ặc dù giữa anh rể tôi và tôi không có mối dây liên hệ tình cảm nào, nhưng từ sau ngày gặp gỡ Jonathan trong căn phòng bí mật đêm hôm đó, tôi cảm thấy kính trọng và mến anh hơn. Bây giờ tôi mới biết rằng công vụ mà Jonathan đang thừa hành và khiến anh phải vắng nhà thường xuyên, không phải là không quan trọng. Thái độ đôi khi nóng nảy của anh đối với những người trong gia đình, không làm tôi ngạc nhiên nữa, bởi vì anh đang bận tâm đến công việc đại sự. Tôi cũng kính trọng anh ở điểm đặt lòng tin nơi tôi sau hành động xâm nhập không thể tha thứ được của tôi vào căn phòng bí mật. Tôi chỉ tiếc rằng không tận mắt xem thấy cầu thang trong cột chống và căn phòng ngầm dưới đất, nhưng tôi không thể quá lạm dụng lòng tốt của anh. Tôi tưởng tượng thấy lại những tấm thảm che vách lung lay trước gió và cái lỗ lớn đen ngòm trong tường. Vào thời buổi ấy, chiến tranh đang lan tràn đến mức đáng lo ngại. Quân đội miền tây của chúng tôi được đặt dưới quyền chỉ huy tối cao của cháu Vua, tức ông hoàng Maurice, người chủ trương dốc toàn lực đánh một trận quyết định với quân nổi loạn. Ông hoàng Rupert, em của Maurice, cố gắng thuyết phục đức Vua gửi ngay đến miền tây vài ngàn kỵ binh, nhưng luôn vấp phải sự cản trở của Hồi đồng tư vấn. Do đó, kỵ binh không được đến. Chúng tôi biết được tin này qua lời kể của Richard đang sôi sục nóng nảy bởi vì chàng chưa nhận được một khẩu sung thần công nào mà thượng cấp đã hứa. Chàng tuyên bố thẳng thừng trước mặt mọi người rằng quân đội miền tây của chúng ta chỉ là một đạo quân ô hợp gồm toàn những người bệnh tật không làm được gì hết, rằng ông hoàng Maurice chỉ biết có ngồi chờ địch quân mở cửa mời vào. Nếu Essex và đạo quân phản loạn quyết định tiến về miền tây – Richard nói – thì chỉ gặp kháng cự của một đám lính bệnh hoạn và một vài tướng lãnh nghiện rượu. Tôi không thể làm gì với bốn người của tôi và một đứa trẻ ngồi chồm hổm trước thành Plymouth. Essex quyết định tiến quân về miền tây và vào khoảng tuần thứ ba của tháng sáu, địch quân đã có mặt ở Weymouth và Bridport. Ông hoàng Maurice, mà uy tín đã bị giảm, vội vã rút quân về Exeter. Ở đó, ông hoàng Maurice gặp Hoàng hậu, tức dì của ông ta, cũng vừa đến từ Bristol bằng kiệu để tránh lọt vào tay quân thù. Chính ở Exeter mà Hoàng hậu hạ sinh đứa con trai cuối cùng, và sự kiện này càng làm nặng gánh trách nhiệm cho ông hoàng Maurice và bộ tham mưu. Maurice quyết định nên đưa Hoàng hậu sang Pháp càng nhanh càng tốt, và cho rằng đó là giải pháp khôn ngoan nhất. Hai tuần sai khi sanh Hoàng tử, tuy còn yếu ớt và xanh xao, Hoàng hậu đã phải lên đường đi Falmouth. Anh rể tôi là một trong những người đứng nghênh đón Hoàng hậu khi đi qua Bodmin, và anh ta mô tả lại cảnh đáng thương của Hoàng hậu khốn khổ trong tình thế tuyệt vọng. - Hoàng hậu dù sao cũng chỉ là một người đàn bà – Jonathan nói – và anh rùng mình khi nghĩ đến số phận của ngài như thế nào nếu chẳng may rơi vào tay quân phản loạn. Đối với những người bảo hoàng ở Cornouailles này, ai cũng thở phào nhẹ nhõm khi được tin Hoàng hậu đã đến Falmouth mà không gặp trở ngại gì và đã lên thuyền đi Pháp. Essex và quân nổi loạn không ngừng tăng cường lực lượng. Trong