Phần VI
Chương 2

Thấy chuyện ông Thần Cẩu thú vị, Nhụ bảo Điều dẫn tới chỗ cụ hộ Hiếu, ông thầy phù thủy huyền thoại của Cổ Đình. Tuy nghĩ ông Hiếu là phù thủy, nhưng trong làng chẳng ai dám gọi ông là phù thủy cả. Họ sợ ông giận thì khốn. Chỉ dám gọi ông là ông hộ Hiếu, bởi vì ông ở chùa đổ, chùa chẳng còn pho tượng nào ngoài tượng ông Hộ Pháp khổng lồ.
Ông Hộ Pháp bảo vệ Phật Pháp, còn ông hộ Hiếu bảo vệ dân làng, vậy nên dân gọi ông là ông hộ cũng chẳng sai chút nào. Nếu dân Cổ Đình gặp phải tai ương, như hạn hán hay dịch tễ, dân làng lại nhờ ông lập đàn xin trời Phật cứu giúp dân Cổ Đình. Chùa đổ rồi, sư bỏ đi rồi, không có sư nhưng có ông Hiếu ăn mày Phật đến đó ở, vậy ông Hiếu phải làm những việc công đức ấy là phải quá. Chỉ có điều ông hộ Hiếu chưa hề bao giờ làm sư hoặc làm phù thủy, thế mà ông làm được việc nhà chùa kể cũng là sự lạ.
Nhưng sự lạ đó không bằng chuyện ông không hề học nghề thuốc bao giờ, thế mà chữa bệnh cho dân làng rất công hiệu. Chuyện ấy đúng thật lạ lùng kỳ diệu. ông chữa tất cả mọi bệnh, từ bệnh vặt cho tới bệnh trọng. Trẻ con sài đẹn, đái dầm, sất cảm, đau bụng ư? Người dân Cổ Đình vội chạy ra chùa xin ông cho thuốc. Lúc ấy, ông hộ chỉ cho một lá bùa, đất thành tro bắt bệnh nhân uống. Sau đó, uống thêm vài viên thuốc do chính tay ông vào rừng tìm lá lẩu, sao tẩm, trộn với cơm nguội giã nhuyễn viên thành viên. Thế mà khỏi bệnh tắp lự. Rồi cả những bệnh nan y như điên rồ, liệt chân, lao phổi, ông cũng chứa được cho nhiều người.
Dân Cổ Đình chịu ơn ông, kính nể ông và có chút sợ hãi ông. Đúng vậy, người ta vẫn sợ ông, bởi vì trong ông toát ra một điều gì đó rất ma quái. Ai đã nhìn thấy ông, khi ông bị ốp đồng, đều thấy khiếp hãi.
Khi lên cơn ốp đồng ông nhịn cơm hàng tuần, và lúc đó chỉ rặt uống một thứ nước chè đặc chát xít. Người ông gầy như cái xác ve. Trông như một bộ xương khô bọc da. Tóc trắng. Râu dài và trắng. Lại thêm đôi mắt trắng dã trong hai cái hốc sâu hoắm. Nhìn vào khuôn mặt ông, người ta hoàn toàn bị ấn tượng vì màu trắng, nhất là màu trắng đôi mắt.
Cảnh ông hộ Hiếu vẽ bùa là một cảnh khủng khiếp. Ông mặc bộ quần áo rách, buộc chiếc thắt lưng đỏ ngang người. Tay ông cầm thanh kiếm mài thật sắc, múa loang loáng trước pho Hộ Pháp. Sau đó, ông thè lè lưỡi ra, thè thật dài. ông nâng thanh gươm sắc đặt ngang lưỡi. Nhắm mắt lại vì cứ nghĩ ông sắp cắt cụt lưỡi mình. Nhưng không phải. ông rất thận trọng dùng hai tay đỡ hai đầu thanh kiếm, rồi khẽ khàng đặt nhẹ thanh kiếm xuống, chỉ vừa đủ tạo ra một nhát khía mỏng tang làm máu ứa ra. Tiếp đó, ông rụt lưỡi vào, hòa trộn máu và nước bọt trong miệng. ông làm như người ta súc miệng, cho tới khi máu và nước bọt đẩy mồm. ông tiến hành rất khéo léo, tuy nhiên, có lúc máu vẫn rỉ ra hai bên mép. Những lúc ấy, nhìn mặt ông ta thật khủng khiếp. Cứ như thể ông vừa nhai sống nuốt tươi một sinh linh nào đó Khi trong miệng đã đủ một ngụm máu, ông nhổ nó ra chiếc bát, hòa máu với son để vẽ bùa. Trẻ con, đứa táo tợn lắm mới dám đứng xem ông lấy máu vẽ bùa, nhưng đêm hôm ấy, đứa nào cũng mê sảng.
