩy ra vụ tự thiêu được đưa lên ngồi sẵn đó. Sau ngày đầu làm việc tại thành phố Cần Thơ, tôi yêu cầu được về tận Thiền viện Dược sư cách thành phố Cần Thơ năm mười cây số để xem xét hiện trường, nhưng họ bảo là về đó không an ninh! Tôi nói bây giờ chính quyền cách mạng làm chủ cả nước còn ai làm gì nữa mà không an ninh?. Nhưng đó chỉ là cái cớ, chứ thực thì Thiền viện Dược sư đã bị san bằng và xới đất lên trồng chuối rồi. Sau khi mười hai tăng ni tự thiêu, cán bộ địa phương kéo mười hai cái xác ra để bên lề đường cho những người qua lại được thấy, sau đó hai ngày họ phun xăng vào đốt rồi tất cả phần còn lại của mười hai xác chết được dồn vào hai cái quan tài và họ đưa đi chôn ở đâu, không ai biết. Sau ba ngày làm việc, ông Huỳnh Châu Sổ đúc kết biên bản cuộc điều tra qua mấy điểm dưới đây: 1) Huệ Hiền (tức vị trụ trì Thiền viện Dược sư đứng đầu trong mười hai tăng ni tự thiêu) trước đây làm chỉ điểm (CIA) cho Mỹ Ngụy, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, y sợ bị cách mạng trừng trị nên đã tự tử và bắt mười một người khác chết theo y ; 2) Trước đây Huệ Hiền được Mỹ Ngụy cung cấp lương thực đầy đủ, nhưng nay thấy không còn phương tiện sinh sống nên phải tự tử tập thể. 3) Huệ Hiền đã dâm ô hủ hóa với mấy ni cô, sợ việc ấy đổ bể, nên y đã tự tử và đốt chùa cùng với mười một người khác. Các nhân chứng cũng nói hệt như vậy và nhất là sư Huệ Thành, thầy của Đ.Đ. Huệ Hiền cũng công nhận như vậy! Sau đó họ bảo tôi kí vào biên bản đúc kết ấy. Tôi nói tôi không kí, vì nội dung biên bản đúc kết hoàn toàn trái ngược với bức thư tuyệt mệnh của Đ.Đ. Thích Huệ Hiền đề ngày 29 tháng 9 năm Ầt Mão (2-11-1975) nên tôi không kí. Để chứng minh, tôi đọc nguyên văn bức thư tuyệt mệnh ấy như sau: Ngày 29-9 Ấm lịch 75Nam mô Đông phương Giáo chủ Lưu Ly Quang Như Lai tác đại chứng minh. Đệ tử chúng con xuất gia, Thiền viện Dược sư, kính dâng lên chư Phật Bồ tát Thánh hiền tăng lời tâm huyết phát nguyện của đệ tử tăng ni toàn chùa, thiêu thân ngày 29 tháng 9 năm Ầt Mão, tức ngày 2 tháng 11 năm 75. - Để bảo vệ tiền đồ Phật pháp, chánh pháp Như lai bất diệt ; - Để bảo vệ phẩm giá và đức hạnh người xuất gia trường cửu ; - Để bảo vệ ngôi Tam bảo Thiền viện Dược sư bất diệt ; - Tha thiết kêu gọi chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, Mặt trận giải phóng tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo đúng mức ; - Tha thiết kêu gọi tăng ni đồng bào Phật tử các giới Việt Nam thân yêu phải nhứt quyết nhứt tâm bảo vệ trái tim Bắc và Nam theo lời di chúc Hồ chủ tịch vĩ đại, Bắc và Nam chỉ một trái tim, nếu một ai xé nát trái tim người Việt Nam, không luận kẻ thù hay kẻ thân đều là phản bội lời di chúc của Bác Hồ chí minh vĩ đại. Kẻ ấy là nối giáo cho giặc, phản bội dân tộc cách mạng. - Lá cờ Phật giáo thế giới, GHPGVNTN tiêu biểu cho sáu hào quang chư Phật và Lục thông chư Phật bất diệt trường cửu ; Cầu nguyện độc lập tự do hòa bình trường cửu bất diệt. Sau đó, Đ.Đ. Thích Huệ Hiền ghi tên mười hai tăng ni do Đại Đức đứng đầu, phát nguyện tự thiêu vì bảy thỉnh nguyện kể trên và Đại Đức kết luận: - Chết vinh hơn sống nhục Chấp nhận chết bảo vệ lí tưởng Chấp nhận chết bảo vệ lương tâm Chấp nhận chết bảo vệ chân lí Đại diện tăng ni Trụ Trì Ần kýĐại Đức Thích Huệ Hiền Trên đây là bức thư tuyệt mệnh của Đ.Đ.Thích Huệ Hiền viết trước khi tự thiêu cùng với mười một vị tăng ni khác. Nội dung bức thư, như tôi đã nói trên, hoàn toàn khác với ba điểm đúc kết biên bản điều tra của ông Huỳnh Châu Sổ, do đó tôi đã không thể kí vào biên bản ấy. Họ giữ tôi lại thêm một ngày một đêm để làm áp lực buộc tôi phải kí, họ định dùng tôi để hợp thức hóa cho những điều dối trá của họ, nhưng tôi đã kiên quyết từ chối. Sau cùng họ thấy không lung lạc được nên đành phải đưa tôi về chùa Ần Quang. T.T. Huyền Quang và các sư thấy tôi về rất mừng, vì đã ba bốn hôm không thấy tôi về cũng lo. Cuộn băng ghi lại những điều tôi phát biểu trong cuộc họp điều tra thì họ tịch thu, không cho tôi mang về, viện lí do đó là "bí mật quốc gia"! Trong chuyến đi này, tôi được biết một số chi tiết nhỏ, nhưng mang một ý nghĩa quan trọng. Vào một buổi sáng, tôi vừa điểm tâm xong, một ông cán bộ vào chỗ tôi nói chuyện chơi trước khi ra phòng họp. Ông nói về việc phát triển đất nước, về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng ông nói: "Chúng tôi chưa phải là những người xây dựng chủ nghĩa xã hội chuyên môn, chỉ còn đang thực tập thôi, nhưng làm mãi cũng phải được. Cũng như người thợ mới tập đóng cái bàn (vừa nói ông vừa chỉ vào bàn ăn), đóng cái này chưa được thì đóng cái khác, cứ đóng mãi rồi cũng phải được". Tôi nghe mà giật mình, vì người cộng sản quan niệm việc quản lý một đất nước sao mà quá đơn giản! Đến tháng 2 năm 1982, cộng sản đưa tôi ra Bắc quản thúc tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, tôi mới nghiệm ra là lời nói của ông cán bộ kia quả đã đúng. Về nông nghiệp, như tôi đã nói ở phần 1, năm 1956, sau cuộc căm thù đấu tranh giai cấp, giết các địa chủ, đảng cộng sản chia ruộng cho dân làm chủ và lập Tổ đổi công làm lẫn cho nhau: đây là người thợ đóng cái bàn đầu tiên. Đến năm 1960, đảng bắt đầu góp hết ruộng vào Hợp tác xã lớn để làm chủ tập thể: đây là đóng cái bàn thứ hai. Đến năm 1980, thấy lối làm ăn tập thể thất bại, đảng đề ra chính sách khoán sản phẩm: đây là đóng cái bàn thứ ba. Đến năm 1985, chính sách khoán sản phẩm cũng chẳng ra gì, đảng bèn cho khoán trắng: đây là đóng cái bàn thư tư! Nhưng cái bàn thứ tư này lại càng méo mó, xấu xí hơn ba cái trước nhiều, vì nó đã quay 180 độ để trở lại chế độ phát canh thu tô của địa chủ ngày trước mà cộng sản đã giết! Thế mới vỡ lẽ họ chỉ mò mẫm gặp gì làm nấy, hễ được thì làm, hỏng thì bỏ. Chỉ khổ cho những người dân hiền lành đã phải làm vật hy sinh để cho một nhóm người thử nghiệm cái tư tưởng ngông cuồng và thiển cận của họ ; suốt một phần tư thế kỷ (1960-1985), đã phải đổ ra bao nhiêu của, sức lực và mồ hôi nước mắt để xây dựng Hợp tác xã làm chủ tập thể kiểu cộng sản, thì tất cả giờ đây đã bị phá toang. Đây tôi chỉ nói về nông nghiệp thôi, vì tôi sống ở nông thôn, còn các lãnh vực kinh tế cộng sản chỉ huy khác thì tôi không được biết. Nhưng chắc cũng thế thôi, bởi vì cái bàn đóng lần chót này cũng là cái bàn kinh tế thị trường tự do kiểu tư bản! Trở lại cuộc điều tra vụ mười hai tăng ni tự thiêu tại tỉnh Cần Thơ để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo, mà cộng sản định gán cho Đ.