Bất ngờ, ngựa Văn Thông bị vấp chồn vó lại nên mũi kích không trúng đích. Ngựa Thúc Bảo bỏ cách xa ngựa Văn Thông một quãng. Thúc Bảo mệt vô cùng nằm bẹp trên yên mà thở, tình cảnh thật đáng thương. Ngụy Văn Thông muốn bỏ quay về nhưng lại sợ Dương Lâm hạch tội đã đồng mưu với Thúc Bảo nên mở cửa quan cho trốn, nên cứ bám riết lấy Thúc Bảo mà mong bắt sống.Ngờ đâu gặp một cái cầu gỗ đã gẫy hai ba nhịp. Thúc Bảo biết sức ngựa mình qua được, liền gò chặt cương vụt hai roi. Long câu hí vang lên, cất vó băng mình nhảy.Chẳng may lực người đã kiệt, sức ngựa cũng hết rồi, nên long câu không thể vượt sang bờ được, ngã xuống sông, hai chân chôn chặt xuống mặt bùn lau sậy Ngụy Văn Thông phi đến cả mừng, giơ đao chém với. Số Thúc Bảo chưa tuyệt mệnh. Bỗng đâu từ một gốc cây bên kia sông, một tướng cưỡi ngựa giương cung bắn trúng cánh tay phải Văn Thông. Tướng ấy gọi bảo rằng:- Ta bắn nốt cánh tay trái đây này.Tức thì mũi tên bay vút tới cắm ngập vào tay trái, Văn Thông kêu to một tiếng “Ối chao!”, đang luống cuống chưa kịp nhổ tên ở hai bên tay thì người kia lại nói:- Ta bắn trúng rốn mày đây!Người ấy giương cung, Văn Thông không còn hồn vía quất ngựa chạy xuống cầu trốn mất.Người ấy là ai? Đó là Bá Dương, mà tài cung tên chẳng kém Dương Do Cơ thuở trước! Thúc Bảo đứng trên yên nhảy sang bờ, rồi dắt ngựa lên:- Tại sao hiền đệ ở đây?Bá Dương nói:- Từ đại ca xem độn biết đại huynh mắc nạn ở đây, sai tiểu đệ đứng chờ từ sáng sớm.Thúc Bảo cả mừng, hai người cùng sóng ngựa về. Hai hôm sau, đi tới ải Kim Đê, chợt thấy cát bụi bay mù, tới nơi mới biết là Từ Mậu Công đã cùng các hảo hán tiến đánh ải Kim Đê. Khi đó, Trình Giảo Kim giao chiến với tướng trấn ải là Hoàng Công Nghĩa. Công Nghĩa khỏe lạ lùng. Giảo Kim bị đánh một roi vào cánh tay, kêu đau mà chạy.Thúc Bảo múa thương xông lên đánh, Công Nghĩa đem hết tài năng ra đối địch. Chừng ba mươi hiệp, Công Nghĩa thấy thương pháp của Thúc Bảo giỏi lắm bèn dùng miếng “Đà đao” của Quan Vân Trường nhử Thúc Bảo đuổi theo. Thúc Bảo đã biết miếng độc thủ ấy, thúc ngựa nhảy vót lên giơ thương đánh chặn ngọn đao của Công Nghĩa xuống, tay kia rút giản chập đôi lại đánh vào đầu Công Nghĩa đứt băng đi, cái mình không sọ rơi xuống, miếng đó gọi là “Sát thủ giản!”, nhân miếng “Đà đao” của kẻ địch mà dùng vậy.Quân sĩ mất chủ tướng hò nhau chạy. Cửa thành mở rộng ra xin hàng. Thúc Bảo, Bá Dương vẫy Giảo Kim xông vào chiếm ải. Thúc Bảo vào trong đại dinh thấy mẫu thân bèn quỳ lạy và an ủi. Sau đó Từ Mậu Công cho binh nghỉ ba ngày. Ngày thứ tư sai Dã Nhuận Phủ và Liễu Chu Thần cầm một ngàn quân giữ Kim Đê, còn đại binh dùng tiến đánh Ngõa Cương.Cách Ngoa Công ba dặm, Mậu Công hỏi:- Tướng nào đánh Ngõa Cương lấy công đầu?Giảo Kim xin đi. Mậu công dặn nên cẩn thận. Kim vác búa xông ra giữa trận thét mắng.Tướng trấn ải là Mã Tam Bảo hỏi chư tướng:- Ai ra đuổi giặc cho ta?Em ruột Mã Tam Bảo là Mã Tôn xin ra. Tới trận tiền thấy Giảo Kim vác búa