Chữ vẽ bùa của ông là chữ thánh – Hộ Hiếu vẫn khoe với mọi người như vậy - Chữ ấy không phải chữ Nho, bởi vì các ông đồ nho đã xem ông viết, và chịu không luận được ra nghĩa của chúng. ông hộ Hiếu vẽ ngoằn ngoèo, có lúc như hình cái cây, có lúc như hình bộ rễ, có lúc như rồng đang bay, lại có lúc như con hổ mang đang vươn cổ. Một đôi khi, ra những chữ nho hẳn hoi. Đó là chữ Tâm, chữ Đạo, chữ Độ của nhà Phật.
Người ta hỏi khi vẽ bùa ông nghĩ gì, viết gì. ông trả lời thánh đã sai khiến bàn tay ông đi như vậy. ông chẳng biết ông đang viết gì, nhưng trong tâm ông biết đó là những chữ cứu người mà thánh ban cho.
Người dân Cổ Đình đã uống rất nhiều những lá bùa kỳ dị ghê người đó khi đã đất nó ra tro và hòa vào nước lạnh. Rồi người ta khỏi bệnh thật sự. Đó là chuyện lạ kỳ chẳng ai giải thích nổi. Có khi người bệnh ốm, không đi được, phải nằm nhà. Gia đình chỉ cần mang đồ lễ đến ngôi chùa Hộ, nói họ tên, năm sinh, tháng đẻ và cầu xin ông giúp. ông Hiếu đặt đồ lễ lên ban thờ, xuýt xoa khấn vái, rồi lấy một lá bùa, mắt nhìn chằm chằm vào nó, tay cầm nén hương vẽ những đường sáng chung quanh lá bùa. Cứ như thể ông ta gửi một siêu lực vào tờ giấy bản màu vàng. Gia đình mang tờ giấy thiêng ấy về đốt cho bệnh nhân uống. Thế rồi người bệnh cũng khỏi.
Người dân Cổ Đình rất kính trọng ông hộ Hiếu, song trong tình cảm vẫn thấy sự e ngại, sợ hãi. Chắc cũng do hành xử của ông có phần kỳ quái. Tuy biết ơn ông, người ta vẫn ít qua lại với ông. Trẻ con trong làng, khi trông thấy ông ở xa, đã vội lảng tránh không dám giáp mặt. Người lớn còn dùng ông để dọa trẻ: "Mày hư là tao cho ra chùa ở với ông hộ". Ngôi chùa đổ, ở ngõ Đình đi vào, nằm sát chân núi, nơi ông ở, ít người qua lại, càng trở nên hoang vắng. Những bụi rậm từ trên núi tràn xuống, bò vào cả tới sân chùa. Ở đấy, người ta bắt gặp bóng của lũ chồn cáo. Mấy con quạ khoang, vì thấy ông hộ Hiếu quá hiền từ nên làm tổ trên cây gạo cao lừng lững sau chùa. Có lúc đói ăn, chúng còn mò cả vào sân chùa xin ăn. Đôi khi, hộ Hiếu cũng quăng cho chúng nắm ngô.
Không hiểu cái hòn sét đánh làm ông chết đi rồi tái sinh, đã khiến ông ngộ ra một điều gì huyền bí mà ông bỏ hết chuyện đời chẳng chịu lập gia đình. Ngay cả gia tài sản nghiệp ông cũng chẳng quan tâm. ông hộ Hiếu nhường hết nhà cửa ruộng nương để lại cho ông đồ Tiết chăm sóc. Còn ông thì đi ở chùa, bữa đói bữa no, sống bằng những bắp ngô củ sắn tự tay ông trồng, và những phẩm vật sơ sài mà người chữa bệnh mang đến.