lúc này chỉ có con sông Tamar ngăn cách chúng với Cornouailles. Người duy nhất thích thú thấy quân địch tới là Richard. - Nếu chúng ta dụ cho tên Essex này tới Cornouailles – Richard nói – một vùng xa lạ đối với Essex, nơi đó chỉ có những con đường mòn hẹp và những hàng rào cao. Trong trường hợp này, với đạo quân của đức Vua và của Rupert đánh sau lưng và cắt đứt mọi đường rút lui, chúng ta có thể bao vây và tiêu diệt quân địch dễ dàng. Tôi còn nhớ anh ta vui vẻ xoa tay vào nhau và cười như một đứa học trò ngày hôm trước kỳ nghỉ hè. Nhưng Jonathan và những vị khách khác tới dùng bữa ở Menabilly chiều hôm đó, không đồng ý với Richard. - Nếu có giao tranh ở Cornouailles – Francis Bassett nói – vùng này sẽ bị tàn phá. Francis Bassett cùng với anh tôi, có nhiệm vụ tuyển mộ binh lính chiến đấu vì đức Vua và nhiệm vụ đó khá khó khăn. - Xứ này quá nghèo không thể nuôi nổi một đạo quân – Francis nói thêm – Tốt nhất nên chận đánh chúng bên kia con sông Tamar. Chúng tôi tin tưởng nơi Richard và đồng Đội của anh giao chiến với địch quân ở vùng Devon và như thế tránh hiểm nguy cho vùng Cornouailles. - Này người nhân hậu – Richard nói trong khi Francis Bassett đỏ mặt vì thẹn và tất cả chúng tôi đều cảm thấy khó chịu – Tôi rất kính trọng những kiến thức của anh về nuôi bò và nuôi heo. Nhưng, lạy Chúa! Hãy để cho những người lính chuyên nghiệp chúng tôi nói về nghệ thuật tác chiến. Mục đích của chúng ta hiện nay là tiêu diệt quân thù, điều mà chúng ta không thể làm được ở Devon, vì địa thế nơi đó không thuận lợi cho việc bao vây. Một khi chúng qua sông Tamar, chúng mới bị mắc bẫy. Nỗi lo sợ duy nhất của chúng tôi là chúng sử dụng ưu thế của kỵ binh để tiêu diệt quân của ông hoàng Maurice ở đồng bằng trống, trong vùng Devon. - Như thế có nghĩa là anh chấp nhận cho vùng Cornouailles này bị san bằng – Jonathan nói – dân cư không có nơi trú ngụ và chịu khổ đau mà không được cứu trợ? - Quỷ bắt cái lâu đài của anh đi! – Richard nói – Các bạn của chúng ta có thấy đổ máu một chút thì đã sao nào? Nếu anh cảm thấy không đủ sức chịu khổ để phò đức Vua, thì cứ bắt tay với quân thù đi! Bầu không khí khá căng thẳng khi Richard nói xong và ít phút sau đó, mọi người rời khỏi bàn ăn. Điều lạ lùng mà tôi không thể giải thích nổi, là từ khi Richard trở về trong cuộc đời tôi, tôi ít xa lánh mọi người và có thói quen dùng bữa dưới nhà ăn, thay vì ở trên phòng như mọi khi. Không phải lúc nào tôi cũng thích cô độc. Sau bữa ăn chiều, trời chưa tối, Richard đẩy xe cho tôi đi dạo một vòng. - Nếu Essex tới gần Tavistock – chàng nói – và anh bó buộc phải thôi bao vây Plymouth, anh có thể gửi đến em con chó con của anh được không? - Chó con nào? – tôi ngạc nhiên hỏi – Em không biết anh có nuôi chó con. - Anh muốn nói thằng con của anh đấy. Em có thể lo cho nó giùm anh và thử dạy bảo Đôi đều cho cái đầu óc ngu đần của nó được không? - Em sẵn lòng nếu anh nghĩ rằng nó hạnh phúc khi ở với em. - Anh biết chắc rằng về ở với em, nó sẽ sung sướng hơn ở với bất cứ người nào khác trên đời này. Dì Abbot của anh ở Harland thì quá cao tuổi còn vợ của Bevil tức chị dâu của anh ở Stowe thì quá hãnh diện với bầy con của chị khiến