to, mặt mũi như quỷ dạ xoa, có ý kinh hãi lắm. Hai người xưng tên họ rồi Giảo Kim giơ búa bổ liền. Mã Tôn giơ đao đỡ chăng ngờ cánh tay Mã Tôn kêu rắc một tiếng gẫy xương mà chiếc đao bắn đâu mất. Mã Tôn cuống quýt nhảy xuống chui vào bụng ngựa trốn. Giảo Kim giơ búa bổ chết cả người lẫn ngựa.Kim ngửa cổ cười sằng sặc, lại đến cửa ải sỉ mắng. Mã Tam Bảo cả kinh hỏi:- Ai ra trả thù cho em ta?Mã Hữu Chu là em thứ ba khóc mà rằng:- Em xin ra trả thù cho nhị huynh.Bèn lên ngựa, phóng ra, chẳng nói chẳng rằng phóng giáo đâm Giảo Kim. Kim né mình một tay nắm chặt ngọn giáo một tay bổ một nhát, xẻ Hữu Chu làm hai mảnh như chẻ nứa.Tin ấy báo về ải. Mã Tam Bảo đứng lên:- Bản soái quyết cùng giặc sống chết một trận này. Thấy ta thua thì các người nên mau mở cửa sau cho dân chúng thoát.Các tướng khóc mà nghe lời thu thập hành lý gia quyến sắp sẵn ở cửa sau, để trốn lên núi sang bên kia rừng rậm.Tam Bảo ra quát hỏi:- Tên nào là Trình Giảo Kim, mau nộp mạng đền cho hai em ta?Giảo Kim cười sằng sặc:- Tốt lắm, chúng mày những ba anh em. Để lão gia cho đì tìm ông vải cùng một lúc.Dứt lời lưỡi búa sáng lòe lợi hại như tầm sét thiên lôi véo xuống đầu Tam Bảo. Bảo giơ chùy đỡ, chùy bật đi, cả người ngựa Tam Bảo chúi xuống. Bảo kêu to:- Giặc này giỏi thật.Rồi chạy ngoắt lên núi, cung các tướng và gia quyến bỏ ải quan mà trốn chạy.Giảo Kim toan đuổi theo giết, nhưng Từ Mậu Công vội sai đánh trống thu quân. Các hảo hán vào thành xem xét kho lương, yết bảng chiêu dân, mở tiệc khánh hạ và ghi công Giảo Kim vào sổ. Rượu đang vui thì thốt nhiên trời rung đất chuyển, một tiếng nổ làm mọi người tưởng núi vỡ thành tan.Quân vào báo:- Ở góc phía đông giáo trường, đất rung lên rồi nứt ra một cái hang sâu lắm.Từ Mậu Công và các tướng ra xem thấy một cái hang thăm thẳm, tối mịt mù gió rít vọng lên như ma hờn quỷ khóc. Mậu Công sai lấy sợi dây thật dài buộc con chó, con gà thả xuống, nói rằng:- Hễ dưới hang có ma quỷ thì mất gà chó, ví còn nguyên là thần huyệt báo cho ta một điềm hay.Giảo Kim nói:- Tôi chắc là địa ngục Diêm Vương thù ghét chúng ta sắp sai quỷ lên lôi chúng ta xuống mà chôn sống đó.Một lát, kéo dây lên, gà chó còn nguyên, chỉ có cóng vì giá rét. Mậu Công yên trí nói:- Quyết là thần huyệt, có ai dám xuống do thám xem có vật gì khác lạ chăng?Giảo Kim lè luỡỉ:- Ai dại gì xuống đia ngục cho quỷ nó bỏ vào vạc dầu sôi. Đại ca xuống trước xem.Mậu Công nói:- Bây giờ bỏ thăm, viết ba mươi bảy cái dấu niêm phong kín, ba mươi sáu cái có chữ bất khứ, một cái có chữ khứ. Ai gặp phải chữ khứ thì bất luận là trên dưới, già trẻ, cứ việc ngồi vào thúng thả xuống, hễ cãi tất dùng quân luật chém đầu.Mọi người khen phải, xin rút thăm. Ngờ đâu đến lượt Giảo Kim rút thăm sau cùng, phải ngay chữ khứ.Kim ngớ mặt ra, lại nhìn thanh kiếm để sẵn trên bàn, đành chịu phép thở dài sườn sượt, cầm búa ngồi vào thúng. Trước khi thả xuống, Giảo Kim nắm lấy Vưu Tuấn Đạt, nói rằng:- Chỉ tại cái thằng giặc cướp này