Đ.Thích Huệ Hiền tội làm chỉ điểm cho Mỹ Ngụy và tội hủ hóa để khiến cho cái chết của mười hai vị tăng ni trở thành vô nghĩa, nhưng mưu đồ ấy đã thất bại, vì tôi đã không kí vào biên bản đúc kết để hợp pháp hóa cho mưu đồ ấy của họ. Từ đó tình hình mỗi ngày một căng thẳng và ngày 3-3-1977 đã đến điểm cao nhất khi cộng sản đến chiếm dụng Cô Nhi Viện Quách Thị Trang ở đường Trần Quốc Toản (phía sau Việt Nam Quốc tự mà trước đó họ đã chiếm rồi và bây giờ một rạp chiếu bóng rất lớn đã được xây lên tại đó), giật tấm bảng mang danh hiệu GHPGVNTN và liệng xuống lề đường. Ngay 11 giờ hôm ấy, nhân danh Tổng Thư Kí Viện Hóa Đạo, tôi đã kí một thông tư kêu gọi tăng ni sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đạo pháp và danh dự của Giáo hội. Đến ngày 6-4-1977, T.T. Huyền Quang và tôi cùng một số vị khác bị bắt vào nhà tù Phan Đăng Lưu ở Bà Chiểu Gia Định. Ít lâu sau, tôi được biết cố T.T. Thích Thiện Minh cũng bị bắt và đã chết một cách bí ẩn tại sở công an Sài gòn ở đường Trần Hưng Đạo. Thật là đau đớn, xót xa. Đến ngày 10-12-1978, chúng tôi bị đưa ra tòa xét xử, T.T. Huyền Quang và tôi được tha về, còn các vị khác phải ở thêm mỗi người mấy tháng tù nữa. Sau khi được tha về, chúng tôi lại tiếp tục làm việc Giáo hội như cũ. Khoảng đầu năm 1980, lần đầu tiên cố Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, T.T. Trí Tịnh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự và TT. Minh Châu, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục, được nhà nước cộng sản mời với tư cách cá nhân đi dự cuộc "gặp mặt đầu năm", do ông Nguyễn Văn Linh, Bí Thư Thành ủy chủ trì. Ba vị về cho chúng tôi biết có cả Hòa thượng Thích Đôn Hậu và các vị đứng đầu các tổ chức Phật giáo trong cả nước cũng có mặt và mục đích cuộc họp mặt là bàn việc thống nhất Phật giáo Việt Nam. Tôi nghĩ hơi lạ, việc thống nhất Phật giáo mà sao ông Bí Thư Thành ủy của đảng cộng sản lại chủ trì cuộc họp bàn, thế đảng cộng sản còn kiêm cả Giáo hội nữa à? Sao mà tham thế? Nhưng lúc ấy chúng tôi nghe các vị thuật lại thì cũng chỉ biết thế thôi chứ không có ý kiến gì, bởi lẽ ba vị được mời dự họp với tư cách cá nhân chứ không liên quan gì đến Giáo hội. Từ đó trở đi, thỉnh thoảng ba vị lại đi họp rồi về trình bày lại với Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo các ý kiến trong cuộc họp và yêu cầu Viện Hóa Đạo cho biết ý kiến. T.T. Huyền Quang và tôi chủ trương chỉ khi nào Viện Hóa Đạo chính thức được mời và cử đại diện dự họp đường hoàng thì Viện sẽ có ý kiến ngay giữa cuộc họp, còn giờ đây ba vị đi họp với tư cách cá nhân thì Viện không dám lạm bàn. Vả lại, việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền, sao không để cho chư tăng Bắc, Nam họp lại với nhau bàn bạc, mà nhà nước lại can thiệp vào làm gì. Đất nước đã thống nhất, dĩ nhiên Phật giáo cũng mong được thống nhất, nhưng chúng tôi cho đó là việc của Phật giáo hai miền chứ không phải công việc của nhà nước. Về sau, cố Hòa thượng Trí Thủ được ai đó bầu làm Trưởng ban vận động Thống nhất Phật giáo, T.T. Trí Tịnh Phó trưởng ban và T.T. Minh Châu làm Thư kí. Từ đó ba vị đi họp luôn, có khi ra họp ngoài Hà Nội, và cứ mỗi lần đi họp về, các vị đưa vấn đề ra trước Viện Hóa Đạo xin góp ý kiến, chúng tôi vẫn không dám bàn đến, lí do là Viện Hóa Đạo có chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn việc thống nhất Phật giáo đâu, kể cả cái Ban vận động thống nhất Phật giáo do ai lập ra và lập ra tại đâu, Viện Hóa Đạo cũng không biết, thì làm sao Viện góp ý cho được. Thế rồi vào khoảng cuối năm 1980, văn phòng Viện Hóa Đạo nhận được một văn thư do cố Hòa thượng Trí Thủ ký tên với tư cách Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, xin đến thăm xã giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện và sẽ được tiếp đón vào ngày giờ nào. Tôi thảo văn thư phúc đáp là sẽ hân hạnh tiếp đón phái đoàn vào ngày giờ đó và xin cho trước một bản danh sách các thành viên và chức vụ trong phái đoàn để tiện việc sắp xếp. Hôm sau tôi nhận được bản danh sách từ chùa Xá Lợi gửi đến, gồm có: sư cụ Phạm Thế Long (ngày trước ngoài Bắc các sư đều lấy họ Thích, nhưng từ khi cộng sản cai trị, họ bắt phải gọi theo họ thế tục, cho nên mới là Phạm Thế Long. Còn chùa thì cũng được coi như một hộ, tức như một gia đình, chứ không gọi là chùa (đây cũng nằm trong âm mưu tiêu diệt Phật giáo dần dần), người mà ba mươi năm về trước (1945-1980) đã từng kêu gọi thanh niên tăng miền Bắc lúc bấy giờ là "hãy tạm xếp cà sa khoác chiến bào", hiện là Phó chủ tịch Quốc hội cộng sản, làm Trưởng đoàn, cố Hoà thượng Trí Thủ Phó trưởng đoàn, T.T. Trí Tịnh đoàn viên, T.T. Minh Châu đoàn viên, Đ.ĐTừ Hạnh (cựu Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định) đoàn viên. Khi nhìn qua danh sách của phái đoàn Ban vận động thống nhất Phật giáo đến thăm "xã giao" Viện Hóa Đạo, tôi cứ cười thầm một mình và liên tưởng đến hai câu thơ đầu trong bài thơ "Nói chuyện với ảnh" của nhà thơ Tản Đà: Người đâu cũng giống đa tìnhNgỡ là ai lại là mình với ta... Vì trong bản danh sách, trừ cụ Phạm Thế Long ra, còn đều là người "trong nhà", và cái "tréo cẳng ngỗng" đến mỉa mai ở đây là các vị "chủ nhân ông" đã tự biến mình thành những người khách xa lạ về "thăm xã giao" nhà mình! Đúng ngày giờ đã định, phái đoàn đến Viện Hóa Đạo, T.T. Huyền Quang, T.T. Pháp Tri và tôi tiếp phái đoàn. Sau khi nghi thức giới thiệu, sư cụ Phạm Thế Long đứng lên nói: "Thưa qúi vị! Hôm nay phái đoàn Ban vận động thống nhất Phật giáo chúng tôi đến đây, trước hết, để thăm Tổ đình Ần Quang và tăng ni chùa Ần Quang, cầu chúc quí vị dồi dào sức khoẻ và đạt nhiều thành tích tốt đẹp. Sau xin thưa để quí vị rõ là Đảng chủ trương đất nước đã thống nhất, thì Phật giáo cũng phải thống nhất. Vậy mục đích chúng tôi đến đây hôm nay, như vừa nói ở trên để thăm Tổ đình Ần Quang và cũng để xin quí vị góp ý kiến cho việc thống nhất Phật giáo mà sẽ là ngôi nhà chung cho Phật giáo cả nước". Khi cụ Phạm Thế Long dứt lời, ngồi xuống, tôi gọi thư kí đưa ra hai văn thư của Ban vận động thống nhất Phật giáo xin đến thăm xã giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm trong Viện, và văn thư của Văn phòng Viện Hoá Đạo trả lời định ngày giờ đón tiếp phái