Hoàn cảnh khác thường đã khiến ông Hiếu thành một con người ở ngoài vòng nhân thế, làm ơn cho mọi người mà chẳng muốn nhận gì, và khiến người ta càng kính trọng ông, tin cậy ông, nể sợ ông hơn.
Rất nhiều người chịu ơn ông hộ Hiếu. Trong đám người chịu ơn ấy, riêng chỉ có mụ Pháo là không e sợ gì cả, mụ vẫn thường xuyên qua lại giúp đỡ ông.
Đầu tiên phải nói mụ Pháo là người có duyên. Mụ chẳng đẹp nhưng có duyên. Người làng cứ ngẫm nghĩ: có duyên là gì. Trước hết là cái bề ngoài. Cái đẹp chẳng cần song phải dễ ưa. Không phải bộ mặt muốn đuổi người ta đi mà phải kẻo người ta lại. Mụ ở đâu là chỗ đó tươi tắn hẳn lên, sinh động hẳn lên. Nhìn gương mặt ấy người ta chẳng muốn thù hằn mà chỉ thấy tin cậy. Sau mới là cái bên trong. Nó biểu hiện ra đôi con mắt. Chúng đen lay láy và hiền hậu như chứa ẩn một sự thông minh, một tấm lòng đôn hậu. ít nói nhưng có thể hiểu được những điều người ta không nói. Biết cười khi người khác cười. Biết im lặng khi người ta cần sự cộng cảm. Nói nhiều bằng vẻ mặt, ánh mắt thậm chí bằng một khóe môi; nói ít bằng lời, nếu im lặng mà đủ hiểu thì không cần nói. Sẵn sàng chia sẻ cùng với mọi người... Mụ ba Pháo chính là người đàn bà như thế. Một người đàn bà quê thật là quê. Nghèo, nhưng cái váy lúc nào cũng đen nhánh. Áo vá, nhưng miếng vá thật duyên, đường kim mũi chỉ nuột nà tăm tắp, miếng vá như cái hoa thật êm thật khéo. Có khi tấm áo vá của mụ còn thấy xinh hơn cả tấm áo lành.
Và cũng như mọi người đàn bà khác của Cổ Đình, mụ ba Pháo cũng thắt đáy lưng ong, cũng xắn váy quai cồng, cũng lam làm không nghỉ, cũng phốp pháp hừng hực sức sống của trời, của đất.
Lại nữa: mụ ba Pháo là con mẹ Mõ. Làm mõ mà được người làng quý mến: khó đấy. Cổ Đình xưa không có mõ. Cổ Đình rất thèm có mõ. Một làng muốn đàng hoàng, sang trọng, bề thế thì làng ấy phải có mõ. Sĩ diện bắt làng phải thế. Làng đã có ông chánh, ông lý nhưng nếu làng xưa mà không có mõ thì cái làng ấy chưa hoàn chỉnh. Các cụ kỳ mục nói:
- Cổ Đình là một danh hương. Danh hương thiếu mõ sao được.