anh không muốn gửi con anh vào nhà đó. Vả lại, chị ấy cũng chưa bao giờ tỏ vẻ quan tâm đến anh. - Anh nói chuyện này với Jonathan chưa? - Nói rồi. Anh ta đồng ý. Nhưng anh tự hỏi em làm thế nào với thằng Dick? Nó đần Độn lắm. - Em sẽ yêu nó, Richard, bởi vì nó là con của anh. - Nhìn thấy nó, anh cũng phát chán. Lúc nào nó cũng tỏ vẻ sợ sệt, nhút nhát. Người thầy giám hộ nó, cho anh biết rằng chỉ hơi sướt da là nó đã bật khóc rồi. - Dick mới gần mười bốn tuổi – tôi nói – đừng nên đòi hỏi nó nhiều quá. Hãy cho nó một hay hai năm để tập tính dạn dĩ. - Nếu nó giống mẹ nó, anh sẽ đuổi nó ra khỏi nhà – Richard nói – Anh không thích những đứa khóc nhè ở gần anh. - Nhưng, mẫu người như anh khiến nó không thể bắt chước được. Nếu em là nó, em không muốn có một người cha mang tiếng “chồn khát máu” như anh. - Nó đã đến tuổi dậy thì – Richard nói – Quá lớn để được nuông chiều và quá nhỏ để nói chuyện phải trái. Kể từ hôm nay, Honor, nó thuộc quyền em. Anh sẽ dẫn nó đến đay, tuần tới. Như đã thỏa thuận, với sự đồng ý của Jonathan, Dick Grenvile và người giám hộ là Herbert Ashley đến Menabilly, làm tăng thêm dân số trong nhà. Ngày họ đến tôi cảm thấy vui vẻ lạ lùng và cùng đi với chị Mary xem xét căn phòng dành riêng cho họ bên dưới cái tháp đồng hồ. Tôi đã dành một phần lớn thời gian để sửa soạn trang phục – mặc chiếc áo màu xanh mà tôi ưa thích nhất – và ngồi cho Matty chải tóc. Tôi tự cảm thấy thật khôi hài khi phải mất thì giờ vì một cậu bé chẳng họ hàng gì với tôi. Gần một giờ trưa, tôi nghe tiếng vó ngựa trong hoa viên. Sốt ruột, tôi nhờ Matty kêu hai người hầu đưa tôi xuống dưới tầng trệt. Tôi muốn gặp Dick trong vườn vì nghĩ rằng ở ngoài trời, dưới ánh nắng, dễ nói chuyện thông cảm hơn là ở giữa bốn bức tường. Tôi ngồi đợi trong vườn, thì chợt cổng rào mở. Một thanh niên đi ngang qua thảm cỏ, tiến tới trước mặt tôi. Dáng người nó cao lớn, với những lọn tóc hồng nâu của họ Grenvile, cái mũi xấc xược và vẻ cứng cỏi khiến tôi nhớấu miệng như Temperance Sawle cũng nín thinh. Những người thuộc họ Sparke đánh cờ và chỉ thì thầm với nhau. Will Sparke, người hay tung tin xuyên tạc đi cờ với vẻ lơ đễnh. “Quân nổi loạn đã vượt qua sông Tamar chưa?” Tôi tin rằng ai cũng bị ám ảnh bởi câu hỏi đó. Trong khi Mary, Alice và Joan ngồi thêu, tôi khẽ đọc truyện cho Dick nghe, lòng phân vân tự hỏi địch quân vượt sông ở Saltash hay ở Gunnislake. John nóng lòng, không thể ngồi yên chờ đợi, đã đi Fowey để thăm dò tin tức. Khoảng chín giờ, John trở về, cho hay rằng thành phố hầu như không có một người. Tất cả đàn ông đã đi về hướng bắc để nhập vào đạo quân của đức Vua. Những người ở lại thập thò bên ngưỡng cửa. Có tin đồn rằng Grenvile và lực lượng đã bị đánh bại ở Newbridge, bên dưới Gunnislake, trong khi Essex và gần một quân tiến vào Launceston. Tôi còn nhớ, khi nghe nói thế, Will Sparke nhảy dựng lên khỏi ghế, la lớn: - đấy, tôi nói không sai mà! Có dụng trận mới biết Richard không đáng làm chỉ huy. Dù cho lực lượng của đối phương thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể chặn chúng lại tai Gunnislake, đằng này Richard Grenvile bỏ chạy có cờ, không chút bận tâm đến việc phòng thủ vùng