đoàn như đã nói ở trên. Tôi đọc lại hai văn thư thật rõ ràng, rồi nói: "Thưa phái đoàn, theo tinh thần nội dung văn thư của Ban vận động thống nhất Phật giáo như tôi đã đọc thì hôm nay phái đoàn đến đây là để thăm xã giao Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện. Song, như cụ Trưởng đoàn vừa nói, thì các vị đến đây là để thăm Tổ đình Ần Quang và tăng ni chùa Ần Quang để hỏi ý kiến về việc thống nhất Phật giáo, chứ có thăm Viện Hóa Đạo đâu? Vậy, Văn phòng của Tổ đình Ần Quang ở đầu ngõ vào, mời quí vị ra ngoài đó, chứ đây là Văn phòng của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN". Nói xong, tôi mời T.T. Huyền Quang và T.T. Pháp Tri giải tán. Bấy giờ tôi mới thấy cái "lắt léo" và "lật lờ đánh lận con đen" của sư cụ cộng sản: khi muốn đến thăm thì nói thăm ông A, nhưng khi đến nơi thì lại bảo thăm ông B! Có gì đâu, thâm ý của sư cụ nhà ta là cố tình tránh né, không thừa nhận tính hợp pháp của GHPGVNTN, thế thôi. Nhưng nếu hôm ấy mà chúng tôi góp ý kiến thì về sư cụ lại tuyên bố đó là ý kiến của GHPGVNTN! Thấy tình hình không êm xuôi, cụ Phạm Thế Long định "lùi một bước" để rồi sẽ "tiến ba bước" bằng cách đứng lên chắp tay xin sám hối và xác nhận lại là phái đoàn đến thăm Viện Hóa Đạo và các vị giáo phẩm của Viện đúng như nội dung văn thư. Lúc đó tôi mới mời T.T. Huyền Quang và T.T. Pháp Tri ngồi lại tiếp Phái đoàn. Thượng tọa Huyền Quang phát biểu: "Quí Ngài là những người đề xướng việc thống nhất theo chủ trương của Đảng muốn thống nhất Phật giáo, quí ngài là những kiến trúc sư của ngôi nhà Phật giáo cả nước, vậy quí ngài đã có đồ án nào chưa? Kiểu mẫu ngôi nhà ấy như thế nào? Tuy nhiên, theo như lời Hòa thượng Thích Đôn Hậu kể lại, thì Giáo hội chúng tôi khó có vinh dự được sống chung trong ngôi nhà Phật giáo cả nước ấy. Vì khi Hòa thượng chúng tôi có lần bàn với ông Nguyễn Văn Hiếu, lúc đó Bộ trưởng Văn hóa của chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, xin thống nhất Phật giáo cả nước, thì ông Bộ trưởng trả lời Hòa thượng chúng tôi rằng: "Thống nhất thì tốt, nhưng thống nhất các tổ chức Phật giáo yêu nước, chứ thống nhất làm gì với Phật giáo phản động?". Hòa thượng chúng tôi hỏi: "Phật giáo phản động là Phật giáo nào?". Ông Bộ trưởng không trả lời. Như vậy, chắc nhà nước muốn ám chỉ Giáo hội chúng tôi là phản động, không được dự phần vào việc thống nhất Phật giáo cả nước, nên chúng tôi không dám đóng góp ý kiến". Khi H.T. Huyền Quang dứt lời, tôi nói: "Mấy chục năm qua, quí vị ở ngoài Bắc may mắn được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, chắc quí vị đã làm được rất nhiều việc cho Phật pháp ngoài ấy, còn tại miền Nam này chúng tôi phải sống trong chiến tranh, lại bị kìm kẹp, đàn áp, nên chẳng làm được bao nhiêu Phật sự. Mà có làm được chút nào thì nhà nước cũng trưng dụng cả rồi. Như quí vị chắc đã thấy, các trường Trung Tiểu học Bồ Đề, viện Đại học Vạn Hạnh, các Trung tâm văn hóa và các cơ sở từ thiện xã hội từ Trung ương đến các địa phương đều đã phải giao cho nhà nước. Các Phật học viện thì phải giải tán cho tăng ni sinh ở đâu về đó lo việc sản xuất, thành thử bây giờ Giáo hội chẳng còn gì cả. Cho nên, nếu được vinh dự thống nhất với quí vị thì cũng chỉ với hai bàn tay không thôi. Như vậy, ai cần thống nhất với ai?". Lúc đó đã đến giờ ngọ trai, chúng tôi mời phái đoàn ở lại dùng cơm trưa, vì chúng tôi đã chuẩn bị cả rồi. Thế là cuộc thăm xã giao và hỏi ý kiến cũng chẳng mang lại kết quả gì. Từ đó, cố H.T. Trí Thủ, các T.T. Trí Tịnh, Minh Châu trong Ban vận động thống nhất Phật giáo tiếp tục vận động, tiếp tục đi họp, và mỗi lần đi họp về, các vị lại thúc ép T.T. Huyền Quang và tôi gia nhập thống nhất. T.T. Huyền Quang và tôi chủ trương một cách cương quyết là GHPGVNTN phải chính thức được mời dự họp, họp với ai, ai đứng ra tổ chức họp để bàn việc thống nhất Phật giáo, thống nhất trên cơ sở nào, theo hình thức nào, cơ cấu tổ chức ra sao, và sau khi thống nhất rồi, thì các tổ chức Phật giáo trước kia, không riêng gì GHPGVNTN, mà các tổ chức của các giáo phái khác đều xóa bỏ hẳn, hay còn được giữ lại dưới một hình thức nào đó để lo những sinh hoạt nội bộ, đó là những điều Giáo hội cần phải biết rõ, cần phải bàn cho thấu đáo trước khi thống nhất hoàn toàn, chứ không thể cứ nói thống nhất một cách khơi khơi như vậy được. Kết luận, chúng tôi cùng đưa ra một ý kiến: "Ngôi nhà GHPGVNTN đây là do tăng ni miền Nam, từ Quảng Trị đến Cà Mau xây dựng nên với sự đóng góp xương máu, nước mắt của toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam, họ không thể tất cả tập trung về đây để trông nom ngôi nhà ấy được, nên họ nhờ quí vị và chúng tôi trông nom giữ nhà giùm họ. Nếu bây giờ vì một lý do nào đó, quí vị thấy không thể tiếp tục giữ nhà giùm họ nữa, thì quí vị phải gọi họ về mà trả nhà lại cho họ để họ quyết định, nếu họ muốn giữ lại nhà, thì họ sẽ nhờ người khác, còn nếu họ muốn bán hoặc cho ai thuê thì đó là quyền của họ, chứ quí vị cũng như chúng tôi ở đây không ai có thẩm quyền quyết định việc này. Nói cách khác, Hiến chương Giáo hội đã qui định, Đại hội Giáo hội thường niên là hai năm một kỳ, nhưng khi có vấn đề liên quan đến sự tồn vong của Giáo hội, thì phải triệu tập Đại hội bất thường để giải quyết, chứ Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không có quyền quyết định. Bây giờ đây chính là lúc có liên quan đến sự tồn vong của Giáo hội, vậy xin Hòa thượng Viện trưởng thay mặt Đức Tăng Thống, triệu tập Đại hội bất thường để Đại hội quyết định vấn đề này". Sau đó ít hôm, tôi nhận được văn thư của sở Công an thành phố mời ra gặp ông Quang Minh (xin nói nhỏ ở đây là tại đất nước Việt Nam độc lập tự do hạnh phúc này, ai nhận được thư sở công an mời là "dựng tóc gáy" rồi đó). Riêng tôi đã có "vinh dự" được nhiều lần như vậy. Khi tôi đến nơi, sau vài câu nói xã giao, ông Quang Minh bảo "Đảng" cần thống nhất Phật giáo trong lúc này và buộc tôi phải đồng ý (tất nhiên với giọng hăm dọa quen thuộc). Tôi nói tôi cũng đã được nghe sư cụ Phạm Thế Long nói tại chùa Ần Quang như vậy, rồi tôi đưa Hiến chương Giáo hội ra trình bày cũng như tôi vừa nói ở trên, phải do Đại hội quyết định chứ không có cá nhân hoặc một nhóm người nào quyết định được. Và tôi, yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường. Tôi nói rõ bình thường thì mỗi tỉnh cử năm đại biểu hoặc