Mõ là thứ dân hèn nhất trong làng xã. Dân ngụ cư là loại dân hèn. Vậy thì bắt dân ngụ cư phải ra làm mõ. Xóm Trung, cũng gọi xóm Đình, Ở giữa làng quanh ngôi đình. Xóm ấy họ Vũ Xuân ở đông. Phần lớn là gia đình tông lý chắc chắn không thể có mõ. Xóm Thượng đầu làng là nơi cư ngụ của họ Đinh, họ Nguyễn cũng là xóm khá giả. Xóm Hạ tuy dân ở đấy không làm chức việc nhưng họ cũng là những gia đình đủ bát ăn. Không chọn được người ở ba xóm ấy ra làm mõ, lẽ tất nhiên người ta phải nhằm vào những gia đình ở xóm Vườn, cái xóm ở tách ra khỏi làng, cái xóm có nhiều dân ngụ cư. Các cụ kỳ mục còn đưa ra nhiều cái lợi để nhử. Thứ nhất nhà nào làm mõ sẽ được cấy năm sào ruộng công của làng. Thứ nhì làm mõ đủ mười năm thì thôi, làng sẽ cắt cử gia đình khác. Sau khi thôi mõ sẽ được làng công nhận là dân chính cư. Người dân tính toán thật kỹ lưỡng. Cấy năm sào lúa, tuy thóc tô có nhẹ hơn cấy thuê cho nhà phú hộ, nhưng vẫn phải nộp cho làng một phần ba thu hoạch. Còn làm mõ mười năm tức cả đời làm mõ. Mất một đời người làm mõ mới được thành dân chính cư. Nhưng sau khi làm dân chính cư rồi, người ta cũng chẳng bao giờ quên cái xuất thân làm mõ của mình. Con cháu cứ chịu mãi cái tiếng rỉa rói: "ông cha nó ngày xưa làm mõ đấy". Cái tiếng xấu ấy còn nhục nhã hơn cả tiếng ngụ cư, không rửa được; chẳng ai đánh dấu những vết nhục mõ sẽ hằn in lên mặt con cháu, hàng chục đời may ra người ta mới quên. Tính toán như thế nên dân ngụ cư bảo: "Lợi bất cập hại". Và họ thì thầm với nhau, cuối cùng không ai chịu ra làm mõ.
May thay có gia đình lão Điếc từ dưới Nam lên. Một vợ hai con. Vì kiện tụng ở quê nhà, mất hết nhà cửa ruộng đất. Hai bàn tay trắng, anh phải mang vợ con đi tha phương cầu thực. Một bận hai vợ chồng đi gặt thuê cho nhà tiên chỉ Nhậm. ông Nhậm bảo:
- Tôi thấy anh chị là người chất phác mới làm phúc mách cho việc này. Đến xin ông Lý mà làm mõ làng. Làng cho năm sào ruộng. Cho đất làm nhà. Tự dưng, tay trắng lại có một cơ nghiệp lù lù chạy đến. Đến ngay mà xin chả kẻ khác lại chiếm mất chân ấy.
Lão Điếc mừng thật. Ông không tính toán gì hết. Như kẻ chết đuối với được cái cọc, tối hôm ấy, ông đến ngay nhà ông Lý. Công việc xong tắp lự. Làng Đình cũng mừng và lão Điếc cũng mừng. Thế là Cổ Đình có mõ. Mõ Điếc qua đời. Con là mõ Pháo thay chân.

*

Anh ba Pháo làm mõ cho làng Đình được tròn tám năm thì xảy ra sự việc. Tám năm ấy, anh làm việc rất chu đáo, cần mẫn. Trên là các bậc hào lý, dưới là dân làng chẳng ai chê anh một lời. Việc rao trong làng, mõ anh giòn, giọng anh khéo, anh rao cứ như hát. Hễ anh cất giọng, ai cũng muốn nghe. Cái giọng véo von, trầm trầm lại pha chút rầu rầu rất hợp tai mọi người. Chị Pháo là người duyên dáng mềm tính đã đành là được lòng mọi người, song anh ba Pháo cũng không kém vợ trong việc đối xử ăn ở. Tuy là mõ, nhưng anh cố tránh cái tiếng xấu "tham như mõ" của người đời. Ở thôn quê, nhà nào có việc ma chay cưới xin thường gọi anh mõ đến làm cỗ. Làm nhiều quen đi, anh trở thành một chuyên gia làm cỗ, nhất là giết lợn, mổ bò. Và khi đi ăn cỗ về thể nào anh cũng được gia chủ chia cho một gói phần, thường là một đĩa xôi với khẩu thịt. Nhiều nơi, mõ cậy thân phận thấp hèn, “không ai muốn dây với mõ", nên thường lấy phần rất to, mang cái rá đi đặt lá chuối vào rồi trút cả phần mình được hưởng lẫn thịt thà ăn thừa ở mâm bọc lại thành một gói to như cái đầu người mang về. Ba Pháo thì không thế. Người ta cho thế nào, lấy thế ấy ăn cắp thì tuyệt nhiên không làm.