Cornouailles. Hắn thật hoàn toàn tương phản với người anh của hắn! - Này, người anh họ! đó chỉ là tin đồn – John nói vừa ném tia nhìn lo lắng về phía tôi – chưa ai ở Fowey xác nhận tin ấy là xác thực. - Tôi bảo đảm với anh rằng thế là hết – Will trả lời – Vùng Cornouailles này sẽ bị tàn phá, nghiền nát, như ngài Francis Bassett đã nói trước đây. Tôi quan sát Dick đang nuốt những lời nói đó, mắt sáng ngời. - Ông ấy nói gì thế? – nó khẽ hỏi tôi. - John Rashleigh đã nghe người ta đồn rằng bá tước Essex đã tiến quân vào Cornouailles mà không gặp kháng cự nào đáng kể. Chúng ta hãy chờ tin tức chính thức. - Cha cháu đã bị giết rồi chăng? - Không, Dick. Không ai nói thế. Dì tiếp tục đọc truyện cho cháu nghe nhé? - Vâng, thưa dì. Tôi lại tiếp tục đọc truyện, trong lòng lo lắng cho Richard. Chàng đã bị đánh bại trên đường lên Gunnislake. Người của chàng bỏ chạy khắp mọi hướng, hoặc bị bắt làm tù binh và bây giờ chắc đang bị cực hình tra tấn ở Launceston. Tuy khá hiểu chiến thuật của Richard là cố ý rút lui để dụ Essex vào Cornouailles, nhưng tôi vẫn mong sao chàng đánh thẳng quân thù ngay tại Devon hơn là để chúng tràn ngập vào đây. Đêm hôm đó, tôi không ngủ được. Không biết tí gì về sự thật bên ngoài, là một cực hình tra tấn tinh thần đối với tôi. Ngày hôm sau, trời vẫn nóng nực và oi như ngày hôm trước. Vẫn không có tin tức nào. Tất cả đều yên lặng một cách lạ lùng, kể cả loài quạ thường kêu oang oác ngoài hoa viên. Vào khoảng gần trưa, chúng tôi lại tụ họp trong phòng ăn để dùng vài miếng thịt nguội. Chợt chị Mary thốt lên: - Có một người kỵ sĩ đang băng qua hoa viên về hướng chúng ta! Mọi người kêu lên một tiếng và chạy ra cửa sổ, John, đôi môi hơi tái, bước ra sân để đón người khách. Viện kỵ sĩ dừng bên dưới các cửa sổ. Mặc dù người anh ta lấm đầy bụi đường, tôi vẫn nhận ra Joe Grenvile. - Tôi mang một bức điện cho cô Honor Harris – anh ta vừa nói vừa nhảy xuống ngựa. Cổ họng tôi thắt lại, hai bàn tay toát mồ hôi. “Chàng đã chết – tôi nghĩ thầm – Chắc chắn thế” - Nhưng cuộc chiến thế nào? Loạn quân đang ở đâu? – Những câu hỏi của Nick Sawle và Will Sparke tuôn xuống như mưa trên đầu chàng trai. Joe phải xô đẩy mấy người đó ra, mới tới gần tôi. - Essex sẽ vào Bodmin khi hoàng hôn xuống – Joe nói vắn tắt – Chúng ta đã đánh bại mặt trận thăm dò với quân của hầu tước Robartes ở bên dưới Lostwithiel. Chúng ta đã rút lui về Truro, nơi đó ngài tư lệnh Richard có ý định thành lập những đạo quân mới. Tôi đến chỉ để mang lá thư cho cô Honor Harris. - Essex sẽ vào Bodmin?- Temperance Sawle hoảng hốt kêu lên và sau đó chắp tay cầu nguyện Thượng đế. Bàn tay tôi run run xé bao thư. “Em yêu. Mồi câu thật hấp dẫn và con cá nhỏ bất cẩn đã há miệng. Essex sẽ đến Bodmin tối nay và có lẽ ngày mai đến Fowey, Essex và tên cố vấn ngu đần là Robartes sẽ đớp mồi, lẫn cần câu và chì. Từ Truro, phe ta sẽ đánh thọc sườn chúng. Đức Vua, Maurice và Ralph Hopton sẽ từ phía đông đánh sang. Đức Vua đã tiến đến Tavistock. Con cá sẽ bị đưa lên cạn. Trước tình hình này, tốt nhất em gãy gởi con chó và viên giám hộ của nó về đây cho anh. Anh đã giao những huấn thị cho Joe. Về phần em, cứ ở yên trong phòng, em yêu dấu, và