khéo dụ dỗ ta, thà cứ mặc lão gia bán muối kiếm ăn ngoài chợ lại hóa ra không đến nổi phó thân cho quỷ sứ. Ta còn một mẹ già, ta từ nay xuống suối vàng rồi, ngươi phải nuôi mẹ ta cho chu tất, kẻo ta hiện vế bóp ngươi lè lưỡi đó.Mọi người đều phải phì cười. Kim trừng mắt quát:- Các anh cười gì, ta thì bổ chết hết bây giờ.Không ai nhịn được cười, xúm lại buông dây thả Giảo Kim xuống hố.Trước còn nghe nhạc ở miệng thúng leng keng và tiếng Giảo Kim lảm nhảm, sợi dây càng xuống chỉ còn nghe tiếng gió lạnh xoáy từng cơn bốc mãi lên. Sợi dây dài đã hết vẫn chưa thấy thúng chạm vào lòng đất, chúng phải hò nhau nối dây thêm nữa, giờ lâu mới tới nơi.Giảo Kim nhảy ra ngoài sọt chỉ thấy nước chảy ri rỉ, tiếng gió hun hút như ngàn lau, bãi sậy, sờ mò mãi hai lạch nước buốt cóng, đến một khoảng đất rộng có cây cổ thụ, có hoa, có bướm, có ánh sáng, có cả vết chân người, chân vật, Giảo Kim hoảng sợ cầm chắc đôi búa, theo vạch ánh sáng xanh biếc mà đi theo mấy hàng cây rậm, đến cái cầu đá chênh vênh dưới cầu có đôi rồng xanh uốn khúc trong dòng nước trong thơm ngát. Đầu cầu thấy tảng đá xanh. Trên cầu, ai đặt sẵn một chiếc mũ bình thiên rồng vàng chầu hạt ngọc, một chiếc áo long bào Thiên tử, một chiếc đai ngọc bích và đôi hia thêu ngũ phượng tên gọi là Vô Ưu Lý.Giảo Kim thích chí nghĩ thầm: tự nhiên vỡ đất, tự nhiên gắp thăm đúng tên ta. Thế là trời cho ta hưởng cái lộc này! Mặc chơi để lát nữa lên cho chúng sợ lão Kim này.Đoạn đội mũ, mặc áo, đi hia. Rồi đứng giữa cầu soi xuống dòng nước trong như gương sáng tưởng mình là Thiên tử, Giảo Kim cười vang cả động. Sau đó Kim ngất ngưỡng tìm về cái thúng, cầm chuông rung rối rít lên. Nhưng chợt thấy một con chim vàng bay theo, nhả một phong giấy đỏ vào trong thúng rồi hay mất. Kim không biết chữ, cầm phong giấy giắt kỹ vào trong bọc. Trên hố, nghe tiếng nhạc reo, các hảo hán xúm lại kéo lên. Một lát thúng lên, mọi người tròn mắt nhìn Giảo Kim:mũ Thiên tử đằng trước ra đằng sau, mặc áo Thiên tử đằng sau ra đằng trước. Các hảo hán reo lên ầm ĩ, hỏi sự tình dưới hang sâu vực thẳm.Giảo Kim chưa kịp đáp, thì mặt đất rung chuyển, cái hang liền ngay lại. Giảo Kim lè lưỡi ôm đầu nói.- Ta mà không hiền lành nhân đức như Phật tổ Như Lai thì ắt là bị vùi sâu một nấm rồi! Thực là trời có mắt Chúng hảo hán vòng tay kiệu Giảo Kim vào đại sảnh. Ngồi chễm chệ ngồi trên ghế cao, moi phong giấy đỏ đưa cho Mậu Công xem. Mậu Công vừa đọc vừa suy nghĩ. Một dòng chữ trên bị nước làm nhòe. Còn ba câu dưới:“...Một Đường đi qua một Đường sinh; Bốn cõi tám phương bao nhiêu đế.Trị đời yên nước có hai Tần.”Sau tờ giấy đó, có dòng chữ son lóng lánh:“Ba năm làm đảo điên thiên hạ, Trình Giảo Kim tụ nghĩa binh làm Hỗn Thế Ma Vương”.Mọi người hỏi chữ nghĩa. Từ Mậu Công khẽ đáp:- Việc thiên cơ sẽ ứng dần dần, ta chớ nên tiết lộ.Giảo Kim nhảy như khỉ múa trên ghế chéo:- Trời đã định thế thì lão kim đây tất là con của Ngọc Hoàng. Mau tôn ta làm vua cho bõ lúc đóng