Năm ấy, ông tiên chỉ Nhậm làm đám ma mẹ rất to. Mổ bò, mổ lợn linh đình. Cả làng đến ăn. Cụ Nhậm ở thành phố về, coi như hưu trí về nhậm chức Tiên chỉ, nên cụ hào phóng lắm. Cho ba Pháo cả một mâm cỗ. Thương vợ con ở nhà, nên ba Pháo chỉ chấm mút qua loa rồi gửi cả về cho vợ con. Chị ba Pháo đi làm đồng. Ở nhà chỉ có hai đứa con. Hai đứa trẻ thấy xôi thịt ngon quá nên ăn lấy ăn để, bụng to căng phồng.
Đến chiều, hai đứa trẻ đều miệng nôn trôn tháo. Cho uống lá ổi không cầm. Xin sái thuốc phiện của ông hương ất uống cũng không công hiệu. Đến hôm sau anh ba Pháo cũng bị như thế.
Vì là thân phận mõ hèn hạ, lại không họ hàng thân thích trong làng, nên chẳng ai đến giúp. Chỉ có một mình ông hộ Hiếu lui tới chiếc lều tồi tàn. "Còn nước còn tát" - ông hộ Hiếu làm đủ mọi cách, nhưng cả ba bố con anh Pháo đều không qua khỏi. Khi đem chôn họ, cũng lại chỉ có mình ông hộ Hiếu và người đàn bà. Ba cái xác đều bó chiếu. Chiếc đòn tre dài, hộ Hiếu một đầu, chị ba Pháo một đầu khiêng anh Pháo và hai đứa con lủng lẳng ra đồng. Rồi đào huyệt, rồi lấp đất, rồi cúng vái, rồi khóc than. Chị ba Pháo gần như mất hồn không động chân động tay nổi. ông hộ Hiếu lại phải một mình xoay trần ra làm tất cả. Hết một đêm dài mới chôn xong ba cái xác.
Hộ Hiếu về chùa để ngủ suất một ngày một đêm mới tỉnh dậy. Khi mở mắt ra thì có người lại hớt hơ hớt hải đến báo tin:
- Ông Hộ ơi! Chị ba Pháo điên rồi. Chị đang hát hỏng ngoài đường làng kìa.
Ông chạy ra. Chị ba Pháo đầu tóc bù xù, vú vê thỗn thện đang múa may ở ngoài sân đình, ai dỗ thế nào cũng không nghe. Nhưng khi nhìn thấy ông hộ Hiếu thì chị lại khóc rưng rức và chịu nghe ông bảo. ông Hộ thấy không đang tâm bỏ người đàn bà khốn khổ một mình. ông đưa chị về ngôi chùa đổ thuốc thang chạy chữa.
Nào bùa, nào lá rừng, nào tàn hương nước thải. Ông Hộ lại cứu giúp chị ba Pháo lần thứ hai, cho đến khi chị khỏi rồ dại nhưng vẫn còn ngơ ngơ ngác ngác.
Chị ba Pháo đã về nhà mình, nhưng một đêm trăng chị lại lẻn ra chùa. Ở đây có một chút thương cảm thân phận của nhau chăng. Hay là đền ân đền nghĩa.
Đêm nay, trăng giàn giụa trong ngôi chùa đổ. Ánh trăng đêm nay làm cho đôi mắt xếch của pho Hộ Pháp hình như cũng dịu bớt đi. Ánh trăng làm mắt chị ba Pháo long lanh. Ánh trăng làm thân hình của chị như biến thành ngọc, thành ngà. Đôi vú trắng hơn. Chị ba Pháo cầm tay ông, dẫn dắt ông đi vào cõi mê hồn mà hình như ông chẳng bao giờ biết lối. Ông nâng niu bộ ngực ngọc ngà mà ông đã từng thấy khi chị điên rồ; nhưng khi ấy, đối với ông, chúng vô hồn. Còn lúc này, ánh trăng và đôi mắt của chị đã đem lại cái hồn sống động cho chúng. Ôi! Sao mà mỹ miều? Ông phù thủy gầy còm bò trên bụng người đàn bà vừa ơn nghĩa vừa đa tình. Hai cái sinh linh côi cút ở cõi đời ngẫu nhiên lại phối kết với nhau. Nỗi cô đơn cùng kiệt đã biến họ trở thành những kẻ hiến dâng không tiếc. Cho hết