đừng sợ. Anh sẽ đến ứng cứu em ngay sau khi tình hình cho phép. Cho anh gửi lời kính trọng đến chị của em và toàn thể gia đình. Người hầu tận tụy của em. Richard Grenvile” Tôi cất lá thư vào trong ngực áo, đoạn quay sang Joe. - Ngày Richard vẫn khỏe chứ? - Chưa bao giờ tướng Richard sung sức như lúc này- nó nhếch mép nói – Nếu dì nghe tin thất trận ở Newbridge, dì đừng chú ý gì đến những lời đồn đại đó. Tôi yêu cầu nói chuyện riêng với Joe. Cả hai chúng tôi vào trong khu vườn mùa đông. - đối với Dick, chúng ta phải làm sao? – tôi hỏi. - Theo ý ngài Richard, chúng ta phải cho Dick và ông Ashley lên một chiếc thuyền Đáng cá để đi St. Mawes. Cháu có mang theo tiền để thuê ghe. - Khi nào họ phải ra đi? - Càng sớm càng tốt. Cháu sẽ trông coi việc này và tháp tùng họ đến tận bãi biển. Sau Đó, cháu sẽ trở lại gặp ngài Richard. - Không nên để mất thì giờ - tôi nói – Dì sẽ nói với John Rashleigh đi với cháu đến Polkerris. Anh ấy biết chọn những người thân tín. Tôi gọi John và nhanh chóng cho nó biết kế hoạch. John lên ngựa đi ngay tới Polkerris, trong khi đó tôi yêu cầu Herbert Ashley đến cho tôi nói chuyện. Ông ta đến, mặt xanh như tàu lá, bởi vì ông ta đã nghe tin quân của Grenvile bị đánh tan. Viên giám hộ tỏ vẻ nhẹ nhõm khi tôi báo cho biết rằng ông sẽ đi ngay với Dick, bằng đường thủy chứ không phải đường bộ. Ngay tức thì, ông ta chạy đi thu xếp hành lý và hứa với tôi sẽ sẵn sàng trong một giờ nữa. Bây giờ tôi chỉ còn có việc nói chuyện với “cái bóng” của tôi. - Dick – tôi nói với nó – Dì muốn thấy cháu tỏ ra gan dạ và thông minh. Kẻ thù sẽ có mặt ở đây trước ngày mai và Menabilly sẽ bị chiếm đóng. Cha của cháu nghĩ rằng tốt nhất không để cháu bị chúng bắt ở đây. Dì đã dàn xếp với John Rashleigh để tổ chức cho hai thầy trò cháu đi St Mawes bằng thuyền. Ở đó, cháu sẽ được bình an hơn. - Dì có cùng đi với cháu không? – nó hỏi. - Không, Dick. Đây là kế hoạch bất ngờ chỉ nhằm vào cháu. Dì ở lại Menabilly với những người khác. - Nếu vậy, cháu cũng ở lại. - Không, Dick. Dì phán đoán tình hình sáng suốt hơn cháu. Cháu phải đi. - đi gặp lại cha cháu? - Dì không biết nói làm sao. Thuyền sẽ đưa cháu đến St Mawes. Thế thôi. Nó không phản đối nữa. Vẻ mặt nó đanh lại, nó đi gặp người thầy của nó. Tôi cảm thấy se lòng. Trong hành lang, mọi người bàn tán. Mắt ai cũng quầng thâm, má hóp vì sợ hãi. - Lẽ ra nếu chạy về Truro vẫn còn kịp – Will Sparke nói – Nhưng Jonathan đã lấy hết ngựa rồi. Nick Sawle đứng dậy nói lớn: - Vợ chồng tôi đề nghị chúng ta hãy ở lại. Kẻ nào hèn nhát thì cứ việc bỏ chạy rong trên đường nếu muốn, nhưng chúng ta không nên trả ơn người anh họ Jonathan của chúng ta bằng cách bỏ nhà hoang như những con chuột trước khi đắm thuyền. Chị Mary nhìn tôi với vẻ tuyệt vọng. - Honor, em khuyên chúng ta phải làm gì? Nên đi hay ở lại? Anh Jonathan không nói gì với chị hết. Anh ta cứ đoan chắc rằng quân thù sẽ không qua sông Tamar. - Lạy Chúa! – tôi trả lời – Nếu chị muốn trốn trong những hố rãnh ngoài đường với đàn gia súc, thì tùy ý chị, nhưng em dám chắc rằng không nơi nào tốt nhất bằng ở nhà. Thà chết đói trong nhà còn hơn ngoài hàng rào. - Chúng ta còn nhiều thực phẩm – Mary nói