ba, nhưng trong tình hình hiện nay, tôi chỉ yêu cầu cho mỗi tỉnh cử một vị Chánh đại diện, nếu Chánh đại diện đau ốm, thì vị Phó hoặc Thư Kí, hay bất cứ ai trong ban đại diện đi thay cũng được. Rồi tôi nói với ông Quang Minh thông cảm vì chúng tôi phải làm theo đúng nguyên tắc Hiến chương mà chắc ông làm hành chính thì cũng thế thôi. Nhưng ông Quang Minh bảo không còn thì giờ nữa! Tôi nói việc thống nhất Phật giáo chứ đâu phải là việc hành quân mà gấp rút như vậy. Ông Quang Minh bảo tôi nguyên văn như sau: "Tính ông thì chỉ thích làm anh hùng!". Tôi nói: "Tôi là một nhà sư tu hành mà anh hùng cái nỗi gì, anh hùng rơm ấy à?" Ông Quang Minh nói: "Sư thứ dữ chứ phải sư vừa đâu!". Tôi đứng dậy chào ông và "thong thả" ra về. Đến khoảng tháng 9 năm 1981, cố H.T. Trí Thủ, với danh nghĩa Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại diện Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp tại Hà Nội vào cuối năm đó. Tôi đề nghị nhà nước đã không cho triệu tập Đại hội bất thường thì bây giờ phải triệu tập Hội đồng Viện Hóa Đạo gồm mười một quận Giáo hội Đô thành để thông báo cho họ biết về việc này. Cố Hòa thượng Trí Thủ đồng ý. Hôm sau tôi gửi văn thư mời các vị trong Ban Đại diện Giáo hội của mười một quận về chùa Ần Quang họp. Hình như họ đã đoán trước được là cuộc họp này rất quan trọng nên họ về dự rất đông, không những chỉ có các vị Đại diện chính thức của mười một quận, mà còn có cả tăng ni về dự thính, ngồi chật giảng đường, đứng ngoài sân và trên các hành lang trong chùa. Cố H.T. Trí Thủ chủ tọa cuộc họp (xin nhắc lại, với tư cách Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo thì ngài là khách, nên lần trước ngài đã về "thăm xã giao" nhà Ngài. Nhưng hôm nay với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Đạo nên Ngài chủ tọa cuộc họp). Với tư cách Tổng thư kí Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi đứng lên tuyên bố rõ lý do triệu tập cuộc họp. Trước hết, tôi đọc lại các văn thư mà Viện Hóa đạo đã gửi ra phủ Thủ tướng tại Hà Nội nói rõ quá trình thành lập Giáo hội và các cơ cấu tổ chức cùng các hoạt động của Giáo hội tại miền Nam Việt Nam trước ngày đất nước thống nhất, đồng thời, gửi kèm bản Hiến chương và nội qui của Giáo hội để tường trình với nhà nước. Kế đó, tôi nói với các vị Đại diện Giáo hội trong cuộc họp như sau: "Nay H.T. Viện trưởng Viện Hóa Đạo đứng ra làm Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, không biết ai đã thành lập ban này, thành lập ở đâu và ai đã bầu Hòa thượng làm Trưởng ban, Viện Hóa Đạo hoàn toàn không được biết điều đó, và cho đến nay, Giáo hội cũng chưa chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn về thống nhất Phật giáo. Bởi vậy, Giáo hội chưa biết thống nhất trên cơ sở nào, theo hình thức nào và sau khi thống nhất, tư cách pháp lý của GHPGVNTN sẽ ra sao. Đây là vấn đề tồn vong của Giáo hội, mà theo Hiến chương Giáo hội, phải do Đại hội quyết định. Cách đây mấy hôm, tôi đã được sở Công an mời ra bảo tôi phải đồng ý thống nhất, tôi đã nói với ông Quang Minh (người tiếp tôi) là Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không đủ thẩm quyền quyết định việc quan trọng này, mà phải do Đại hội Giáo hội. Và tôi đã yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường, mỗi tỉnh cần một vị Chánh đại diện hay Thư kí cũng được, nhưng ông Quang Minh đã không đồng ý, viện lẽ không còn đủ thì giờ! Bây giờ đây H.T. Viện trưởng đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại biểu Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp ngoài Hà Nội, tôi nhận thấy Đại hội bất thường thì nhà nước không cho, bởi thế hôm nay Viện Hóa Đạo mời quí vị về họp để hỏi ý kiến và tùy quí vị quyết định". Trước khi dứt lời để trao quyền điều khiển cuộc họp cho Hòa thượng chủ tọa, tôi có bày tỏ một vài ý kiến như sau: "Kính bạch Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo chủ tọa cuộc họp, kính thưa toàn thể quí vị, chắc quí vị cũng như tôi đều thấy rõ hiện nay con thuyền GHPGVNTN đang lênh đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ chìm lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hãi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, thì xin quí vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một điều là: trước khi bước sang thuyền khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi dạt trong sóng gió với những người còn ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bờ bình an thì họ sống, còn nếu chẳng may con thuyền chìm thì họ cũng sẽ sẵn sàng chết theo nó, chứ quí vị ấy đừng đang tâm nhận chìm con thuyền của mình mà có lần đã từng đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quí vị có thế thôi. Tôi dứt lời và cảm ơn quí vị". Khi tôi nói xong thì cả trong hội trường và ngoài sân, ngoài các hành lang nổi lên những tràng pháo tay vang dội, rồi tôi thấy T.T. Trí Tịnh đứng dậy đi ra trước tiên, kế đó là T.T. Minh Châu và sau cùng là Hòa thượng Viện trưởng chủ tọa! Thế là cuộc họp tự nhiên cũng tan. Sau đó tôi nghe có tiếng vọng lại: "Hôm nay thầy Quảng Độ mời chúng tôi về đây để thóa mạ chúng tôi". Còn lại Thượng tọa Huyền Quang và tôi, chúng tôi nhìn nhau một lúc rồi cũng giải tán!Ba hôm sau, Văn phòng Viện Hóa Đạo nhận được bản "Thông báo" của Ban vận động thống nhất Phật giáo đề ngày 17-9-1981, do T.T. Minh Châu kí tên, dài lắm, tôi chỉ còn nhớ một đoạn ngắn, vì có lẽ nó là đoạn quan trọng nhất trong bản Thông báo. Đoạn ấy như sau: "...Thượng tọa Thích Quảng Độ, Tổng thư kí Viện Hóa Đạo, đã triệt hạ uy tín của toàn Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, phá hoại công cuộc thống nhất Phật giáo, ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam là những người đang khuyến khích và hỗ trợ sự nghiệp thống nhất Phật giáo cả nước!". Bản Thông báo của Ban vận động thống nhất Phật giáo trên đây sau được ai đó gửi đi khắp các tỉnh miền Nam, bắt tăng ni học tập rồi kí tên kiến nghị gửi về chùa Ần Quang, yêu cầu Giáo hội trục xuất tôi ra khỏi Giáo hội và không được đặt chân đến chùa Ần Quang! Không biết ai đã làm việc đó giúp Ban vận động thống nhất Phật giáo, nhưng dù ai thì tôi thấy cũng có trách nhiệm giúp thêm một tay bằng cách cho dán bản Thông báo trước Văn phòng Viện Hóa Đạo và cho in ronéo ra thêm hàng chục ram giấy để phân phát cho tăng ni và Phật tử "học tập" cho