và nhận hết. Một cuộc tình kỳ diệu không dễ gì đã xảy ra ở đời. Sau những giây phút bồng bềnh lang thang trong nhau, người đàn ông khóc trên bụng người đàn bà. Những giọt nước mắt ướt đầm đôi vú Người đàn bà cũng biết ơn. Và người đàn ông cũng biết ơn. Biết ơn vì họ chẳng còn côi cút. Biết ơn vì đã hiến dâng. Người đàn bà xoa nhẹ vào tấm lưng xơ xác của người đàn ông. Chị cũng không hiểu cái tấm thân tàn tạ của ông sao lại còn đủ sức mạnh để đem lại hạnh phúc cho chị nhiều đến thế. Thứ hạnh phúc giao hoan, mà chồng chị khi xưa, một kẻ đương trai, lại chưa bao giờ đem lại được cho chị như vậy. Có lẽ xưa kia, khi người ta quá dễ dàng có được và quá đầy đủ khi nhận nó thì hạnh phúc đã trở thành chai lì và nhàm chán. Còn bây giờ, vào những phút đau đớn, ê chề cùng kiệt, vào những phút người ta hiểu giá trị của sẻ chia và biết ơn, thì đây là cuộc giao hoan của hai vì sao lạc, của hai hồn ma lạnh lẽo bất chợt gặp nhau, nắm được tay nhau và tìm ra hơi ấm. Vì thế, nên chị Ba hết sức nhẹ nhàng... Nhẹ nhàng..., hết sức âu yếm vuốt ve ông, vỗ về ông, để mặc cho đôi dòng nước mắt của một ông già tưởng như ma quái, tưởng như chẳng hề biết khóc, tưởng như chẳng có ai hiểu nổi, bỗng nức nở, tan chảy liên miên, tràn trề trên đôi vú trắng. Và cả chị Ba nữa, Ô hay! Bỗng nhiên chị thấy đôi mắt của mình cũng rưng rưng, rồi rơi lệ ròng ròng.
Cuộc tình kỳ lạ ấy đã đơm hoa kết trái. Chị ba Pháo chỉ ăn ở với ông hộ Hiếu độc nhất một lần ấy thôi, thế mà lại có con, một đứa con gái xinh đẹp lạ thường. Đứa trẻ càng lớn càng xinh. Có người hỏi: "Con ai?". Chị Ba trả lời: "Con trời, con Phật". Đứa trẻ gặp ai trong làng cũng chào rất lễ phép và nở một nụ cười rất tươi. Người nào cũng yêu mến nó. Người ta xì xào:
- Con bé có đôi mắt giống hệt mắt ông hộ Hiếu. Chỉ có khác mắt ông trắng toát, còn mắt con bé đen huyền. Mắt ông hộ vừa dữ vừa man dại ai trông cũng sợ oai, còn mắt con bé dịu dàng, ai trông cũng mến.
Xì xào thế thôi chứ chẳng ai dám chế giễu. Họ sợ dính líu dấn ông hộ. Lũ trẻ con thì coi trời bằng vung. Hoa là tên con bé. Một hôm, có đứa trẻ chăn trâu chế cái Hoa là con hoang. Đứa con gái tức quá, nức nở về mách mẹ. Mẹ nó bảo:
- Con ra chùa mách ông hộ Hiếu.
Đứa trẻ thơ ngây đến gặp ông phù thủy mách thật. Ông Hộ nhíu mày bảo đứa trẻ:
- Con không phải con hoang. Con là con của thánh. Được? Con cứ về đi. Ta sẽ mách thánh phạt nó.
Không biết ông Hiếu mách thánh ra sao, chỉ biết tối hôm ấy, thằng bé chăn trâu đau bụng lăn từ trên giường lăn xuống đất. Bố mẹ nó biết chuyện, vội mang vàng hương ra chùa lễ. Ông Hộ cho bùa rồi nói:
- Ông về bảo cháu nó đừng ác độc với con bé Hoa. Nó là con thánh thật đấy.
Bố mẹ thằng bé vâng dạ rối rít. Về đến nhà, chưa kịp cho uống tro bùa thằng bé đã khỏi. Từ đấy, bọn trẻ cạch, chẳng đứa nào còn dám trêu chòng con bé. Và người làng còn gọi bé Hoa là "con thánh".