khố bán rổ rá trong các chợ.Mậu Công nói:- Đại huynh nhất đán ngồi ngai chúa tể, e các tướng sĩ không phục thì quân lính tất chẳng nghiêm. Bây giờ, xin đem lá cờ soái ra cắm giữa sân, hễ ai khấn vái cho lá cờ đó bay lên thì ngươi ấy dáng vì Thiên tử đó.Tức thì làm ngay. Ai cũng khấn, lá cờ đứng im. Giảo Kim vừa chắp tay vái, bỗng gió thơm lồng lộng thổi, mây vàng kéo đến, chim lạ hót líu lo, mà lá cờ đại súy bay cuồn cuộn như sóng bể tung múa, bay lên coi như phượng múa, rồng bay.Mọi người cả kinh, quỳ cả xuống lạy trời đất báo ứng điềm hay đoạn sụp lạy Trình Giảo Kim, tung hô vạn tuế ngay dưới thanh thiên bạch nhật.Từ đó, Mậu Công đổi đại sảnh là hoàng cung, và xin Giảo Kim đặt cho quốc hiệu. Kim nói:- Trời đã định cho ta làm chúa tể ba năm quấy rối thiên hạ như Hoàng Sào ngày trước, thế thì xưng là Hỗn Thế Ma Vương cho xong quách.Từ Mậu Công và mọi người lại tung hô vạn tuế. Hỗn Thế Ma Vương phong cho Từ Mậu Công và Ngụy Trưng làm tả hữu thừa tướng kiêm chức Hộ quốc quân sư, Tần Quỳnh làm Đại nguyên soái, còn những hảo hán đều phong tướng hết.Mọi người vui vẻ. Hỗn Thế Ma Vương truyền ban ngự yến. Đàn nhạc du dương. Chợt thám tử về phi báo:- Muôn tâu Đại vương, hiện có mười vạn quân của quan tiết độ sứ Đường Bích đóng ở mặt đông, khí thế xem ra mạnh lắm, xin Đại vương định liệu.Lại có thám tử vào báo:- Muôn tâu Đại vương, nay có quan Tổng binh ải Lâm Ứng là Thượng Tư Đồ đem mười vạn đại quân đóng kín mặt Nam trại Ngõa Cương.Lại có tin cấp báo:- Muôn tâu Đại vương có Tổng binh ải Hồng Nê tên là Tần Văn Lê đem năm vạn binh đóng kín cả mặt bắc, đang sửa soạn vây trại Ngõa Cương vào giữa.Một lúc ba đạo binh kếo đến, khiến Hỗn thế Ma vương rụt đầu lè lưỡi tháo mũ bình thiên ném xuống án mà rằng:- Thế này thì số ta làm vua có một giờ, thôi thôi ta lại về đi buôn muối vậy.Các tướng chưa kịp khuyên can, lại có thám tử hốt hoảng vào quỳ báo:- Cô Sơn vương Dương Lâm cử đại hùng binh, gươm giáo lừa ngựa nhiều như kiến, chỉ còn xa Ngõa Cương trăm dặm.Đến tin này thì Giảo Kim cởi phăng áo rồng, thoát bỏ hia phượng ném tót xuống đất mà la lớn:- Ối chao ôi, trời không cho thằng lái muối này hưởng phú quý thật rồi. Ngôi Hoàng đế đã không thành, nay nhất đán chống chọi với bốn mười vạn binh mã thì mấy chục mống ở cái ải bé con này chỉ một đêm là chúng bóp tan ra cám mất. Tốt hơn là mỗi thằng đi một ngả cho xong.Nói rồi cuống quít toan cởi cả quần lụa hoa vàng ném trả. Mọi người xúm lại khuyên can. Mậu Công nói:- Xin chúa công cứ bình tĩnh, làm thế quân sĩ sẽ chê cười, giặc đến thì ta đánh, có sợ chi. Nay chúng thần hãy phò chúa công ra cửa bắc, hạ thần sẽ dùng ba tấc lưỡi thuyết cho Thượng Tư Đồ lui binh. Nếu hắn lui rồi, Tần Văn Lễ không đánh cũng phải về. Con Đường Bích, Dương Lâm, hạ thần sẽ có kế sau Nghe nói vậy, Giảo Kim mới an lòng, sai lấy giáp trụ ra mặc, cầm búa lên ngựa. Các tướng đi hộ vệ chung quanh cờ thêu rồng phượng, lọng vàng tàn tía, mở cửa ải kéo quân ra.