có hiệu quả hơn. Một Phật tử nói với tôi: "Người ta đòi trục xuất thầy ra khỏi Giáo hội và chùa Ần Quang mà sao thầy lại quảng cáo thêm cho người ta vậy?". Tôi trả lời: "Bao giờ người ta trục xuất hãy hay, bây giờ thầy còn làm việc ở đây thì thầy giúp thêm họ một tay có làm sao, và nếu đạo hữu còn giấy cũ thì cho thầy thêm ít nữa!". Nhân đây tôi cũng xin thanh minh rằng tôi không chủ trương "phá hoại thống nhất Phật giáo" mà tôi chỉ muốn thống nhất trong tinh thần hòa hợp, đồng thuận theo đúng luật Phật "Hòa hợp phủ? - Hòa hợp!" (chư tăng có hòa hợp không? - Hòa hợp!) ; nghĩa là việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền Nam Bắc, phải do chư tăng hai miền quyết định một cách hòa hợp và đồng thuận, chứ tôi không muốn nhà nước cộng sản can thiệp vào rồi bắt chúng tôi phải thống nhất theo ý muốn của nhà nước để sau dễ bề lợi dụng Giáo hội cho những mục đích chính trị và hợp thức hóa cho chủ trương tiêu diệt Phật giáo của đảng và nhà nước cộng sản. Còn bảo tôi "ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam", thì, trời ơi, ai dám làm điều đó? Bởi vì ai cũng biết chính phủ và Mặt trận Tổ quốc là do đảng cộng sản Việt Nam lập ra, là hai cơ quan quyền lực nhất nước, cộng thêm biết bao nhiêu máy bay tàu bò, xe tăng thiết giáp, hỏa tiễn thần công, súng đạn đầy người, nhà tù khắp nước, công an như ruồi ; còn một nhà sư như tôi trong tay không có lấy một tấc sắt, vậy họa có là điên rồ hoặc muốn về chầu tổ tiên ông bà thì mới dám "ngang nhiên thách thức"! T.T. Minh Châu ác lắm, muốn nhờ cái búa tạ để đập nát một hạt đậu nhỏ đó! tu hành từ bi mà sao dữ quá vậy. T.T. Minh Châu với tôi có xa lạ gì đâu, cùng đi học với nhau bên Tích Lan rồi sau cùng sang học bên Ần Độ, chỉ học khác trường mà thôi. Khi Giáo hội mở Viện Đại học Vạn Hạnh thì chúng tôi vừa làm việc trong Viện Hóa Đạo, vừa làm việc ở Đại học Vạn Hạnh rất là thân mật quí hóa. Mỗi khi Thượng tọa có việc phải xuất ngoại thì Thượng tọa giao cho tôi Quyền Viện trưởng Xử lý Đại học Vạn Hạnh. Thế mới biết danh lợi dễ làm cho con người hư hỏng, và thế cũng mới biết cộng sản đến đâu là làm tình người tan nát đến đấy. Và chỉ mấy tháng sau là T.T. Huyền Quang và tôi bị đưa đi quản thúc lưu đày vì bản Thông báo đó. Tôi biết được điều này là vì sau khi tôi bị đưa ra Bắc ít lâu, người ta nói với tôi là họ thắc mắc hỏi công an tại sao lại bắt tôi ra đây, thì công an bảo tôi ở trong Nam chống phá Giáo hội, bởi vậy các ông Trí Thủ, Trí Tịnh, Minh Châu yêu cầu nhà nước đưa "hắn" (tức là tôi) ra đây để trong ấy họ dễ làm việc, chứ nhà nước có bắt bớ gì hắn đâu. Cái lợi thống nhất Phật giáo do cộng sản chỉ huy là thế. Có lẽ T.T. Minh Châu chỉ muốn một mình mình sống trong "Thiên đường" thôi, vì trong một chuyến đi Liên xô với cố H.T. Trí Thủ về, T.T. Minh Châu đã tuyên bố "Mạc Tư Khoa" (thủ đô của Liên xô cũ) là Thiên đường trên mặt đất. T.T. Minh Châu cũng đã từng chu du nước Mỹ đến Hoa Thịnh Đốn, nhưng chắc bơ sữa Hoa Thịnh Đốn không ngon bằng bơ sữa thiên đường Mạc Tư Khoa! Chưa hết, sau khi T.T. Minh Châu xuất gia, bát cơm đầu tiên mà T.T. Minh Châu ăn là cơm Bắc Tông (tức Đại Thừa), bổn sư của Thượng tọa là đức Đệ nhất Tăng Thống của GHPGVNTN. Sau ngài sang Tích Lan và Ần Độ học Nam Tông (tức Tiểu Thừa), ngài mặc áo vàng rồi vào tuyên bố các kinh điển Đại Thừa (tức Bắc Tông) không phải Đức Phật nói (ngụ ý là ma nói), mà đức Phật chỉ nói có các bộ Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tăng nhất bộ kinh v.v... mà ngài đã dịch ra tiếng Việt thôi. Vậy theo quan điểm của T.T. Minh Châu, những người tu theo Bắc Tông như tôi là những kẻ ngoại đạo thì không có tư cách được sống ở Thiên đường, vì Sài gòn cũng sẽ là một thiên đường, cho nên phải đuổi nó xuống địa ngục! Đến cuối năm 1981, Đại hội thống nhất Phật giáo chính thức được mở ra tại Hà Nội. Tôi được biết, T.T. Thích Thiện Siêu cầm đầu một phái đoàn mười người nói là đại diện cho GHPGVNTN, có văn thư đề cử đóng khuôn dấu Viện Hóa Đạo đường hoàng, tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì T.T. Thiện Siêu có chức vụ gì trong Viện Hóa Đạo đâu, mà Viện Hóa Đạo cử T.T. Thiện Siêu làm đại biểu của Viện đi dự họp, còn khuôn dấu Viện Hóa Đạo do tôi cất giữ, khi đến văn phòng thì tôi mang đến, hết giờ làm việc thì tôi mang về, vậy khuôn dấu ở đâu ra? Lúc đầu tôi không tin, bởi lẽ tôi biết T.T. Thiện Siêu là bậc học thức, có đức hạnh, tôi rất kính trọng Thượng tọa và tuyệt đại đa số tăng ni miền Nam cũng thế, không tin Thượng tọa lại có thể làm một việc như vậy, nhưng sau tôi mới biết rõ đó là sự thật! Trong Đại hội ấy, cố Hòa thượng Trí Thủ được bầu làm Trị sự trưởng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (do cộng sản chỉ huy), T.T. Trí Tịnh Đệ nhất Phó trị sự trưởng, T.T. Minh Châu Thư kí Văn phòng II đặt tại chùa Xá Lợi ở Sài gòn, T.T. Thiện Siêu và các vị khác đều có chức vụ, nghĩa là tùy theo công lao nhiều ít, đều được tưởng thưởng cả! Tôi còn nhớ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi được tha từ nhà tù Phan Đăng Lưu về, một vị đệ tử của T.T. Trí Tịnh, trước kia có học tôi ở Đại học Vạn Hạnh, từ Thủ Đức lên thăm tôi, vị ấy nói với tôi là "thầy con (tức T.T. Trí Tịnh) bảo thầy con là bậc đại trí mới tránh được những tai nạn". Đến nay tôi nghĩ lại thì thấy T.T. Trí Tịnh và T.T. Minh Châu quả thực là hai bậc đại trí. Năm 1963, ông Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, tăng ni Phật tử buộc lòng phải đứng lên chống lại ; nửa đêm 20 tháng 8 năm 1963, ông Diệm cho cảnh sát tấn công tất cả các chùa trên toàn miền Nam, bắt hết tăng ni. Sáng hôm sau các Phật tử ở Thủ Đức biết tin ấy, vào chùa Vạn Đức báo cho T.T. Trí Tịnh biết và khóc lóc. T.T. Trí Tịnh bảo họ: "Các sư tu hành mà làm chính trị thì người ta bắt là phải, còn khóc lóc gì!". Nhưng, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ, GHPGVNTN được thành lập thì T.T. Trí Tịnh ra giữ chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự. Đến tháng 4 năm 1975 thì T.T. Trí Tịnh không dự một cuộc họp nào của Viện Hóa Đạo nữa. Ngày 30-4-1975 cộng sản toàn thắng về tiếp thu Sài gòn ; ngày 15-5-1975 cộng sản tổ chức ăn mừng chiến thắng có diễn binh trước dinh Độc Lập và truyền hình trực tiếp. Khi nhìn vào Tivi, trên khán đài danh dự, tôi đã thấy T.T. Trí Tịnh đang ngồi chễm chệ trên đó rồi, thật là bậc đại