vừa lấy lại hi vọng – Chúng ta sẽ không thiếu gì hết, trừ phi cuộc bao vây quá lâu. Mary quay lại hỏi ý kiến các cô gái đang bận bịu dỗ dành đàn con thơ. Tôi thấy không nên làm họ thêm lo lắng nếu nói thẳng ra rằng một khi giặc đã vào nhà, thì lương thực cũng sẽ bị vét sạch. Tháp chuông điểm ba giờ khi hai thầy trò Dick đã sẵn sàng khởi hành. Đứa trẻ trông vẻ ủ rũ, và quay đầu đi khi tôi định chào tạm biệt nó. Frank Penrose tháp tùng hai thầy trò đến tận Polkerris, ở đó đã có John Rashleigh và Joe Grenvile đang thu xếp cho họ ra khơi. Sự lo lắng và mệt mỏi làm tôi thêm đau đớn và tôi chỉ mong trở về phòng để nằm dài ra trên giường. Matty, Joan và Alice đưa giúp tôi lên phòng. Ánh sáng mặt trời lọt vào cửa sổ hướng tây. Căn phòng nóng nực, ngộp thở. Tôi nằm không yên trên giường ẩm thấp, chỉ ước ao được làm đàn ông để phi ngựa đi Truro, thay vì tức tối nằm liệt một chỗ chờ bước của quân thù. Tôi ngủ cũng được khoảng một tiếng và bắt đầu tìm quên lãng trong giấc ngủ thì nghe tiếng vó ngựa trên hoa viên. Tôi gọi Matty và hỏi xem ai đấy. Matty bước tới cửa sổ nhìn xuống. - John đấy, thưa cô – Matty nói bằng giọng xúc cảm – Có lẽ có chuyện chẳng lành. Chưa gì tôi đã thấy tuyệt vọng. Có thể những người ngư phủ ở Polkerris không chịu ra khơi. Tôi nghe tiếng bước chân của John. Trong lúc gấp rút, nó vào phòng, quên cả gõ cửa. - Chúng cháu đã lạc mất Dick – nó nói to – Dick đã bỏ trốn mất và không sao tìm ra nó Được. John đứng trước mặt tôi, trán nó ướt đẫm mồ hôi, toàn thân run lên. - Cháu nói gì? Chuyện xảy ra thế nào? – tôi hỏi nhanh vừa nhổm dậy. - Chúng cháu đã ra đến bãi biển. Ở trên ghe, có một phòng nhỏ và chính cháu thấy Dick bước xuống, tay xách ba lô. Ngay trước khi nhổ neo, có người đến bảo rằng quân kỵ binh của đối phương đã cắt đứt đường đi Castledore và Plomcar đang bị bao vây. Nghe nói thế, mọi người bắt đầu giương buồm lên, Joe Grenvile quay lại nói với cháu rằng anh ta cũng sẽ đi bằng đường thủy. Nói xong, anh ta đã phóng ngựa xuống nước, tiến về vùng nước cạn ở hướng tây. Nước chỉ ngập đến bụng ngựa. Có lẽ bây giờ anh ta đang ở Gosmoor. - Nhưng còn Dick? Cháu nói rằng đã lạc mất Dick mà? - Chính mắt cháu trông thấy Dick bước lên ghe – John quả quyết lập lại – Nhưng lúc ấy mọi người hướng chú ý về Joe Grenvile. Thật là một hành động liều lĩnh, thưa dì, bởi vì nước chảy rất xiết, giữa Polkerris và những cồn cát. Sau đó, Ashley, thầy của Dick la toáng lên rằng không thấy Dick đâu. Mọi người tìm khắp ghe từ mũi đến đuôi cũng không thấy nó đâu. Trên bãi biển cũng không thấy bóng dáng nó. Vậy phải làm sao, thưa dì? Tôi cũng không biết phải làm gì hơn. Tôi rất khổ tâm vì không làm tròn nhiệm vụ mà Richard giao phó. Quân giặc chỉ còn cách chúng tôi không tới hai dặm. - Bây giờ ghe đang ở đâu? – tôi hỏi. - Ở ngoài khơi và đang đợi hiệu lệnh của cháu. John nói – nhưng người thầy chết nhát của Dick chỉ mong tới St Mawes thật nhanh. Bây giờ có tìm ra được thằng bé, cháu nghĩ rằng cũng đã quá trễ. - Bây giờ cháu và Frank Penrose hãy tìm kiếm Dick khắp núi đá ven biển, khắp các vườn, các đồng cỏ. Tôi gọi Matty đẩy xe tôi ra ngoài đường đê, và không hé một lời với ai về biến cố này.