trí! Còn T.T. Minh Châu thì năm 1964 mới từ Ần Độ trở về và được Giáo hội mời làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ giáo dục kiêm Viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1972 cuộc chiến Việt Nam đã đến giai đoạn khốc liệt. Người ta chưa quên Quảng Trị mùa hè rực lửa. Lúc đó, Hội nghị Tôn giáo Thế giới về Hòa bình (The World Conference on Religion and Peace) vận động hòa bình cho Việt Nam và mời Giáo hội tham gia. Tình hình chiến sự càng ngày càng sôi động và đến khoảng tháng 3 năm 1975, T.T. Minh Châu cũng không dự cuộc họp nào của Viện Hóa Đạo nữa và tuyên bố tách rời khỏi đường lối vận động hòa bình của Giáo hội. T.T. Minh Châu nói ngài chỉ chuyên về lãnh vực văn hóa giáo dục mà thôi. Nhưng đến năm 1976 thì T.T. Minh Châu lại ra ứng cử vào Quốc hội thống nhất đầu tiên của cộng sản và cho đến nay (1992) ngài vẫn còn ngồi trong cơ quan đó. Thì ra T.T. Minh Châu thích làm chính trị cộng sản chứ không thích vận động hòa bình. Cũng là một bậc đại trí hiếm có. Kể từ ngày cố H.T. Trí Thủ được bầu làm Trị sự trưởng của Giáo hội nhà nước thì GHPGVNTN không còn Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Không có Viện trưởng thì Phó Viện trưởng lên Quyền Viện trưởng cho đến khi có Đại hội bầu lại đúng như Hiến chương Giáo hội đã qui định. Do đó, T.T. Huyền Quang là Đệ nhất Phó Viện trưởng lên làm Quyền Viện trưởng và chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc Giáo hội như thường. Có lẽ nhà nước cộng sản Việt Nam nghĩ rằng, nếu cứ để T.T. Huyền Quang và tôi tiếp tục làm việc như vậy, thì sau này Giáo hội nhà nước sẽ khó lòng đến chiếm Văn phòng Viện Hóa Đạo được ; mà nếu không chiếm được Văn phòng và trụ sở Trung ương của Giáo hội thì cũng khó bắt các Giáo hội địa phương theo Giáo hội nhà nước, cho nên việc phải đến đã đến và dựa vào bản Thông báo của T.T. Minh Châu tố cáo tôi "ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" như tôi đã nói ở trên làm cơ sở. Lúc 4 giờ chiều ngày 24-2-1982, tôi nhận được một văn thư của sở Công an thành phố, ngoài bì đề "Hỏa tốc" Tôi mở ra xem thì biết tôi được "mời" đến sở Công an vào đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, lí do cho biết sau, do ông Quang Minh tiếp đón (lại Quang Minh!). Kể ra tôi cũng có "duyên" với ông này lắm, có lẽ đã từ bao kiếp trước! Tôi không biết chức vụ của ông, nhưng chắc là cấp cao. Suốt thời gian tôi ở trong nhà tù Phan Đăng Lưu, cứ mỗi tuần, dần dần mỗi tháng, tôi lại được "tiếp" ông ta một lần để "làm việc" (tức lấy khẩu cung). Rồi sau khi ra khỏi nhà tù, tôi cũng được ông "tiếp" luôn và có lẽ lần này là lần chót. Người thứ hai mà tôi cũng "kết duyên thắm thiết" đó là ông Mai Chí Thọ Giám đốc sở Công an thành phố và sau là Bộ trưởng Bộ Nội vụ ; tôi cũng được "hỏi thăm sức khỏe" luôn. Lại một lần "dựng tóc gáy". Đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, tôi tới sở Công an, được đưa đến một căn phòng ngồi chờ và có hai anh công an đồng phục mang súng lục đứng canh gác. Đúng là dựng tóc gáy rồi. Tôi nghĩ bụng lại một phen đi nghỉ mát? Khoảng một tiếng đồng hồ sau, chắc họ cho là khủng bố thế là đủ, tôi được đưa vào gặp ông Quang Minh. Ông ta nói: "Ông làm việc tôn giáo cũng là làm chính trị (!), chúng tôi sẽ có thái độ với ông". Thế rồi khoảng năm phút sau, ông Quang Minh đứng dậy đọc bản quyết định, do ông Lê Quang Chánh ký tên, ông này là Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố, trục xuất tôi ra khỏi thành phố. Sau ít phút, một người gọi là Trưởng toán đưa tôi đi đến lãnh nhiệm vụ và bốn anh công an vũ trang đầy đủ áp giải tôi xuống xe đưa đi, hệt như một vụ bắt cóc người đòi tiền chuộc! Lúc ấy là 9 giờ 30. Khi đến ngã ba Dầu Dây thuộc tỉnh Long Khánh, đoàn xe chừng mười cái dừng lại tại một khu rừng cao su nghỉ để ăn cơm trưa, tôi thấy T.T. Huyền Quang ngồi cách tôi độ mười mét, lúc ấy tôi mới biết T.T. Huyền Quang cũng được đi "ngao du sơn thủy" trong chuyến này. Kể từ ngày đó, các sinh hoạt của GHPGVNTN hoàn toàn bị đình đốn. Sau đó, cố H.T. Trí Thủ, Trị sự trưởng Trung ương của Giáo hội nhà nước về chiếm Văn phòng Viện Hóa Đạo tại chùa Ần Quang làm Văn phòng "Thành hội Phật giáo" của Giáo hội nhà nước. Hòa thượng Thích Đôn hậu, Chánh thư kí kiêm Xử lí Viện Tăng thống GHPGVNTN, đã gửi văn thư phản đối việc làm ấy của cố H.T. Trí ThuÍ. Rồi từ đó trở đi, tất cả tổ chức của GHPGVNTN từ Trung ương đến các địa phương đều bị buộc phải hạ bảng hiệu của Giáo hội xuống và trương bản hiệu của Giáo hội nhà nước lên thay, luôn cả trụ sở, nhân viên của của GHPGVNTN trước đây, cũng được biến thành trụ sở, nhân viên của Giáo hội nhà nước, cũng Chánh đại diện, Thư kí và ban này ban nọ, hệt như cơ cấu tổ chức của GHPGVNTN, chỉ khác có tên gọi "Giáo hội Phật giáo Việt Nam" tức Giáo hội nhà nước mà thôi. Thật là một đòn gậy ông đập lưng ông hiểm độc. Đây mới chỉ là mưu đồ ngắn hạn, tức mới chỉ dùng người của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để triệt hạ GHPGVNTN, còn về dài hạn, thì cái Giáo hội Phật giáo nhà nước ấy được dùng để tiêu diệt Phật giáo một cách hợp thức hợp pháp, cũng như cái Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam do sư cụ Trí Độ làm Hội trưởng ngoài miền Bắc trước đây vậy. Và cuối cùng, khi đã thực sự tiến lên "thiên đường cộng sản" rồi thì chính cái Giáo hội nhà nước ấy cũng sẽ bị tiêu diệt. Nhưng cái viễn tượng thiên đường cộng sản ấy xem ra còn xa vời lắm, nhất là từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, khối cộng sản Đông âu và Liên xô tan rã, khiến thế đứng của cộng sản Việt Nam lung lay, thì giờ đây cộng sản lại lợi dụng Phật giáo làm chỗ dựa, đưa vận mệnh của Phật giáo Việt Nam ràng buộc vào với chủ nghĩa xã hội, cũng như nửa thế kỷ trước, cộng sản Việt Nam đã đưa vận mệnh nước Việt Nam ràng buộc vào với khối cộng sản quốc tế. Cũng như mấy chục năm qua, cộng sản đâu có nhắc đến ngày giỗ Tổ Hùng Vương, nhưng bây giờ ngày 10 tháng 3 âm lịch mới dở trò tế Tổ. Rồi nghe đâu bây giờ trong miền Nam, cộng sản cho các chùa thu nhận người xuất gia và cho mở các trường Phật học cơ bản để đào tạo tăng ni. Cũng nghe đâu vào ngày Phật Đản và ngày tết, các quan chức đảng và nhà nước có đến các chùa "lễ Phật"! Chao ôi, quí hóa thay! Các ngài vô thần đến lễ Phật, Phật tổ chứng minh công đức! Nhưng giá như từ năm 1945, 1954 hay ít ra từ năm 1975 mà các ngài nhà ta làm thế thì có tốt hơn không? Tuy nhiên, màn thưa chẳng che nổi mắt Thánh đâu. Bất quá "Giết chẳng được thì tha làm phúc" đó thôi, chưa tiêu diệt được thì hãy lợi dụng đã, "lùi một bước để tiến ba bước" mà! "Phân gà" thì gạt lúc nào mà chẳng được. Thật vậy, nói đổ xuống sông xuống biển, nếu mai mốt đây bức tường Bá Linh lại được xây lại, khối cộng sản Đông âu và Liên xô được khôi phục, và cộng sản Việt Nam lại có cái thế "thừa thắng xông lên" của năm 1975, thì làm gì còn chùa để các ngài vô thần đến lễ Phật! Tôi còn nhớ sau ngày 30-4-1975, khẩu hiệu: "Chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng muôn năm!", "Chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch bất diệt" được treo trên khắp các nẻo đường ở Sài gòn, và hang cùng ngõ hẻm nào cũng thấy các tấm bảng đỏ sao vàng trông chói cả mắt. Rồi đến ngày cách mạng tháng 10 Nga thì tổ chức kéo dài cả tháng. Lúc đó có ông cộng sản nào nhắc đến ngày 10 tháng 3 giỗ Tổ Hùng Vương hoặc đến chùa lễ Phật đâu? Cũng như nếu cộng sản đã đào mồ chôn sống được "bọn" Tư bản rồi thì bây giờ làm gì còn tư bản để các ngài rước vào Việt Nam và xin gia nhập khối Tư bản Đông Nam Á mà trước kia các ngài cho là tay sai đế quốc Mỹ? Đập tượng phá chùa để rồi đến lễ Phật, chôn sống tư bản để rồi đi theo tư bản, kể cũng giỏi, cũng hay! Tóm lại, đạo Phật đã truyền vào Việt Nam trên dưới hai nghìn năm, đã cùng chung vận mệnh thăng trầm vinh nhục với dân tộc Việt Nam trong suốt dòng lịch sử ấy. Đạo Phật đã cống hiến những gì cho dân tộc Việt Nam? Vấn đề này đã được ghi rõ trong sử sách, ở đây tôi không dám nhắc lại sợ dài dòng và có thể cho là chủ quan. Tôi chỉ xin trích một đoạn rất ngắn trong cuốn sách Lý Thường Kiệt của giáo sư Hoàng Xuân Hãn ở phần thứ ba chương XIV, trang 429, nói về đạo Phật đời Lý và kết luận như sau: "Nói tóm lại, sau các đời vua hung hãn họ Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện ra những kẻ cầm quyền có độ lượng khoan hồng, những người giúp việc ít tham lam phản bạn. Đời Lý có thể gọi là đời THUẨN TỪ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là nhờ ảnh hưởng đạo Phật. Mà thực vậy, mỗi lúc ta thấy có Nho gia bài xích Phật giáo, thì ta biết rằng trong nước sẽ có cuộc tranh quyền lợi mà giết lẫn nhau. Sau khi Đàm Dĩ Mông sa thải tăng già, thì có Trần Thủ Độ tàn sát họ Lý. Cuối đời Trần, Nho học lên thịnh. Có Trương Hán Siêu, Lê Quát chỉ trích Phật giáo, thì sau lại có Hồ Quý Ly sát hại họ Trần. Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly làm những việc kia, ấy cũng vì muốn thi hành chính sách vị danh, xa hẳn lòng bác ái từ bi của Phật". Còn một điều rất căn bản tôi muốn nói ở đây là: Bất cứ ai, muốn trở thành một Phật tử chân chính, thì trước hết phải lãnh nhận ba Quy y Phật Pháp Tăng và sống theo năm giới điều: Không giết hại, không trộm cướp, không gian dâm, không nói dối, không uống rượu. Đó là đời sống đạo đức. Ngày xưa, sau khi đánh bại Sở Bá Vương Hạng Vũ thống nhất Trung Hoa, Hán Cao Tổ Lưu Bang rất kiêu căng ngạo mạn, hay chế giễu chửi bới các nhà Nho, có khi gặp Nho sinh thì bắt họ bỏ mũ ra rồi Cao Tổ đi tiểu vào mũ của họ! Nhà trí thức Giả Nghị thấy thế khuyên Cao Tổ đọc sách, Lưu Bang trả lời: "Nãi công cư mã thượng nhi đắc thiên hạ an sự thi thư?". Nghĩa là "Ta đây ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ, cần gì phải đọc sách?". Rõ là giọng kẻ võ biền gặp thời, kẻ tiểu nhân đắc thế. Giả Nghị thưa: "Chúa công có thể ngồi trên lưng ngựa mà được thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên lưng ngựa mà trị thiên hạ!". Thật là chí lí. Các vua chúa Việt Nam đời Lý, Trần thông minh và khiêm tốn hơn Hán Cao Tổ của Tàu ; họ tự biết giới hạn của mình, họ biết không thể cứ cậy có nhà tù, quân đội, công an mà làm được tất cả mọi việc, mà khiến được dân trở nên lương thiện. Bởi thế họ đã làm chùa và khuyến khích việc làm chùa ở khắp mọi nơi để thờ Phật, nhờ Tăng dạy dân sống theo ba Qui y và năm giới điều để xây dựng một xã hội có đạo đức, nhân ái, lễ nghĩa, hiếu thảo và độ lượng, nhờ đó xã hội được yên vui. Tâm lý con người kể cũng lạ. Ngày nay tôi nhận thấy thanh niên ở miền Bắc, phần nhiều họ không sợ nhà tù, họ ra rồi vào, vào rồi ra, cứ như là đi... nghỉ mát ấy. Thậm chí họ còn nói thanh niên nếu không vào tù ít ra là vài ba lần trong cuộc đời thì không phải là thanh niên! Vậy mà khi đến chùa Vũ Đoài, nghe tôi nói về đạo Phật, về nhân báo quả ứng, về địa ngục v.v... các anh đâm ra sợ và bỏ nghề bất chính, nhất là nghề đồ tể thì nhiều anh bỏ. Như vậy, khi đảng cộng sản Việt Nam, theo giáo điều vô thần duy vật của chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nhằm tiêu diệt đạo Phật, phá hủy đình chùa, tức là đã đạp đổ nền đạo đức của dân tộc, hủy hoại di sản kiến thức văn hóa của tổ tiên, phản bội tinh thần nhân ái truyền thống của dân tộc, tinh thần "dĩ hòa vi quí" của ông cha từ ngàn xưa để thay bằng căm thù đấu tranh giai cấp, cộng thêm với việc dạy dỗ con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng và thầy trò tố lẫn nhau trong cuộc cải cách ruộng đất "ôn nghèo gợi khổ" tại miền Bắc năm 1956 và đánh tư sản tại miền Nam năm 1975, đã khiến cho cả nền đạo đức nhân nghĩa của dân tộc gây dựng hàng nghìn năm bị đổ nát tan hoang, tôn ti trật tự xã hội bị đảo lộn và luân thường đạo lý phải bại hoại. Hậu quả là ngày nay con lợn chết thì người ta khóc, bố mẹ chết thì người ta mừng ; khi con lợn đau ốm thì người ta lo chạy chữa thuốc thang, tráng trứng gà cho lợn ăn, còn bố mẹ ốm đau thì nằm khô chờ chết! Người ta kể câu chuyện một anh nọ ở thành phố nuôi chó Tây để bán, mua giường sắm màn cho nó ngủ, mua thịt bò, trứng gà cho nó ăn ; bà mẹ ốm đau nằm không, thấy thế thèm quá, nói với con "Tao ốm nằm đây, chẳng có gì ăn mà thấy mày cho chó ăn thịt bò, trứng gà thao thèm quá!" Người con trả lời: "Bà biết không? Bạc triệu đấy! Còn bà thì làm ra được đồng nào mà đòi ăn thịt bò với trứng gà? Bà chết mau đi còn may nữa!". Khủng khiếp chưa, con Rồng cháu Tiên! Còn tình trạng con cái chửi bố mẹ thì xẩy ra như cơm bữa, thậm chí giết cả bố mẹ. Đáng lo lắm thay! Sự tàn phá về vật chất, khi sửa chữa hoặc xây dựng lại, tương đối còn dễ, nhưng sự hủy hoại về tinh thần này không biết đến đời nào mới vãn cứu được. Đó là sự sai lầm tai hại của đảng cộng sản Việt Nam đối với Phật giáo nói riêng và đối với văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung. Kết luận. Tôi chắc rằng, khi đảng cộng sản Việt Nam đọc bản nhận định này, sẽ cho tôi là chống đảng, mà chống đảng tức là chống Tổ quốc, hơn thế nữa là chống trời, thì chắc chắn là sẽ bị đấu tố đến chết rồi. Tôi đã ý thức rõ điều đó, nhưng tôi sẵn sàng đón nhận, bởi vì những điều tôi nói trong bản nhận định này đều là sự thật, vậy nếu phải chết cho sự thật, thì cũng chẳng có gì đáng ân hận hối tiếc caÍ. Vả lại, tôi cũng chẳng còn gì trên đời này nữa: bố tôi đã chết sớm, mẹ tôi thì đã bị cộng sản Việt Nam bắt đi đày cùng với tôi năm 1982 và đã chết thảm thương tại xã Vũ Đoài năm 1985 ; sư phụ (bổn sư) tôi là Hòa thượng Thích Đức Hải, từng du học nước Pháp, đã bị Việt Minh đến chùa bắt vào lúc 8 giờ sáng ngày 19-8-1945, tức ngày 12 tháng 7 năm Ầt Dậu, ngày cách mạng thành công, đưa đến sân đình làng Bặt, gần nhà ông Bùi Bằng Đoàn, ở phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông xét xử tử và kết án tử hình về tội "Việt gian bán nước", rồi đưa thầy tôi ra bãi cỏ trước đình bắn vào màng tai thầy tôi ba phát súng lục, một dòng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp, cho đến nay, tôi vẫn còn nhớ như in, vì lúc đó tôi đã 18 tuổi. Nhân đây tôi cũng xin minh oan cho thầy tôi không phải Việt gian bán nước mà nguyên nhân như sau: Vì năm Giáp Thân (1944), nhiều nơi người Nhật bắt dân phá lúa đi để trồng đay, và tháng 10 năm ấy lại mất mùa, nên năm Ầt Dậu (1945) dân đói lắm, nhất là hai tỉnh Thái Bình, Nam Định, người chết đói nằm ngổn ngang đầy đường. Những ai còn sức đi được, họ kéo nhau lên Hà Nội, Hà Đông để xin ăn, nhiều người đến nơi thì kiệt sức nằm chết ngoài đường phố. Lúc đó thầy tôi đang ở chùa làng Thanh Sam phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông, nghe người ta nói thương tâm lắm, thầy tôi bèn ra Thị xã Hà Đông, lập hội cứu tế giúp người đói, lúc ấy là tháng 3 năm 1945. Thầy tôi mở một khu trại và đưa những người đói về đó để nuôi. Bấy giờ thầy tôi có nhờ ông Hồ Đắc Điềm là Tổng đốc Hà Đông, can thiệp với người Nhật xin một số gạo để cứu đói. Hội đã cứu được nhiều người qua cơn đói, đến tháng 6 năm 1945 thì những người đói đã khỏe mạnh, tất cả họ đã trở về quê cũ để thu hoạch vụ chiêm, trại đóng cửa và thầy trò tôi cũng về chùa. Có thế thôi. Vậy mà đến ngày 19-8-1945 cách mạng thành công, Việt Minh lên án thầy tôi là theo Nhật, bán nước, rồi giết như tôi vừa nói ở trên. Ngày ấy có rất nhiều người chết tương tự như thế. Đến lượt sư bá tôi (tức là anh trong đạo của thầy tôi), là Hòa thượng Thích Đại Hải, trụ trì chùa Pháp Vân (chùa Dâu) ở tỉnh bắc Ninh, cũng bị Việt Minh bắt năm 1946 và sau đó đã chết về tội đảng viên Quốc dân đảng! (Tôi mở ngoặc đơn để nói thêm rằng, những người Quốc dân đảng là ai? Họ cũng là những người yêu nước, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, mồ các liệt sĩ Quốc dân đảng tại Yên bái còn đó, họ có nợ máu gì với cộng sản Việt Nam đâu mà sao cộng sản nỡ đang tâm giết họ?). Trong cuộc cải cách đấu tố năm 1956, Quốc dân đảng được xếp vào kẻ thù hàng đầu (tức là trí thức) và nếu bị phát hiện đều phải giết hết. Chẳng qua cộng sản Việt Nam học chính sách của cộng sản Tàu mà thôi. Vì Quôc dân đảng Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) đã từng nắm chính quyền và đánh nhau với cộng sản Tàu, khiến Mao Trạch Đông phải mở cuộc "Vạn lí trường chinh". Đến tháng 12 năm 1949, Mao Trạch Đông chiếm toàn lục địa Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, sau đó họ Mao ra lệnh giết hết những đảng viên Quốc dân đảng Trung Hoa còn lại không chạy kịp để trả thù. Tuy vậy họ Mao vẫn chưa hả dạ, còn ngờ có kẻ len lỏi trốn thoát trong hàng ngũ các nhân viên của chế độ cũ, phải phát giác để tiêu diệt cho bằng hết. Bởi vậy, đến năm 1956, họ Mao tung ra chiến dịch "Trăm hoa đua nở", nghĩa là cho phép tất cả mọi người được tự do nói ra những điều mình không bằng lòng với chế độ cộng sản để đảng sửa sai. Ai cũng tưởng thật và có điều gì dấu kín trong tâm tư đem phun ra hết. Thế là họ Mao tiêu diệt tất cả những người nhẹ dạ, hầu hết là đảng viên Quốc dân đảng, đã tin vào chiến dịch trăm hoa đua nở? Nhưng còn ở Việt Nam thì Quốc dân đảng đã nắm chính quyền bao giờ đâu, đã có đánh nhau với cộng sản Việt Nam đâu mà cứ hễ ai là Quốc dân đảng là phải giết hết? Rồi đến sư Tổ tôi (ông nội trong đạo), trụ trì chùa Trà Lũ Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, năm 1954, cộng sản vào chùa bảo Tổ tôi là dùng thuốc phiện tôn giáo ru ngủ nhân dân, sẽ bị qui định thành phần và đưa ra đấu tố, thế là Tổ tôi sợ quá phải tự thắt cổ chết! Nay đến lượt tôi cũng đã bị cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa suốt mười mấy năm rồi, chỉ vì cái "tội" trung thành với lí tưởng đạo Phật, muốn bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân tộc, di sản tinh thần và kiến trúc vật chất của tổ tiên, thế thôi, chứ có tranh giành quyền lợi gì với ai đâu. Vì, theo tôi, văn hóa truyền thống và di sản tinh thần của tổ tiên rất là quan trọng, nhờ đó mà dân tộc Việt Nam đã không bị đồng hóa bởi các thế lực phong kiến, đế quốc và thực dân xưa cũng như nay, khi thống trị Việt Nam trước sau có tới hơn nghìn năm. Dĩ nhiên, vì đã lâu đời nên nền văn hóa cổ truyền của chúng ta cũng đã có những cái lỗi thời, ta nên bỏ đi, rồi học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới mà bồi bổ thêm cho mạnh thì được ; chứ nếu chúng ta bảo nó đã lâu đời quá rồi, không còn thích hợp với đời nữa, thôi bỏ hết nó đi để thay vào đó một thứ văn hóa hoàn toàn mới, hoàn toàn xa lạ, thì chúng ta sẽ bị rơi vào trạng huống: Tây chẳng phải Tây Đông chẳng ĐôngQuỉ quái sinh ra lũ cuồng ngôngMồ mả tổ tiên cày xới hếtĐình chùa miếu mạo phá bằng khôngÔng bà xem nhẹ hơn con lợnBố mẹ coi như khúc gỗ thôngPhảng phất non sông hồn Lạc ViệtBốn nghìn tuổi sử tủi hay không? Tóm lại, như tôi đã nói ở trên, mẹ tôi, sư phụ tôi, sư bá tôi, sư Tổ tôi đều đã chết thảm, nay đến lượt tôi nếu lại chết thảm, thì xin góp thêm một giọt máu nữa vào trang sử đau thương của dân tộc. Viết tại xã Vũ Đoài huyện Vũ Thư, tỉnh Thái BìnhTháng 1 năm 1992 (Ngày 14 tháng 12, Tân Mùi)Kỉ niệm năm thứ 10 bị quản thúc lưu đày. Thích Quảng ĐộTổng Thư Ký Viện Hóa ĐạoGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất